Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SỰ MẤT CÂN ĐỐI GIỮA NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ GIẢNG DẠY CỦA GIẢNG VIÊN TRONG CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.5 KB, 18 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC

BÀI TẬP CUỐI KỲ
MÔN: CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC

SỰ MẤT CÂN ĐỐI GIỮA NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ
GIẢNG DẠY CỦA GIẢNG VIÊN TRONG CÁC TRƯỜNG CAO
ĐẲNG, ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
Mã số: 60140120

Giảng viên

: PGS.TS Lê Ngọc Hùng

Học viên

: Đặng Trần Cường

Chuyên ngành : Đo lường & Đánh giá trong giáo dục
Khoá

: ĐLĐG 2013

Hà Nội, 2015


MỤC LỤC

TT


Nội dung

I

Tổng quan

1

Lý do chọn đề tài

2

Câu hỏi nghiên cứu

II

Vấn đề mất cân đối trong huy động và phân bổ nguồn lực tài
chính cho giáo dục đại học
Nguyên nhân

III

Giải pháp

1

Đối với chính sách huy động nguồn lực tài chính :

2


Đối với các cơ sở đào tạo cơng lập, ngồi công lập
TÀI LIỆU THAM KHẢO

2

Trang


I. Tổng quan
1. Lý do chọn đề tài :
Khoa học là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức
mới, học thuyết mới về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học thuyết mới
này, tốt hơn, có thể thay thế dần những cái cũ, khơng cịn phù hợp. Như vậy,
khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về quy luật của vật chất và sự vận động
của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội, và tư duy ( theo GS Nguyễn
Văn Tuấn 2011)
Trong bối cảnh giao lưu và hội nhập của nước ta hiện nay, để khoa học,
công nghệ đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, các nhà nghiên cứu,
những người làm công tác khoa học, nhất là giảng viên tại các trường đại học và
cao đẳng phải là lực lượng nòng cốt trong việc nghiên cứu và ứng dụng các kết
quả nghiên cứu đó vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sở dĩ nói giảng viên là
lực lượng nòng cốt là bởi ở bậc đại học, người thầy đồng thời phải thực hiện hai
nhiệm vụ: giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Hai nhiệm vụ này có quan hệ chặt
chẽ và tương hỗ lẫn nhau; nếu chỉ thực hiện được một trong hai nhiệm vụ ấy thì
có nghĩa, người thầy đó chưa hồn thành nhiệm vụ của mình. Như vậy, nghiên
cứu khoa học là một nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu của mỗi giảng viên,
nhất là với mục tiêu “mỗi trường đại học là một viện nghiên cứu”.
Gần đây, có rất nhiều quan ngại về năng lực cạnh tranh toàn cầu và những
yếu kém về nghiên cứu khoa học của Việt Nam so với các nước trong khu vực
Đông Nam Á, đặc biệt Việt Nam không đạt được chỉ số kỳ vọng về nghiên cứu

nếu so với các nước Đông Nam Á. “Từ năm 2006 – 2010, Việt Nam chỉ có 5
bằng sáng chế được đăng ký tại Mỹ, trung bình mỗi năm có 1 bằng sáng chế.
Trong khi đó, năm 2011, chúng ta khơng có bằng sáng chế nào được đăng
ký”[1]. Điều ngạc nhiên là Việt Nam hiện nay có khoảng 9.000 giáo sư, phó
giáo sư cùng với khoảng trên 24.300 tiến sĩ nhưng trong thời gian 10 năm (từ
1996 - 2005), các nhà khoa học nước ta chỉ cơng bố 3.456 cơng trình nghiên cứu
khoa học trên các tập san quốc tế. Kết quả khảo sát và kinh nghiệm quốc tế cho
thấy vấn đề năng suất khoa học ở Việt Nam không tương xứng với số tiến sĩ
,phó giáo sư và giáo sư hiện có.
Chính vì vậy, Với mong muốn tìm hiểu thực trạng của vấn đề xã hội này,
tôi xin chọn đề tài “ Sự mất cân đối giữa nghiên cứu khoa học và giảng dạy của

3


giảng viên trong các trường cao đẳng và đại học ở Việt Nam “ làm đề tài tiểu
luận cho môn học “ Các vấn đề xã hội trong giáo dục.
2. Câu hỏi nghiên cứu :
Câu hỏi 1 : Vì sao lại có sự mất cân đối giữa nghiên cứu khoa học và giảng dạy
của giảng viên?
Câu hỏi 2: Giải pháp nào để thúc đẩy nghiên cứu khoa học.
II. Vấn đề mất cân đối giữa nghiên cứu khoa học và giảng dạy
Nguyên nhân :
Nguyên nhân 1: Sự bất cập, chồng chéo trong quản lý và thiếu hụt nhân sự
Như chúng ta đều biết, do hệ thống giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam sao
chép từ mơ hình của Liên Xơ cũ nên các hoạt động nghiên cứu phần lớn có tính
chất hàn lâm và đơn ngành. Công tác nghiên cứu chủ yếu được thực hiện ở các
viện nghiên cứu quốc gia như Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam trực thuộc Chính phủ cùng với các viện nghiên cứu
về những chuyên ngành hẹp trực thuộc các Bộ ngành chủ quản. Song song đó,

