Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Tìm hiểu thực tế và nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường tại TP. Hồ Chí Minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 89 trang )

Đỗ Văn Đỉnh
GIỚI THIỆU CHUNG
Trong thời đại khi mà vấn đề ô nhiễm môi trường luôn là mối quan tâm đáng chú ý
nhất của cả toàn thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng thì vấn đề về vệ sinh môi
trường cũng cần được đặt lên hàng đầu. Thành phố Hồ Chí Minh, là một vùng đất
đầy tiềm năng, đang trên đà phát triển thu hút nhiều nhà đầu tư trên khắp thế giới
cũng như doanh nghiệp nước nhà, kéo theo đó là rất nhiều nhân khẩu từ khắp đất
nước đổ về thì vấn đề môi trường càng đáng quan tâm. Với dân số đông, mật độ dân
số dày đặc thì lượng chất thải thải ra hằng ngày là một con số đáng báo động. Thêm
vào đó ý thức của người dân về vệ sinh môi trường còn kém, rác thải vẫn còn vứt
bừa bãi không đúng nơi qui định, nước thải sinh hoạt còn đổ trực tiếp ra sông, góp
phần gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe của chính mình. Trong
những con hẻm ở các đường trong thành phố chúng ta gặp không ít những đống rác
đã bốc mùi hôi thối, phân động vật và cả người, trong những hẻm đó đôi khi còn có
những quán hàng rong bán đồ ăn uống mà người ta vẫn ngồi ăn một cách rất thản
nhiên, gây mất cảnh quan đô thị, ô nhiễm không khí… và cả dịch bệnh, họ chưa
nhận ra rằng chính những hành động của mình là đang hại chính mình và đang hủy
hoại môi trường sống. Những thiết bị thu gom, xử lý rác còn thô sơ, hạn chế về mặt
kỹ thuật và quản lý nên tình trạng ô nhiễm ngày càng trầm trọng hơn. Vì thế đã có
nhiều biện pháp tích cực trong việc giải quyết vấn đề vệ sinh môi trường nhưng cũng
không đạt hiệu quả như mong muốn. Vì thế vấn đề vệ sinh môi trường tại thành phố
Hồ Chí Minh là một vấn đề cấp bách cần phải giáo dục tuyên truyền để bảo vệ sức
1 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
khỏe cũng như môi trường sống của chúng ta, đưa thành phố ngày càng phát triển
trong tương lai. Để mọi người có cái nhìn chi tiết hơn thì sau đây nhóm chúng tôi
xin trình bày “hiện trạng vệ sinh môi trường tại thành phố Hồ Chí Minh”.
2 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
Chương 1
TỔNG QUAN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


1.1 Vị Trí Địa lý
Hình 1.1 Bản đồ ranh giới của Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong toạ độ địa lý khoảng 10 độ 10’ – 10 độ 38’ vĩ độ
bắc và 106 độ 22’ – 106 độ 54’ kinh độ đông. Phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây
Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang.
3 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
Thành phố Hồ Chí Minh cách thủ đô Hà Nội gần 1.730km đường bộ, nằm ở ngã tư
quốc tế giữa các con đường hàng hải từ Bắc xuống Nam, từ đông sang tây, là tâm
điểm của khu vực Đông Nam Á. Trung tâm thành phố cách bờ biển Đông 50 km
đường chim bay. Đây là đầu mối giao thông nối liền các tỉnh trong vùng và là cửa
ngõ quốc tế. Với hệ thống cảng và sân bay lớn nhất cả nước, cảng Sài Gòn với năng
lực hoạt động 10 triệu tấn /năm. Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất với hàng chục đường
bay chỉ cách trung tâm thành phố 7km.
1.1.1 Địa Hình
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Ðông Nam bộ và
đồng bằng sông Cửu Long. Ðịa hình tổng quát có dạng thấp dần từ Bắc xuống Nam
và từ Ðông sang Tây. Nó có thể chia thành 3 tiểu vùng địa hình.
Vùng cao nằm ở phía Bắc - Ðông Bắc và một phần Tây Bắc (thuộc bắc huyện Củ
Chi, đông bắc quận Thủ Ðức và quận 9), với dạng địa hình lượn sóng, độ cao trung
bình 10-25 m và xen kẽ có những đồi gò độ cao cao nhất tới 32m, như đồi Long
Bình (quận 9).
Vùng thấp trũng ở phía Nam-Tây Nam và Ðông Nam thành phố (thuộc các quận 9,
8,7 và các huyện Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ). Vùng này có độ cao trung bình
trên dưới 1m và cao nhất 2m, thấp nhất 0,5m.
4 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
Vùng trung bình, phân bố ở khu vực Trung tâm Thành phố, gồm phần lớn nội thành
cũ, một phần các quận 2, Thủ Ðức, toàn bộ quận 12 và huyện Hóc Môn. Vùng này