NCKH cũng được thực hiện ở các cơ sở GDĐH trực thuộc Chính phủ, các
trường ĐH trực thuộc Bộ GD-ĐT và các bộ ngành khác. Tuy có phát triển về số
lượng nhưng các tổ chức khoa học và công nghệ (KH-CN) chưa tạo thành một
mạng lưới mạnh theo quy hoạch, phân bổ còn bất hợp lý giữa các vùng, miền và
lĩnh vực hoạt động, còn chồng chéo chức năng, nhiệm vụ. Các viện nghiên cứu
lớn chủ yếu tập trung ở Hà Nội và TP. HCM, trong khi các địa phương nghèo
còn rất thiếu các tổ chức KH-CN mạnh. Hai viện nghiên cứu quốc gia chưa thực
sự trở thành hạt nhân, đầu tàu thúc đẩy và lan tỏa phát triển KH-CN trong
ngành, lĩnh vực trọng điểm. Điều này thể hiện qua việc chưa có viện nghiên cứu,
trường đại học (ĐH) nào đạt trình độ quốc tế, kể cả trong khu vực ASEAN.
Hiệu quả hoạt động của đa số tổ chức KH-CN thấp, chưa thốt khỏi thói quen
được bao cấp, ngại chuyển đổi; số đã chuyển đổi thì vẫn gặp nhiều trở ngại
trong hoạt động tự chủ. Đội ngũ nhân lực KH-CN tuy gia tăng về số lượng,
nhưng chất lượng và năng lực còn hạn chế; phân bố và cơ cấu trình độ chưa hợp
lý theo vùng, miền và lĩnh vực hoạt động; tình trạng hẫng hụt đội ngũ chưa được
khắc phục
Song song đó là việc thiếu hụt các nhà khoa học, tổng công trình sư có trình độ
cao và năng lực chủ trì các nhiệm vụ nghiên cứu quan trọng quy mô quốc gia và
quốc tế. Tình trạng hụt hẫng về thế hệ trong các viện nghiên cứu, trường ĐH

4


tiếp tục gia tăng, số cán bộ KH-CN đủ năng lực chủ trì những nhiệm vụ KH-CN
lớn ngày càng giảm sút. Các trường ĐH trong nhiều năm gần đây không tuyển
được học sinh giỏi vào học các ngành khoa học cơ bản, khoa học xã hội và nhân
văn; thiếu sinh viên giỏi để đào tạo thành các nhà khoa học tài năng trong tương
lai. Quả thật, Việt Nam chưa sử dụng và phát huy được trí tuệ lực lượng trí thức,
chuyên gia khoa học Việt Nam ở nước ngoài vốn lên 400.000 người có trình độ
từ ĐH trở lên. Một bộ phận khơng nhỏ nhân lực KH-CN trình độ cao trong

nước không trực tiếp làm nghiên cứu và phát triển, nhất là các giáo sư (GS), phó
giáo sư (PGS) và giảng viên trong các trường ĐH. Tình trạng cán bộ KH-CN
không cập nhật được các thành tựu mới của KH-CN thế giới và trở thành lạc hậu
kiến thức, một số khác đang nghiên cứu những vấn đề thời sự của khoa học
nhưng thiếu tâm huyết xây dựng nền khoa học Việt Nam tiến kịp các nước tiên
tiến trong khu vực, ít quan tâm đến hiệu quả thực sự của nhiệm vụ KH-CN là
khá phổ biến. Có thể thấy phần lớn số nhân lực KH-CN hiện nay đang tập trung
làm việc ở khu vực nhà nước, trong khu vực tư nhân và doanh nghiệp còn rất
thấp. Tinh thần hợp tác nghiên cứu và kỹ năng làm việc nhóm trong các cán bộ
KH-CN cịn chưa cao nên khó hình thành được các nhóm nghiên cứu mạnh liên
ngành. Ngồi ra là thiếu sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhà khoa học đứng đầu các
nhóm nghiên cứu và các viện trường
Nguyên nhân 2: Sự tách rời giữa giảng dạy và nghiên cứu
Một nguyên nhân khác dẫn đến những thách thức lớn đối với sự phát triển của
KH-CN của Việt Nam là sự tách rời giữa các trường ĐH và các viện nghiên cứu.
Có thể nói việc này đã tạo nên sự lãng phí rất lớn về nguồn lực và làm hạn chế
chất lượng đào tạo và nghiên cứu ở các cơ sở GDĐH. Số kinh phí mà Bộ KHCN quản lý được phân bổ cho các viện nghiên cứu nhưng những cơ sở này có
rất ít gắn bó với hoạt động đào tạo. Gần đây, một số viện nghiên cứu lớn ở Việt
Nam xúc tiến thành lập đơn vị đào tạo sau ĐH trong đơn vị nhưng đây chỉ là
những bước khởi đầu. Trong khi đó, các trường ĐH chủ yếu tập trung cho giảng
dạy và ngay cả ở những trường có thực hiện việc nghiên cứu thì cũng có rất ít
nghiên cứu thực sự có tác dụng dẫn đến phát triển cơng nghệ, công bố khoa học
hoặc nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập (Ca & Hung 2008: ). Ngay cả
ĐH Quốc gia Hà Nội và TP.HCM, hai cơ sở GDĐH được xem là “đầu tàu” ở
Việt Nam thì số ấn phẩm khoa học cũng còn rất khiêm tốn về số lượng và chất
lượng so với trường đại học Chulalongkorn, Thái Lan

5



Bảng 1: Chỉ tiêu về năng lực khoa học và tầm ảnh hưởng của ĐHQGHCM, ĐHQG-HN, và Chulalongkorn
Chỉ tiêu

ĐHQGTP.HCM

ĐHQGHN

ĐH
Chulalongkorn

Ấn phẩm khoa học
% hợp tác quốc tế
Chỉ số tập trung
% trên các tập san “top 25”
Chỉ số xuất sắc
Chỉ số ảnh hưởng (c)

569
53,6
0,9
26,9
7,2
1,1

414
66,9
0,8
32,9
5,3
0,9


6.047
36,5
0,6
39,2
9,9
0,9

Nguồn: SCImago Institutions Rankings 2011
Theo bảng 1, nếu cộng số ấn phẩm khoa học của hai ĐH Quốc gia HN và
TP.HCM thì chỉ có 983 bài trong khi số ấn phẩm của trường ĐH Chulalongkorn
là 6.047 bài (gấp hơn 6 lần). Các chỉ số khác như tỉ lệ % trên các tập san “top
25” hay chỉ số xuất sắc của hai ĐH Quốc gia đều thua trường ĐH
Chulalongkorn. Đặc biệt là nếu cộng tất cả bài báo quốc tế của bốn
trường ĐH hàng đầu của Việt Nam cùng với số bài báo quốc tế của Viện Khoa
học & Công nghệ Việt Nam, những đơn vị trọng yếu của đất nước về NCKH
(403 bài) thì cũng khơng bằng một trường ĐH Mahidol (Thái Lan) (465) bài
(thời điểm 2004) (bảng 2)
Bảng 2: Tổng số công bố quốc tế của các trường nghiên cứu và phát triển
hàng đầu của Việt Nam và Thái Lan năm 2004
Tác giả tương ứng trong nước

Các cơ quan nghiên cứu

Tổng số cơng
bố quốc tế

Số lần được
trích dẫn trung
bình


Bốn trường đại học Việt Nam hàng đầu
Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam
Việt Nam (tổng số cả nước)
Trường ĐH Chulalongkorn
Trường ĐH Mahidol

83
82
403
416
465

6.6
6.3
10
12
13.9

Tổng số công bố
quốc tế
44
31
117
295
320

Tác giả tương ứng
nước ngồi
Số lần

được
trích dẫn
trung
bình
4.5
4.9
6.6
7.1
8.3

Tổng số
cơng bố
quốc tế
39
51
286
121
145

Số lần
được
trích dẫn
trung
bình
8.8
7.5
14.1
15.3
16.9


Nguồn: Phạm Duy Hiển (2010: 620)
Bảng 1 và Bảng 2 cho thấy, năng suất nghiên cứu chủ yếu tạo ra ở các
viện nghiên cứu chứ không phải ở các trường đại học. Theo tính tốn của chúng
tơi, nếu khơng có gì thay đổi và với tỉ lệ tăng trưởng như hiện nay, đến năm

6


2020, tổng số ấn phẩm khoa học của Việt Nam là khoảng 5.000 bài, tức chỉ bằng
số ấn phẩm khoa học của Thái Lan vào năm 2009. Điều này cho thấy Việt Nam
còn một khoảng cách xa so với các nước trong khu vực chứ chưa nói các quốc
gia phát triển. Mặc dù vậy, trong đề án đổi mới KH-CN của Bộ KH-CN trình
Thủ tướng Chính phủ thì Việt Nam có số bài báo “gấp 3 lần Thái Lan xét theo
cùng thời điểm đạt mức thu nhập bình quân đầu người 1.000 USD” vì “số lượng
bài báo, cơng trình khoa học của Việt Nam được công bố quốc tế giai đoạn
2006-2010 tăng 2 lần so với giai đoạn 2001-2005, 4 lần so với giai đoạn 19962000 và hơn 6 lần so với giai đoạn 1991-1995”. Theo đó, “số lượng bài báo,
cơng trình khoa học cơng bố quốc tế của Việt Nam giai đoạn 1991-1995 là 837;
2001-2005: 2.517; 2006-2010: 5.286. Công bố quốc tế năm 2011 (1.544) gấp
gần 2 lần giai đoạn 1991-1995 và cao hơn giai đoạn 1996-2000 (1.420)”. Dường
như có sự sai lệch trong con số thống kê giữa Bộ KH-CN (7.803 bài) và tác giả
Nguyễn Văn Tuấn (8.220 bài) trong giai đoạn 2001- 2010.
Do tỉ lệ sinh viên/giảng viên q cao (thậm chí có trường tỉ lệ giảng viên/sinh
viên lên đến 1:90), nhiều giảng viên bận chạy show ở các cơ sở khác nhau nên
họ có rất ít thời gian dành cho việc nghiên cứu kể cả khi có bằng tiến sĩ. Điều
bất thường là khoảng gần 2/3 số cán bộ ở Việt Nam có học hàm học vị cao (Gs,
PGS, TS) làm cán bộ quản lý ở các cấp chứ không trực tiếp tham gia việc giảng
dạy và nghiên cứu. Trong tổng số khoảng 8.300 giáo sư và phó giáo sư (số liệu
năm 2007), chỉ có 1/4 là giảng viên ĐH, 75% cịn lại có lẽ là làm quan chức![8]
Ngồi ra, vấn đề mà ít người ở Việt Nam hiểu được là các nghiên cứu sinh tốt
nghiệp tiến sĩ chỉ là những người mới bắt đầu sự nghiệp NCKH, vì bằng cấp tiến

sĩ chỉ là hành trang ban đầu giúp họ đặt chân vào con đường NCKH. Mặc dù
mục tiêu của Nghị quyết về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt
Nam giai đoạn 2006-2010 là “đến năm 2010 có ít nhất 40% giảng viên đạt trình
độ thạc sĩ và 25% đạt trình độ tiến sĩ; đến năm 2020 có ít nhất 60% giảng viên
đạt trình độ thạc sĩ và 35% đạt trình độ tiến sĩ”[9] nhưng thống kê gần đây của
Bộ GD-ĐT cho thấy chỉ có khoảng 14% giảng viên có bằng tiến sĩ quả là một
hồi chuông báo động.

7


Bảng 3: Tỉ lệ sinh viên/giảng viên ở 4 nước châu Á

Quốc gia

Tỉ lệ sinh
viên/giảng
viên

Philippines

23:01

Malaysia

20:01

Indonesia

15:01


Vietnam

30:01

Nguồn: Harman & Nguyễn (2010:78)