có độ cao trung bình 5 -10m.
1.1.2 Khí Hậu, Thời Tiết
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo. Cũng như
các tỉnh ở Nam bộ, đặc điểm chung của khí hậu - thời tiết Thành phố Hồ Chí Minh
là nhiệt độ cao đều trong năm và có hai mùa mưa - khô rõ ràng làm tác động chi
phối môi trường cảnh quan sâu sắc. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ
tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Theo tài liệu quan trắc nhiều năm của trạm Tân Sơn
Nhất, qua các yếu tố khí tượng chủ yếu; cho thấy những đặc trưng khí hậu Thành
Phố Hồ Chí Minh như sau:
- Lượng bức xạ dồi dào, trung bình khoảng 140 Kcal/cm2/năm. Số giờ nắng trung
bình/tháng 160 - 270 giờ. Nhiệt độ không khí trung bình 27
0
C. Nhiệt độ cao tuyệt
đối 40
0
C, nhiệt độ thấp tuyệt đối 13,8
0
C. Tháng có nhiệt độ trung bình cao nhất là
tháng 4 (28,8
0
C), tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất là khoảng giữa tháng 12 và
tháng 1 (25,7
0
C). Hàng năm có tới trên 330 ngày có nhiệt độ trung bình 25 - 28
0
C.
Ðiều kiện nhiệt độ và ánh sáng thuận lợi cho sự phát triển các chủng loại cây trồng
và vật nuôi đạt năng suất sinh học cao; đồng thời đẩy nhanh quá trình phân hủy chất
hữu cơ chứa trong các chất thải, góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường đô thị.
- Lượng mưa cao, bình quân/năm 1.949 mm. Năm cao nhất 2.718 mm (1908) và

năm nhỏ nhất 1.392 mm (1958). Số ngày mưa trung bình/năm là 159 ngày. Khoảng
5 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
90% lượng mưa hàng năm tập trung vào các tháng mùa mưa từ tháng 5 đến tháng
11; trong đó hai tháng 6 và 9 thường có lượng mưa cao nhất. Các tháng 1, 2, 3 mưa
rất ít, lượng mưa không đáng kể. Trên phạm vi không gian thành phố, lượng mưa
phân bố không đều, có khuynh hướng tăng dần theo trục Tây Nam - Ðông Bắc. Ðại
bộ phận các quận nội thành và các huyện phía Bắc thường có lượng mưa cao hơn
các quận huyện phía Nam và Tây Nam.
- Ðộ ẩm tương đối của không khí bình quân/năm 79,5%; bình quân mùa mưa 80%
và trị số cao tuyệt đối tới 100%; bình quân mùa khô 74,5% và mức thấp tuyệt đối
xuống tới 20%.
- Về gió, Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính và chủ
yếu là gió mùa Tây - Tây Nam và Bắc - Ðông Bắc. Gió Tây -Tây Nam từ Ấn Ðộ
Dương thổi vào trong mùa mưa, khoảng từ tháng 6 đến tháng 10, tốc độ trung bình
3,6m/s và gió thổi mạnh nhất vào tháng 8, tốc độ trung bình 4,5 m/s. Gió Bắc - Ðông
Bắc từ biển Đông thổi vào trong mùa khô, khoảng từ tháng 11 đến tháng 2, tốc độ
trung bình 2,4 m/s. Ngoài ra có gió tín phong, hướng Nam - Ðông Nam, khoảng từ
tháng 3 đến tháng 5 tốc độ trung bình 3,7 m/s. Về cơ bản Thành phố Hồ Chí Minh
thuộc vùng không có gió bão. Năm 1997, do biến động bởi hiện tượng El-Nino gây
nên cơn bão số 5, chỉ một phần huyện Cần Giờ bị ảnh hưởng ở mức độ nhẹ.
Với những điều kiện thuận lợi như trên, sau khi chiếm được 6 tỉnh Nam Kì(1867).
Pháp gấp rút xây dựng nền cơ sở hạ tầng cho Sài Gòn và “trong suốt thời kỳ Pháp
thuộc, Sài Gòn trở thành trung tâm quan trọng không chỉ hành chính mà còn kinh
6 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
tế, văn hóa, giáo dục của cả Liên bang Đông Dương, được mệnh danh là "hòn ngọc
Viễn Đông" hay "Paris phương Đông”.
Hình 1.2 Một góc phố SG xưa
1.2 Tình Hình Phát Triển Kinh Tế, Xã Hội