Để đẩy mạnh việc NCKH, một số cơ sở GDĐH trọng điểm có qui định số giờ
chuẩn đối với giảng viên cho cơng tác giảng dạy và nghiên cứu, đồng thời
khuyến khích giảng viên tham gia NCKH và viết bài báo quốc tế bằng những
phần thưởng vật chất nhưng sau một thời gian, khi phần thưởng khơng cịn thì
cũng là lúc các giảng viên khơng cịn quan tâm nhiều đến NCKH nữa. Một
ngun nhân khác là do trình độ chun mơn, khả năng tư duy nghiên cứu còn
hạn chế nên phần nhiều các giảng viên khơng thích nghiên cứu bởi bản thân họ
không nắm được phương pháp NCKH và không biết phải thực hiện như thế nào,
đặc biệt đối với các ngành khoa học xã hội. Đọc một số luận văn và luận án do
các ứng viên trong nước làm mới thấy được khoảng cách rất lớn về NCKH của
Việt Nam và thế giới. Có khá nhiều ngun nhân dẫn đến tình trạng trên nhưng
có thể nói những thách thức về cơ chế tài chính, lương bổng, năng lực nghiên
cứu, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phịng thí nghiệm, hóa chất, tài liệu tham khảo
quốc tế … khiến nhiều giảng viên rất ngại khi phải làm nghiên cứu.
Nguyên nhân 3: Đầu tư và phân bổ kinh phí nghiên cứu
Về ngân sách nghiên cứu, Việt Nam rõ ràng là kém xa so với một số nước trong
khu vực. Đầu tư cho KHCN ở Việt Nam trong năm 2006 là 428 triệu USD,
chiếm khoảng 0,17% GDP; năm 2012 tăng lên 653 triệu USD (13.000 tỷ VND),
chiếm khoảng 0,27% GDP. Mặc dù tỉ lệ này cao hơn so với mức độ đầu tư ở
Indonesia (0,05% GDP) và Philippines (0,12% GDP), nhưng thấp hơn so với
Thái Lan (0,3% GDP, 1,79 tỉ USD), Malaysia (0,5% GDP, 1,54 tỉ USD) và
Singapore (2,2% GDP, 3 tỉ USD) (Nguyễn Văn Tuấn & Phạm Thị
Ly, 2011:611). Tính trung bình cứ một triệu USD thì Việt Nam cơng bố được 8

cơng trình khoa học trên các tập san quốc tế. Hiệu suất này tương đương với
Thái Lan và Indonesia, có phần cao hơn so với Malaysia và Philippines (6 bài/1
triệu USD), nhưng thấp hơn Singapore nơi có hiệu suất cao nhất với 13 bài
báo/1 triệu USD (Tuan Nguyen and Ly Pham, 2010: 673). Nghị quyết 14/2005

8


về đổi mới toàn diện GDĐH qui định cần phải tăng nguồn thu từ NCKH và các
dịch vụ liên quan lên đến 25% trước năm 2020 nhưng không rõ là tham vọng
này được đặt trên cơ sở nào và tính khả thi của nó đến đâu trong khi hiện nay
nguồn thu ấy chỉ chiếm 3,4% (Ben Wilkinson & Laura Chirot, 2010).
Theo báo cáo của Bộ KH-CN, đầu tư của xã hội cho KH-CN còn thấp, chưa đến
1,5% GDP[11]. Thật vậy, đầu tư cho KH-CN trên đầu người ở Việt Nam chỉ đạt
11 USD (2010), trong khi của Trung Quốc là 53 USD, Hàn Quốc là 647
USD/người/năm[12]. Ngân sách Nhà nước dành tới 40% cho đầu tư phát triển
nhưng còn sử dụng chưa đúng mục đích, cơ cấu phân bổ giữa trung ương và địa
phương còn bất hợp lý (trung ương 43%, địa phương 57%). Nhiều địa phương
sử dụng kinh phí dành cho KH-CN chưa đúng mục đích, hiệu quả kém. Việc
đầu tư từ ngân sách nhà nước còn dàn trải, phân tán, hiệu quả sử dụng chưa cao.
Sự phân cấp quản lý nguồn ngân sách đầu tư cho KH-CN hàng năm còn bất hợp
lý, phân tán giữa Bộ quản lý ngành KH-CN, Bộ quản lý chuyên ngành, quản lý
tài chính và kế hoạch, đầu tư. Chưa có tiêu chí xác định tỷ lệ phân bổ vốn đầu tư
một cách hợp lý khi triển khai nhiệm vụ KH-CN giữa Nhà nước, doanh nghiệp
và nhà khoa học, tổ chức KH-CN.
Song song đó là việc chưa có cơ chế hiệu quả khuyến khích doanh nghiệp
đầu tư cho KH-CN; chưa quy định rõ việc trích lập, chi cho hoạt động KH-CN
tại các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp, kể cả trong lĩnh vực nông nghiệp và
cơng nghiệp đều gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh do thiếu vốn, quy mô
nhỏ, đặc biệt do không tìm được đầu ra cho sản phẩm tiêu thụ trên thị trường

nên không quan tâm đầu tư cải tiến và đổi mới công nghệ. Trong khi nhiều nước
phát triển trên thế giới, vốn đầu tư của tư nhân luôn chiếm tỷ trọng cao hơn rất
nhiều so với nhà nước. Chẳng hạn như Mỹ, vốn đầu tư của tư nhân là trên 63%,
Nhật Bản gần 80%, Hàn Quốc trên 75% còn đầu tư cho KH-CN ở Việt Nam thì
70% là từ vốn nhà nước chỉ có 30% là của tư nhân[14]. GS Nguyễn Đăng Vang
ước tính “chỉ tính riêng khu vực doanh nghiệp tư nhân mỗi năm sẽ có 14 tỷ đô la
cho phát triển KH-CN. Đây là số tiền rất lớn giúp đổi mới công nghệ một cách
mạnh mẽ” nhưng rất tiếc chưa huy động được. Mặc dù vậy, do “thói quen bao
cấp dựa vào nhà nước đã tồn tại từ lâu” nên việc “Nhà nước thúc đẩy xã hội hóa
việc đầu tư cho KH-CN bằng cách tạo điều kiện khuyến khích doanh nghiệp tự
đầu tư đổi mới cơng nghệ từ nhiều nguồn khác nhau trong đó có nguồn vốn từ
quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển KH-CN là 10% thu nhập doanh nghiệp” cũng chẳng

9


mang đến hiệu quả cao. Điều không rõ là 10% thu nhập doanh nghiệp dành cho
phát triển KH-CN được thực hiện thế nào theo Luật KH-CN vì như trên đã đề
cập, phần lớn các doanh nghiệp của ta là vừa, nhỏ và siêu nhỏ với thiết bị công
nghệ yếu kém nên 10% lợi nhuận trước thuế cũng chẳng có ý nghĩa gì. Hiện ở
Việt Nam rất ít doanh nghiệp đầu tư một bộ phận nghiên cứu phát triển, nếu có
chỉ là nghiên cứu nhỏ như thay đổi mẫu mã, bao bì, cịn nghiên cứu cơng
nghệ cao hầu như khơng có. Thật vậy, “trình độ cơng nghệ của các doanh
nghiệp nước ta đa phần ở mức trung bình và lạc hậu, khoảng 80%-90% cơng
nghệ nhập ngoại, trong đó 75% máy móc dây chuyền công nghệ thuộc thế hệ
những năm 1980-1990, 75% thiết bị đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang”
Về tình hình kinh phí, Bộ trưởng Bộ KH-CN Nguyễn Qn đã nhìn nhận:
“Nhiều năm qua, trong 2% kinh phí dành cho KH-CN (khoảng 13.000 tỷ đồng)
có khoảng 40-43% là kinh phí đầu tư phát triển và Bộ KH-ĐT trực tiếp phân bổ
khoản kinh phí này cho các bộ ngành, địa phương”. Điều đặc biệt đáng quan tâm

là “Bộ KH-CN hồn tồn khơng nắm được tình hình phân bổ cũng như hiệu
quả sử dụng của khoản kinh phí đó. Các bộ ngành, địa phương khi nhận trực
tiếp kinh phí từ Bộ KH-ĐT gần như không báo cáo với Bộ KH-CN”. Song song
đó, Bộ trưởng cho biết thêm: “Kinh phí cịn lại khoảng 57-60% là dành cho kinh
phí sự nghiệp KH-CN, Bộ KH-CN với Bộ Tài chính thỏa thuận thống nhất
phương án phân bổ cho các bộ ngành, các địa phương nhưng hầu hết khoản tiền
này được dành cho chi thường xuyên, tức là nuôi bộ máy cán bộ khoa học cũng
như các viện nghiên cứu, các trung tâm nghiên cứu trong cả nước. Một phần rất
ít ỏi chiếm khoảng hơn 10% mới dành cho nghiên cứu, tức là các đề tài từ cấp
cơ sở đến cấp Nhà nước”. Vì vậy, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi năng suất
NCKH của Việt Nam trở nên thấp kém. Việc hợp tác hữu hiệu giữa các tổ chức
nghiên cứu khác nhau bị hạn chế do mỗi nhóm trực thuộc các bộ chủ quản khác
nhau. Thực tế cho thấy cách tổ chức hệ thống nghiên cứu và phát triển (R&D)
quốc gia, cách quản lý và cấp ngân sách hiện nay khơng khuyến khích sự hợp
tác giữa các doanh nghiệp, các viện nghiên cứu và các trường ĐH. Nguồn tài
chính ở cấp cơ sở khá hạn hẹp và vẫn chưa có cơ chế khích lệ nhằm tưởng
thưởng cho sự hợp tác (Harman & Ngoc 2010: 89-90). Trong bối cảnh NCKH
chuyển từ mô thức 1 (dạng truyền thống - traditionally disciplinary based) sang
mô thức 2 (đa ngành gắn với giá trị tri thức thương mại – applied and
commercially valuable knowledge) như hiện nay (Gibbons et al, 1994, Nowotny
et al., 2001), đây là một thách thức rất lớn đối với việc phát triển KH-CN và
NCKH quốc gia.

10


Song song đó là chính sách của Nhà nước về việc đầu tư nhiều cho khoa
học ứng dụng hơn khoa học cơ bản. Thậy vậy, hiện có sự sụt giảm về đầu tư
ngân sách nhà nước về khoa học cơ bản cho các cơ sở nghiên cứu quốc gia
(Harman & Le, 2010). Gần đây nhất là Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày

11/4/2012 về qui hoạch chiến lược cho việc phát triển khoa học cơng nghệ giai
đoạn 2011-2020. Theo đó, ưu tiên đầu tư cho các ngành khoa học ứng dụng.
Hơn nữa theo báo cáo của Bộ KH-CN về việc thực hiện các đề tài khoa học
trọng điểm cấp quốc gia 2001-2005, khoảng 75% ngân sách đầu tư dành cho các
đề tài nghiên cứu ứng dụng. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy một quốc gia muốn
phát triển mạnh về R&D mà chỉ tập trung nghiên cứu về phần ngọn (ứng dụng)
và bỏ qua phần gốc (cơ bản) thường chạy theo đuôi các nước và thiếu tính bền
vững.
Như trên đã đề cập, việc phân bổ kinh phí từ ngân sách nhà nước cho KHCN còn nhiều bất cập bởi chưa dựa trên các tiêu chí cạnh tranh minh bạch cũng
như dựa trên nền tảng của nhu cầu thực tiễn. Tuy nhà nước có chủ trương ưu
tiên phát triển hoạt động KHCN nhưng 2% ngân sách dành cho hoạt động
KHCN thường không sử dụng được hết nên đành phải trả lại. Đến nay, dường
như chưa có khảo sát cấp nhà nước về tính hiệu quả cũng như tính ứng dụng cao
của các đề tài nghiên cứu cấp nhà nước, cấp bộ, và cấp đơn vị vì phần lớn các đề
tài nghiên cứu sau khi được nghiệm thu thường được cất vào hộc tủ và ít khi
được đưa vào sử dụng vì những kết quả nghiên cứu và đề xuất độc lập của các
chuyên gia phần nhiều khơng được các cấp chính phủ quan tâm và được cho là
“kém khả thi” trong bối cảnh “hệ thống” hiện nay của Việt Nam. Thời gian qua,
có khá nhiều báo cáo nghiên cứu của một số tổ chức, cơ quan trong nước và
quốc tế có uy tín về tình hình kinh tế, tài chính, ngân hàng, xã hội, giáo dục, y
tế… ở Việt Nam nhưng những báo cáo này thường ít được các cấp chính
phủ lắng nghe và thực thi vì có ý kiến cho rằng “chưa phù hợp” với tình hình ở
Việt Nam. Ở các quốc gia quốc gia phát triển, trước khi đưa ra những quyết định
quan trọng, nhà nước thường dựa vào các kết quả nghiên cứu khảo sát độc lập
của các nhóm chuyên gia uy tín để làm cơ sở nhưng ở ta, việc này được
xem như “chưa cần thiết” vìmọi việc đã được chỉ đạo.
Bên cạnh đó, việc phê duyệt nội dung nghiên cứu đáng lẽ phải do giới
khoa học chủ động nhưng lại được quyết định từ trên xuống; kinh phí nghiên
cứu được giao cho các Bộ ngành khác nhau không dựa trên những tiêu chí rõ
ràng; các quy định về thanh quyết tốn khơng hợp lý và mất nhiều thời gian làm