Sau 35 năm giải phóng, Sài Gòn phát triển một cách vượt bậc. Trở thành trung tâm
kinh tế, văn hóa giáo dục lớn của cả nước và có tầm ảnh hưởng trong khu vực
ASIAN. Nhưng kèm theo đó là những thách thức và khó khăn.
7 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
Hình 1.3 Khu vực trung tâm thành phố
Hình 1.5 Thành phố Hồ Chí Minh về đêm
Theo tài liệu tham khảo từ các báo cáo, các bài viết tổng kết về tình hình phát triển
kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2009, ta có được các số liệu sau :
Năm 2009 là năm đầy khó khăn của thành phố Hồ Chí Minh. Khủng hoảng kinh tế
thế giới đã ảnh hưởng đến từng cơ quan, doanh nghiệp và đến tận gia đình. Những
8 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
chỉ tiêu kinh tế xã hội mà thành phố đặt ra tưởng chừng khó có thể đạt được. Thế
nhưng, chính trong bối cảnh đó, cùng với cả nước, thành phố Hồ Chí Minh đã có
nhiều giải pháp đưa kinh tế từng bước vượt qua khủng hoảng. GDP đạt 7,8%, dù
chưa đạt so với chỉ tiêu đặt ra nhưng con số này vẫn cao hơn 1,5 lần so với bình
quân GDP chung của cả nước.
Chưa có năm nào sản xuất và kinh doanh lại khó khăn như năm nay. Tỷ lệ doanh
nghiệp bị phá sản tăng lên, kéo theo là số lao động mất việc làm cũng ngày càng
nhiều, giá cả lại leo thang. Thêm vào đó là xuất khẩu giảm mạnh, giá trị sản xuất
công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh trong quý I chỉ đạt 1,9%. Kinh tế Thành phố
Hồ Chí Minh trong tình trạng giảm sút nghiêm trọng với tốc độ tăng chỉ đạt 4%.
Nhiều người tiên liệu: 20 chỉ tiêu kinh tế xã hội của thành phố đề ra trong năm 2009
chắc khó mà đạt được.
Tuy nhiên, chính trong thời điểm khó khăn ấy, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính
phủ, Đảng bộ, chính quyền thành phố đã cùng chung tay góp sức đề ra các giải pháp
để cùng đồng hành với doanh nghiệp vượt qua thách thức. Thành phố Hồ Chí Minh
xác định: để phục hồi sản xuất tăng trưởng kinh tế thì doanh nghiệp đóng vai trò
quan trọng, vì vậy mà hàng tháng, hàng quý, lãnh đạo thành phố đã chủ động tổ

chức các buổi gặp gỡ trực tiếp với doanh nghiệp để kịp thời tháo gỡ vướng mắc cho
sản xuất kinh doanh. Nhờ đó mà rất nhiều nút thắt đã được mở ra, tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động. Đây được xem là cách làm hay của
chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh.
9 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
Trong điều kiện nền kinh tế hết sức khó khăn, có đến khoảng 25.000 lao động mất
việc và thiếu việc làm nhưng với các chính sách hỗ trợ kịp thời nên thời gian qua
con em người lao động không rơi vào tình trạng không được đến trường hoặc không
tiếp cận được với dịch vụ y tế.
Ông Nguyễn Văn Quang, Phó Viện Trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển Thành
phố Hồ Chí Minh cho rằng: “Chỉ tiêu tăng trưởng GDP thành phố đề ra là trên 10%.
Với tình hình khó khăn chung, dưới tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu thì thành
phố cũng bị ảnh hưởng. Cụ thể là vào đầu năm, các doanh nghiệp trên địa bàn thành
phố gặp nhiều khó khăn, không ký được hợp đồng mới do các nước gặp khó khăn
không triển khai hợp đồng, cho nên đã làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh
tế của thành phố. Tuy nhiên, chỉ đạo của thành phố là không điều chỉnh chỉ tiêu 10%
mà quyết tâm thực hiện trong điều kiện thành phố có thể đạt được cao nhất. Cho nên
đạt được tốc độ tăng trưởng 7,8% tôi cho rằng đây là điều đáng khích lệ”.Mặc dù
tình hình kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều dấu hiệu khả quan nhưng
nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là ở lĩnh vực xuất khẩu, đầu tư nước ngoài,
du lịch…
Gồng mình vượt qua cơn khủng hoảng, Thành phố Hồ Chí Minh đã gần như cơ bản
đạt được các chỉ tiêu đề ra cho năm 2009 mà nhà nước đặt ra.Trong bối cảnh này, ý
nghĩa lớn nhất không phải là vượt chỉ tiêu mà ý nghĩa lớn nhất trong một năm có quá
nhiều thử thách khó khăn toàn cầu là nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân,
10 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
thành phố của chúng ta đã vượt trong tinh thần đó. (Theo ông Lê Hoàng Quân, Chủ
tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh).