11


nản lòng người nghiên cứu. Về vấn đề này, Bộ trưởng Nguyễn Quân nhận xét:
“Cơ chế tài chính cũng như cơ chế quản lý về KH-CN của chúng ta cho đến thời
điểm này chưa hội nhập được với thế giới mặc dù chúng ta là thành viên của
WTO. Các nước đều làm việc theo nguyên tắc, các nhà khoa học đề xuất nhiệm
vụ vào lúc nào sẽ được cấp kinh phí và được tổ chức thực hiện ngay lúc đó, như
vậy mới có tính thời sự. Nhưng chúng ta thường phải lập kế hoạch KH-CN
trước hơn một năm. Cho đến khi được giao tiền thì thường các nhiệm vụ KHCN ấy đã trở nên lạc hậu. Đấy là chưa nói đến việc điều chỉnh nội dung và điều
chỉnh kinh phí… rất phức tạp về mặt thủ tục. Cho nên khi các nhà khoa học
nhận được kinh phí nhiều khi cũng không thực hiện được bởi với tốc độ trượt
giá và lạm phát của chúng ta, sau một đến hai năm những dự tốn đó khơng có ý
nghĩa nữa. Đồng thời chúng ta cũng không sử dụng cơ chế của quỹ cho cấp phát
tài chính đối với các đề tài nghiên cứu mà cấp phát qua kho bạc. Vì thế khi các
nhà khoa học có ý tưởng nghiên cứu sẽ phải chờ đợi rất lâu mới hoàn thành thủ
tục và được cấp kinh phí”. Điều quan trọng là Việt Nam đang thúc đẩy
nền “kinh tế thị trường nhưng tư duy bao cấp” nên tiềm năng NCKH vẫn chưa
được phát huy. Điều quan ngại là do tất cả vì lợi nhuận nên khá nhiều nghiên
cứukhơng mang tính khoa học và thiếu khách quan, việc lắp ghép và sao chép
máy móc các báo cáo là điều khơng cịn cá biệt. Sự kiện báo cáo đánh giá tác
động môi trường ở thủy điện Sông Tranh 2 thời gian qua là một minh chứng
hùng hồn cho sự yếu kém về NCKH ở Việt Nam bởi sự tác động và chi phối rất
lớn của các nhóm lợi ích.
Nguyên nhân 4: Đánh giá kết quả và chất lượng nghiên cứu
Có thể nói việc đánh giá kết quả nghiên cứu ở các cơ sở GDĐH Việt Nam chưa
được thực hiện bài bản và ứng dụng trong hoạt động sản xuất còn khá hạn chế.
Việc nghiệm thu các đề tài nghiên cứu thường được thực hiện theo quy trình,
nhưng quy trình đánh giá chưa địi hỏi cụ thể về công bố khoa học, đặc biệt là

công bố trên các tạp chí uy tín thế giới. Chẳng hạn như ngay cả những tiêu chí
đã có trong quy trình đánh giá quy định về hướng dẫn nghiên cứu sinh thì các đề
tài vẫn được thông qua kể cả khi không đạt tiêu chí hoặc các thành viên hội
đồng miễn cưỡng cho qua vì tâm lý “dĩ hịa vi q”. Thời gian qua, có khá nhiều
bài báo và câu chuyện đề cập đến những khôi hài trong việc đánh giá và chấm
điểm luận án tiến sĩ mà có lẽ chỉ ở Việt Nam mới có. Được biết hội đồng đánh
giá kết quả NCKH ở trường ĐH thường bao gồm đại diện ban giám hiệu nhà
trường, ban chủ nhiệm khoa, hội đồng khoa học đào tạo, đơn vị quản lý khoa
học của đơn vị, và một số thành viên từ bên ngoài trường nhưng có thể nói số

12


thành viên có đủ kiến thức chuyên sâu để phản biện một đề tài nào đó theo
chuẩn mực quốc tế là không nhiều. Đối với các ngành KHXH, việc này trở nên
khá hình thức vì NCKH ở Việt Nam thường không theo chuẩn mực thế giới do
những hạn chế về năng lực chuyên môn, ngoại ngữ, và nguồn lực. Chúng tơi đã
có dịp đọc một số luận án và luận văn thuộc các ngành KHXH. Ở chương viết
về phương pháp nghiên cứu, phần lớn các ứng viên thường viết đề tài nghiên
cứu được thực hiện theo “phép biện chứng duy vật với quan điểm toàn diện,
phát triển và lịch sử cụ thể; cơ sở lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học Mác Lênin”, đồng thời “quán triệt đường lối của Đảng và Nhà nước” về một lĩnh vực
cụ thể nào đó hay “trên cơ sở vận dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, luận án sử dụng các phương pháp phân tích, tổng
hợp, so sánh, đối chiếu, diễn giải, quy nạp và phương pháp chuyên gia để nghiên
cứu”[31]. Trong khi đó, ở các nước tiên tiến, khi nghiên cứu về KHXH, giới học
giả thường sử dụng các phương pháp như điều tra tự nhiên (naturalistic inquiry);
nhận thức vấn đề (epistemology), điều tra hiện tượng (phenomenology), tìm
hiểu hiện tượng văn hóa/ vấn đề (enthnography), nghiên cứu thơng qua từng
trường hợp cụ thể (case study) v.vv.. để đi sâu đến từng chân tơ kẽ tóc của vấn
đề thơng qua việc tóm tắt tổng quan các xu hướng và quan điểm, phản biện, phát

hiện, nghiên cứu dựa trên một khung ý tưởng hoặc lý thuyết (conceptual or
theoretical frameowork), thảo luận vấn đề, đưa ra đề xuất, và gợi ý cho những
nghiên cứu tiếp theo chứ không hề thấy sử dụng phương pháp “duy vật biện
chứng” và “chủ nghĩa xã hội khoa học” vì hai thuật ngữ này quả thật rất mơ hồ.
Đối với các ngành kinh tế ở Việt Nam, tiêu đề nghiên cứu thường na ná nhau ở
chỗ đề xuất “giải pháp” một cách hết sức hời hợt. Việc hình thành các chợ luận
án, luận văn trên mạng thông qua việc thuê mướn, sao chép và cắt dán càng làm
cho tình hình NCKH, đặc biệt là các ngành KHXH ngày càng trở nên hỗn loạn.
Ngồi ra, việc chia sẻ thơng tin về kết quả nghiên cứu ngay trong giới NCKH
cũng rất hạn chế bởi tâm lý e sợ copy ý tưởng. Nếu có tìm ở web site của các
trường ĐH Việt Nam thì cũng khơng thể nào biết được giảng viên nào có
chun mơn sâu và nghiên cứu về đề tài gì trong khi ở các nước, việc này là rất
dễ dàng nên các nghiên cứu viên và sinh viên rất dễ tiếp cận học hỏi và có thể
tham gia vào mạng lưới nghiên cứu liên kết. Ở Việt Nam, cho đến nay, việc gắn
kết các nhóm nghiên cứu liên ngành là khơng phổ biến và việc thương mại hóa
kết quả nghiên cứu ở Việt Nam thường ít được chú ý.

13


Mười năm trước (năm 2002), số ấn phẩm khoa học của Việt Nam trên các tập
san quốc tế (trong hệ thống ISI) là 362 bài. Trong cùng thời gian, Thái Lan công
bố được 1.705 bài, cao hơn ta gấp 4,7 lần. Mười năm sau (2011), Việt Nam công
bố được 1.389 bài, tăng gấp 3,8 lần so với năm 2002. Nhưng 10 năm sau, Thái
Lan công bố được 5.721 bài, hơn Việt Nam 4,1 lần. Tuy nhiên, về con số tuyệt
đối, khoảng cách giữa Thái Lan và Việt Nam càng ngày càng lớn (xem Biểu đồ
2).[32]

Biểu đồ 2: Số ấn phẩm khoa học từ Việt Nam và Thái Lan 2002-2011
Tính trung bình, tốc độ tăng trưởng (về số ấn phẩm khoa học) của Việt Nam là

15,2%, tức tương đương với tỉ lệ của Thái Lan (15,1%). Nhưng vì Thái Lan xuất
phát từ một cơ sở cao hơn ta gấp 4 lần, nên trong những năm sau Thái Lan vẫn
còn cao hơn ta. Về việc này, có thể dùng phương trình tốn học để dự đoán số
ấn phẩm khoa học cho Việt Nam và Thái Lan từ năm 2012 đến 2020. Kết quả
như sau:
Năm
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020

Việt Nam
Thái Lan
1600
1840
2119
2440
2811
3237
3729
4295
4947

7055
8121

9350
10760
12386
14258
16412
18892
21746

Tất cả những phân tích và minh chứng trên cho thấy sự yếu kém của năng
lực NCKH ở Việt Nam; hệ thống tổ chức quản lý hoạt động NCKH có nhiều bất
hợp lý; chồng chéo quản lý giữa các bộ ngành; kinh phí nghiên cứu được cấp
phát khơng theo những tiêu chí rõ ràng và cịn thiếu một cơ chế cạnh tranh minh
bạch; hiệu quả của đầu tư cho nghiên cứu KHCN chưa được đo lường đánh giá
cụ thể; năng lực NCKH của giảng viên và nghiên cứu viên còn rất hạn chế; chế
độ lương bổng thấp; sự thiếu hụt về cơ sở vật chất, hạn chế về tự do học

14


thuật; trang thiết bị và nguồn lực còn yếu đã khơng khuyến khích được việc
NCKH trong các trường ĐH và các viện nghiên cứu.
III. Giải pháp :
Tăng cường cơ sở vật chất và kinh phí cho hoạt động nghiên cứu: Chính
sách này cần thực hiện đồng bộ ở tất cả các cấp, từ việc tăng thêm ngân sách
hàng năm của Nhà nước đến việc tăng tỷ lệ ngân sách dành cho hoạt động
nghiên cứu khoa học ở từng trường, tăng kinh phí cho các đề tài nghiên cứu và
đầu tư thêm cho các phịng thí nghiệm phục vụ nghiên cứu. Tất nhiên, khơng
phải tăng kinh phí một cách “bình qn chủ nghĩa” mà nên đầu tư “có trọng
điểm” đối với các đề tài thực sự cần thiết và chắc chắn mang lại hiệu quả nếu
được thực hiện tốt. Có như vậy mới khuyến khích được người đảm nhiệm đề tài,