Năm 2009 đã kết thúc, năm 2010 vẫn còn rất nhiều khó khăn từ ảnh hưởng của suy
thoái kinh tế. Tuy nhiên, với những kinh nghiệm và bài học rút ra từ việc đối phó với
cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2009, Thành phố Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục chủ động,
linh hoạt hơn để cùng các địa phương khác trong cả nước vượt qua giai đoạn hậu
khủng hoảng, góp phần đưa nền kinh tế nước nhà phát triển một cách bền vững.
1.3 Ô nhiễm môi trường
Hình 1.6 Kênh rạch tại thành phố bị ô nhiễm trầm trọng
Với tốc độ gia tăng dân số quá nhanh, cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, ý thức người dân
kém , Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay đang phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi
trường. Cũng như Hà Nội, hiện tượng nước thải ở Thành phố Hồ Chí Minh không
được xử lý, đổ thẳng vào hệ thống sông ngòi rất phổ biến. Nhiều cơ sở sản xuất
không xử lý nước thải, phần lớn các bệnh viện và cơ sở y tế lớn cũng chưa có hệ
11 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
thống xử lý nước thải. Tại cụm công nghiệp Tham Lương, nguồn nước bị nhiễm bẩn
bởi chất thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính 500.000 m³/ngày
[8]
.
Sông Sài Gòn, mức độ ô nhiễm vi sinh chủ yếu do hoạt động nuôi trồng thuỷ sản
gây ra vượt tiêu chuẩn cho phép đến 220 lần. Cho tới 2008, vẫn chưa có giải pháp cụ
thể nào để chấm dứt tình trạng ô nhiễm này.
Hình 1.7 Nước thải không được xử lý, đổ thẳng vào hệ thống sông ngòi
Lượng rác thải ở Thành phố Hồ Chí Minh lên tới 6.000 tấn/ngày, trong đó một phần
lượng rác thải rắn không được thu gom hết. Kết quả quan trắc năm 2007 cho thấy, so
với năm 2006, sự ô nhiễm hữu cơ tăng 2 đến 4 lần. Các phương tiện giao thông, hoạt
động xây dựng, sản xuất còn góp phần gây ô nhiễm không khí. Khu vực ngoại
thành, đất cũng bị ô nhiễm do tồn đọng thuốc bảo vệ thực vật từ sản xuất nông
nghiệp gây nên.
12 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh

Hình 1.8 Rác thải không được thu gom hết
Tình trạng ngập lụt trong trung tâm thành phố đang ở mức báo động cao, xảy ra cả
trong mùa khô. Diện tích khu vực ngập lụt khoảng 140 km
2
với 85% điểm ngập
nước nằm ở khu vực trung tâm. Thiệt hại do ngập nước gây ra ước tính 8 tỷ đồng
mỗi năm. Nguyên nhân là do hệ thống cống thoát nước được xây cách đây 50 năm
đã xuống cấp. Ngoài ra, việc xây dựng các khu công nghiệp và đô thị ở khu vực phía
nam – khu vực thoát nước của thành phố này đã làm cho tình hình ngập càng
nghiêm trọng hơn.
Hình 1.9 Ngập lụt tại một con đường trong Thành Phố sau cơn mưa
13 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
Với tình hình ô nhiễm môi trường như hiện nay thì việc đảm bảo vệ sinh môi trường
sống rất được quan tâm và xử lý. Vi nếu như vệ sinh môi trường không đảm bào thì
sẽ phát sinh nhiều dịch bệnh, hình nay nhiều ổ dịch trong thành phố ảnh hưởng đến
đời sống sinh hoạt của người dân.
Hình 1.10 Sản xuất không hợp vệ sinh, là sự phát sinh của dịch bệnh…
14 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
Chương 2
Hiện trạng vệ sinh môi trường tại
thành phố Hồ Chí Minh
2.1 Hiện trạng rác thải ở thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là trung tâm
kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam. Tuy vậy, Thành phố Hồ Chí
Minh đang phải đối diện với những vấn đề của một đô thị lớn có dân số tăng quá
nhanh, đi cùng với điều đó là những vấn đề ô nhiễm môi trường đang tăng lên ở mức
báo động. Và một trong những nguyên nhân chính gây ra các vấn đề ô nhiễm đó là
do rác thải gây ra.

2.1.1 Rác thải tại thành phố
Năm 2002, lượng rác thải tại Thành phố Hồ Chí Minh chỉ là 1,5 triệu tấn. Nhưng
một năm sau, lượng rác thải tại Thành phố Hồ Chí Minh đã lên đến 1,7 triệu tấn. Và
năm 2006, lượng rác thải tại Thành phố Hồ Chí Minh đã ở mức 1,9 triệu tấn/ năm.
Số liệu thống kê về hiện trạng môi trường quốc gia cho biết, mỗi năm Việt Nam “sản
xuất” khoảng 16 triệu tấn chất thải rắn và năm sau cao hơn năm trước từ 10% - 16%.
So sánh với các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng thì Thành phố Hồ Chí
Minh là địa phương tiên phong trong cả nước về vấn đề này, với lượng chất thải
khoảng 6.800 tấn/ngày. Chưa hết, số lượng chất thải công nghiệp của Thành phố Hồ
15 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
Chí Minh chiếm đến 50% số lượng chất thải cả nước (khoảng 1 triệu tấn) (Người lao
động 7/2007).

Hình 2.1 Vứt rác thải vô tội vạ Hình 2.2 Những xe rác bốc mùi trên các
vỉa hè
Các nguồn chủ yếu phát sinh ra rác đô thị bao gồm :
- Từ các khu dân cư (rác sinh hoạt).
- Từ các trung tâm thương mại.
- Từ các công sở, trường học, công trình công cộng.
- Từ các hoạt động công nghiệp.
- Từ các hoạt động xây dựng đô thị.
- Từ các trạm xử lý nước thải và từ các đường ống thoát nước của thành phố.
( Intergrated Solid waste management)
Hiện nay, khoảng 80% trong số 2,6 triệu tấn chất thải công nghiệp phát sinh mỗi
năm là từ các trung tâm công nghiệp lớn ở miền Bắc và miền Nam. Trong đó, 50%
lượng chất thải công nghiệp của Việt Nam phát sinh ở Thành phố Hồ Chí Minh và
16 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
các tỉnh lân cận, 30% còn lại phát sinh ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung

Bộ.
Trong các loại chất thải, chất thải nguy hại là mối hiểm họa đặc biệt. Nguồn phát
sinh chất thải nguy hại lớn nhất là các cơ sở công nghiệp (với 130.000 tấn/năm) và
các bệnh viện (21.000 tấn/năm). Theo thống kê, lượng chất thải công nghiệp nguy
hại phát sinh từ Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chiếm tới 75% tổng lượng chất
thải công nghiệp nguy hại của cả nước. Trong khi đó, lượng chất thải y tế nguy hại
phát sinh từ Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Thanh Hoá chiếm 27% tổng lượng
chất thải y tế nguy hại của cả nước. Các chất thải công nghiệp đã làm ô nhiễm nặng
nguồn nước. Vấn đề ô nhiễm môi trường nước, đặc biệt là tình trạng ô nhiễm kênh
Tham Lương và sông Sài Gòn đã được đề cập nhiều lần. Sông Sài Gòn có thể bị ô
nhiễm do nước rỉ rác. Kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè đã bị ô nhiễm nặng trong nhiều
năm qua. ( website Viện nghiên cứu phát triển thành phố Hồ Chí Minh)
Ngoài lượng rác thải hàng ngàn tấn mỗi ngày, bùn hầm cầu với khối lượng lớn của
TP.HCM hiện nay cũng chưa có lối thoát. Lâu nay, TP.HCM đổ loại chất thải này ở
địa bàn quận Tân Phú, gây ô nhiễm hết sức nặng nề, trong khi cho đến nay bãi đổ
mới chưa có.(TS ông NGUYỄN MINH HOÀNG - trưởng Ban kinh tế và ngân sách
Hội đồng nhân dân thành phố)
Có thể nói thành phố Hồ Chí Minh đang rơi vào tình trạng quá tải rác thải, lượng rác
thải sinh ra hàng ngày quá lớn. Điều này đang trở nên là một vấn đề vô cùng nang
17 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
giải, cần có sự kết hợp giữa chính quyền và người dân chung thì vấn đề này mới có
thể được giải quyết.
2.1.2 Rác thải tại các bãi chôn lấp
Hiện nay, nước ta có trình độ khoa học kĩ thuật còn thấp nên việc xử lý rác thải chủ
yếu là bằng phương pháp chôn lấp. Tuy nhiên, với việc rác thải tăng nhanh như hiện
nay đã gây ra tình trạng quá tải ở các bãi chôn lấp gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng và ảnh hưởng đến cuộc sống của những người dân xung quanh.
- Bãi rác Gò Cát.
Rác tăng nhưng việc xử lý, chôn lấp rác thải không thể tăng theo kịp. Chính vì vậy,