nhưng bên cạnh đó, chủ nhiệm đề tài cũng phải là những người có “tâm” và đủ
“tầm”.
- Giới hạn giờ giảng của giảng viên: Một nghịch lý đặt ra là với những
người có đủ điều kiện và khả năng nghiên cứu thì lại cũng chính họ là những
người có thể đảm nhiệm và phải đảm nhiệm số giờ giảng nhiều hơn (theo quy
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo); bởi thế, quỹ thời gian của họ được dành phần
lớn cho việc giảng dạy. Trong thực tế, giảng viên tại các trường đã và đang
giảng dạy rất nhiều giờ (gấp 200%, 300%, thậm chí 400% định mức). Vì thế,
thời gian dành cho nghiên cứu hầu như khơng cịn. Để khắc phục tình trạng này,
cần có chính sách giới hạn số giờ giảng của giảng viên. Trước hết, Bộ Giáo dục
& Đào tạo nên xem xét để giảm định mức giờ giảng của chức danh Giáo sư, Phó
giáo sư, để họ dành thời gian nhiều hơn cho việc nghiên cứu. Với các trường,
cần có sự khống chế số giờ giảng tối đa được phép của giảng viên, tránh hiện
tượng giảng viên chỉ là “thợ dạy”.
- Có cơ chế để quy đổi giờ NCKH thành giờ giảng với một tỷ lệ nhất định,
để giảng viên có thể yên tâm hơn khi nghiên cứu mà không lo không đủ giờ
giảng theo định mức.
- Tạo điều kiện cho giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học có nhiều cơ
hội tiếp xúc, tham gia những hoạt động nghiên cứu, các Hội thảo ở các địa
phương trong nước và các nước có nền khoa học và giáo dục phát triển. Cũng có
thể tham khảo mơ hình của một số trường đại học trên thế giới: dành một khoản

15


ngân sách riêng cho những giảng viên có kết quả nghiên cứu được công nhận
rộng rãi ở trong nước và quốc tế. Số tiền này tỷ lệ thuận với số cơng trình cơng
bố trong năm và đảm bảo cho họ có thể trang trải cho việc tham gia các Hội thảo
trong nước (và quốc tế).
- Cần có định hướng cho hoạt động nghiên cứu: Hiện nay, ta đang theo cơ

chế “xét duyệt” nhiệm vụ nghiên cứu và “đấu thầu” đề tài. Việc làm này đã đem
lại những tác dụng nhất định trong nghiên cứu; tuy nhiên, như đã trình bày,
thường những cá nhân tham gia đều đưa những hướng nghiên cứu vốn là thế
mạnh của mình (tất nhiên là phải thuyết phục được Hội đồng xét duyệt về tính
cấp thiết), trong khi đó, có nhiều vấn đề thực sự cần thiết và mang lại hiệu quả,
nhưng do quá “hóc búa” hoặc khó khăn khi triển khai nên khơng ai thực hiện.
Do vậy, bên cạnh việc đấu thầu đề tài, cần có cơ chế “giao” những đề tài này
cho những cá nhân/đơn vị có khả năng thực hiện để tài.
- Kết hợp chặt chẽ giữa trường với viện nghiên cứu để sử dụng, phổ biến
các kết quả nghiên cứu vào giảng dạy và học hỏi thêm kinh nghiệm nghiên cứu.
- Có cơ chế, biện pháp phối hợp, trao đổi nghiên cứu giữa các trường đại
học, cao đẳng trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng và các địa phương khác
nói chung. Các trường cùng khối ngành, nhóm ngành có thể phối hợp tổ chức
các Hội thảo khoa học, tạo cơ hội cho giảng viên cùng tiến hành các đề tài
nghiên cứu, trao đổi giảng viên… để phát huy được thế mạnh của mỗi trường,
đồng thời tránh sự trùng lặp, chồng chéo các hướng nghiên cứu, gây lãng phí cả
thời gian, chất xám và tiền bạc.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Xã hội học giáo dục” Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 2011 – Tác giả Lê
Ngọc Hùng.
2. Bauer, T. (2011). The Challenge of Knowledge Sharing: Practices of the
Vietnamese Science Community in Ho Chi Minh City and the Mekong
Delta, ZEF Development Studies)
3. Ca Tran Ngoc and Nguyen Vo Hung (2008). The Evolving Role of
Academic Institutions in the Knowledge Economy: the Case of Vietnam,
Policy Research Institute, Lund, Sweden, accessed online

at on 10/11/2010
4. Gibbons, M. Limoges, C., Nowotny, H., Schwartzman, S., Scott, P., &
Trow, M. (1994). The new production of knowledge: The dynamics of
science and research in contemporary societies. London; Thousand
Oaks, Calif; New Delhli: SAGE
5. Harman, G., Hayden, M. and Nghi Pham, T. (2010). Reforming Higher
Education in Vietnam: Challenges and Priorities. In G. Harman, M.
Hayden, and T. Nghi Pham Vol. 29, (eds), Springer.
6. Harman, G., & Le, T.B.N. (2010). The research role of Vietnamese
universities. In G.
7. Harman, M. Hayden & T.N. Pham (Eds). Reforming Higher Education in
Vietnam, Vol. 29, pp87-102, Springer.
8. Hien, P. (2010). A comparative study of research capabilities of East
Asian countries and application for Vietnam. Higher Education, 60 (6),
615-625.
9. Nowotny, H., Scott, P., & Gibbons, M. (2001). Rethinking science:
knowledge and the public in an age uncertainty. Cambridge: Policy Press
10. Tuan Nguyen and Ly Pham (2011). The role of university in knowledgebased economy in Vietnam, 200 years of Humboldt, International
experiences and Vietnam. Knowledge Publishing House, 2011
11. Tuan V. Nguyen (n.d.). Science in Vietnam, PPT presentation.

17


12. Tuan V. Nguyen (n.d.). Relationship between research and knowlege
based economy, PPT presentation Various websites as indicated in the
footnotes
13. Wilkson, B. & Chirot, L. (2010). Beyond the Apex: Toward a Systemic
Approach to Higher Education Reform in Vietnam, ASH Institute for
Democratic Governance and Innovation, Harvard Kennedy School,

Cambridge, MA, USA.
14. World Economic Forum (2012). The Global Competitiveness Report,
2012–2013

18



×