nhiều hộ dân sống xung quanh khu vực gần bãi rác Gò Cát (Tân Phú, Tân Bình) đều
kêu ca về mùi hôi và nước rỉ rác từ bãi chôn lấp này lan tỏa. Công ty Môi trường Đô
thị Thành phố Hồ Chí Minh, đơn vị quản lý bãi rác Gò Cát, cho rằng nguyên nhân
của “những sự cố” về mùi, nước rỉ rác là do: bãi rác đã quá tải. Theo thiết kế, bãi
rác Gò Cát với diện tích 25 ha, chỉ tiếp nhận khoảng 3,65 triệu tấn rác nhưng đến
nay nó đã ôm trọn gần 6 triệu tấn rác. Công suất tiếp nhận của bãi rác Gò Cát chỉ
2.000 tấn/ngày, tuy nhiên những lúc cao điểm, bãi rác này phải tiếp nhận đến 5.000
tấn rác/ngày, vượt công suất cho phép đến 3.000 tấn/ngày. Cuối tháng 7-2007, bãi
rác Gò Cát đóng cửa, bãi rác Đa Phước và Phước Hiệp hiện đang tiếp nối nhiệm vụ.
Tuy nhiên, với thực trạng rác thải như hiện nay, ngay cả Công ty Môi trường Đô thị
18 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
thành phố cũng không dám khẳng định hai bãi rác mới sẽ làm tròn nhiệm vụ của
mình. (Nguồn "Người lao động 7/2007")
Hình 2.3 Đỉnh rác cao như thế này là nguyên nhân phát tán mùi hồi ra các khu vực
lân cận.
- Bãi chôn lấp Phước Hiệp số 1 ( tại xã Phước Hiệp, huyện Củ Chi)
Bãi chôn lấp Phước Hiệp 1 đang xảy ra sự cố lún trượt trên phạm vi rộng, vị trí các
trụ điện đang bị dịch chuyển, mương thoát nước mưa bị biến dạng nên khả năng tiếp
nhận rác chỉ đạt công suất 1.000 tấn/ngày (theo thiết kế tiếp nhận 3.000 tấn/ngày).,
nước rỉ rác chưa xử lý tại bãi rác Phước Hiệp thải ra kênh Thầy Cai không những
gây ô nhiễm môi trường mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe người dân chung
quanh.Mỗi ngày lượng nước rỉ từ bãi rác Phước Hiệp lên tới hơn 2.000m
3
, trong khi
đó chỉ có 2 nhà máy xử lý nước rỉ rác, với công suất 1.200m
3
/ngày.
Ngoài ra, cứ khoảng 12h trưa đến 16h chiều mỗi ngày, từng đoàn xe chở rác nỗi đuôi
nhau thành từng đoàn làm rỉ nước rác xuống mặt đường bốc lên mùi hôi làm ảnh

19 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
hưởng đến sinh hoạt đời sống hằng ngày của nhân dân khu vực. ( Theo ông Lê Minh
Tấn, Phó Chủ tịch UBND huyện Củ Chi)
Hiện nay, bãi rác Phước Hiệp đã hoạt động gấp đôi công suất cho phép.Tổng lượng
rác tiếp nhận tại bãi rác Phước Hiệp là trên 6.000 tấn/ngày. Trong khi đó, bãi số 1
với diện tích gần 19ha đã tiếp nhận 3,33 triệu tấn rác và đóng cửa ngày 11/2/2007.
Bãi rác 1A có diện tích 9,75ha đã tiếp nhận 1,86 triệu tấn và cũng đóng cửa
15/2/2007. Hiện nay chỉ còn bãi rác số 2 với diện tích 19,8ha với công suất thu nhân
mỗi ngày từ 1.500 đến 2.500 tấn. (Ông Huỳnh Minh Nhật, Giám đốc Công ty Môi
trường đô thị)
Hình 2.4 Nước rỉ rác tại bãi rác Phước Hiệp làm ô nhiễm mặt nước kênh Thầy Cai
Trước "hiểm họa" rác, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố buộc phải áp dụng
giải pháp tình thế. Đó là quyết định mở lại bãi rác Đông Thạnh để tiếp nhận khoảng
800m³ nước rỉ rác từ bãi rác Gò Cát chuyển về và 200m nước thải hầm cầu từ cơ sở
20 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
Hòa Bình (đơn vị duy nhất tại TP.HCM tiếp nhận nước thải hầm cầu cũng đã phải
đóng cửa) chuyển đến. Nỗi lo rác thải đang được đổ dồn vào bãi rác Đa Phước.
- Bãi chôn lấp Đa Phước (xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, TPHCM)
Khu xử lý rác Đa Phước có tổng diện tích 128ha, công suất xử lý 3.000 tấn
rác/ngày, do Công ty TNHH xử lý chất thải rắn Việt Nam (VWS) làm chủ đầu tư.
Mỗi ngày lượng rác bắt buộc phải đưa về bãi rác này thấp nhất là 3.000 tấn, chiếm
gần một nửa lượng rác phát sinh mỗi ngày ở thành phố.
Được xây dựng theo công nghệ hiện đại, với tổng vốn đầu tư hàng trăm triệu USD,
nhưng đến nay, khu xử lý rác Đa Phước mới chỉ xử lý được một phần nhỏ nước rỉ
rác, hầu như toàn bộ rác vẫn được chôn lấp theo kiểu truyền thống và còn rất nhiều
hạng mục chưa hoàn thiện, gây ô nhiễm nặng đến môi trường xung quanh.

Hình 2.5 Rác đưa về bãi rác Đa Phước chỉ mới được chôn lấp

21 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
Hiện nay, khu mới xử lý được 280 m
3
/ngày so với yêu cầu là 800m3/ngày. Như vậy,
trung bình mỗi tháng còn gần 20.000 m
3
nước rỉ rác chưa được xử lý và trong hai
năm qua lượng nước rỉ từ rác thải đã lên con số quá lớn. Và dù đã nhận được khoản
chi phí khá lớn cho việc xử lý rác nhưng đến nay, sau 2 năm đi vào hoạt động, khu
Đa Phước vẫn chưa hoàn thiện 10 hạng mục quan trọng như nhà máy xử lý nước rỉ
rác công suất 1.200 m
3
nước/ngày, nhà máy tái chế nhựa, nhà máy làm phân
compost, sàn trung chuyển rác
Thực tế, bãi chôn lấp Đa Phước đang lập lại hiện trạng của các bãi chôn lấp trước đây là gây ô nhiễm môi
trường do nước rỉ rác và công nghệ xử lý chưa triệt để. Không chỉ “phát tán” mùi hôi nồng nặc, bãi rác còn
là là nơi sinh sôi nảy nở của rất nhiều ấu trùng ruồi, gây phát sinh dịch ruồi ở huyện Bình Chánh, gây ô
nhiễm nguồn nước và có thể nguy hại đến cả khu vực quanh vùng như Nhà Bè và Cần Giuộc (Long An) Tỉ
lệ người dân mắc bệnh về hô hấp vì thế mà ngày càng gia tăng, nhất là trẻ dưới 10 tuổi.
2.1.3 Quản lý rác thải
Sở Tài nguyên-Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, trên địa bàn thành phố
hiện có gần 10 nhà máy tái chế rác sinh hoạt đang được xây dựng, trong đó có một
số nhà máy đang được khẩn trương hoàn thành và đi vào hoạt động ngay trong năm
2010.
Các nhà máy này bao gồm nhà máy chế biến phân compost công suất 500 tấn/ngày
của Công ty xử lý chất thải rắn Việt Nam, nhà máy chế biến phân compost của Công
22 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
ty Vietstar có công suất giai đoạn 1 là 600 tấn/ngày đã vận hành thử và sẽ chính thức

đi vào hoạt động ổn định vào năm 2010.
Hình 2.6 Dự án giai đoạn II của Khu liên hợp xử lý chất thải rắn Vietstar
Ngoài ra, nhiều nhà máy xử lý rác khác đang được khẩn trương xây dựng và sẽ đi
vào hoạt động trong những năm kế tiếp như nhà máy chế biến phân hữu cơ vi sinh
công suất 1.000 tấn/ngày của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Tâm Sinh Nghĩa dự kiến
sẽ vận hành từ năm 2011; nhà máy tái chế, xử lý chất thải rắn công suất 500
tấn/ngày theo công nghệ Seraphin của Công ty Thành Công dự kiến sẽ vận hành từ
năm 2012; nhà máy đốt rác thành điện đầu tiên của thành phố có công suất xử lý
23 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
1.000-2.000 tấn rác/ngày của Công ty Keppel Seghers Engineering sẽ được đưa vào
hoạt động trong năm 2014, nhà máy xử lý rác công suất 500 tấn/ngày do Công ty
Môi trường Đô thị Thành phố Hồ Chí Minh làm chủ đầu tư dự kiến sẽ đi vào vận
hành từ năm 2012.
Hiện nay, trung bình mỗi ngày, Thành phố Hồ Chí Minh thải ra khoảng 6.800 tấn
rác sinh hoạt, trong đó rác có nguồn gốc từ thực phẩm có thể tái chế thành những
loại phân bón hoặc được đốt để tạo ra khí gas làm nhiên liệu phát điện chiếm tỷ lệ từ
80-90%.
Tuy nhiên, đến nay, 100% lựợng rác thải sinh hoạt của thành phố chỉ được xử lý
bắng biện pháp chôn lấp ở hai bãi rác chính của thành phố là bãi Đa Phước (huyện
Bình Chánh) và bãi Phước Hiệp (huyện Củ Chi) vừa tốn kém kinh phí thu gom, vận
chuyển và xử lý (khoảng trên 600 tỷ đồng/năm) mà còn tốn một diện tích đất khá lớn
để chôn lấp.
Do vậy, từ năm 2005, dự án phân loại rác tại nguồn để thu gom, xử lý và tái chế rác
thành phân compost và các loại nguyên, vật liệu hữu ích khác đã được thành phố
triển khai thí điểm ở quận 6 và nhân rộng ra các quận 5, 6, 10 Theo Sở Tài
nguyên-Môi trường việc phân loại rác tại nguồn thành công sẽ giúp thành phố tiết
kiệm được khoảng 1 tỉ đồng mỗi ngày.
Thế nhưng vì thực hiện thiếu đồng bộ và chưa chuẩn bị đủ các phương tiện thu gom,
vận chuyển rác chuyên dùng nên thời gian qua chương trình phân loại rác tại nguồn

chưa mang lại hiệu quả thiết thực vì khi người dân thực hiện xong việc phân loại thì
24 | P a g e
Đỗ Văn Đỉnh
công tác thu gom rác lại nhập chung. Sau đó, rác đem về bãi chỉ chôn lấp chứ chưa
có nhà máy chế biến rác, gây lãng phí công sức của người dân và tiền của Nhà nuớc
rất lớn.
Vì vậy, cách đây gần 10 năm, thành phố đã có nhiều chính sách ưu đãi về đất đai,
thuế, đầu tư… và thu phí xử lý rác khá cao nhằm kêu gọi các nhà doanh nghiệp
trong và ngoài nước tham gia đầu tư vào các dự án xây dựng các công trình xử lý rác
thải, xây dựng nhà máy tái chế rác thải thành phân compost, khí gas sản xuất
điện để hạn chế việc phải chôn lấp rác thải như hiện nay và biến rác thành tiền.
Hình 2.7 Một góc khu xử lý chất
thải rắn ở bãi chôn lấp Đa Phước
Kết quả, đã có nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đã mạnh dạn bỏ vốn đầu tư vào
xử lý và tái chế rác thải của thành phố như Công ty xử lý chất thải rắn Việt Nam
(VWS), một doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã đầu tư trên 90 triệu USD xây
dựng khu xử lý rác tại xã Đa Phước huyện Bình Chánh có quy mô 128ha và xây
dựng nhà máy chế biến rác thải thành phân compost.
25 | P a g e

×