Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

báo cáo thực tập TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG VỐN VÀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.53 KB, 67 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
CHƯƠNG 1 1
TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG VỐN VÀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1
1.1. Nguồn vốn kinh doanh của NHTM 1
1.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu 1
1.1.2. Nguồn vốn tiền gửi 5
1.1.3 Nguồn vốn đi vay 9
1.1.4. Các nguồn vốn khác 10
1.2. Nghiệp vụ huy động vốn của NHTM 11
1.2.3.1. Theo đối tượng huy động 15
1.2.3.2. Theo phương thức huy động 16
1.2.3.3Theo thời gian huy động 19
1.2.3.4 .Theo loại tiền huy động 20
1.3. Hiêu quả huy động vốn của Ngân hàng thương mại 20
1.3.2.1 Quy mô huy động vốn 21
1.3.2.2 Cơ cấu huy động vốn 22
1.3.2.3 Chi phí huy động vốn 25
1.3.3.1 Nhân tố khách quan 27
1.3.3.2 Nhân tố chủ quan 30
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thanh
Hóa 37
2.3. Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại Vietcombank Thanh Hóa 44
2.3.2.1. Cơ cấu theo loại tiền gửi 45
2.3.2.2 Cơ cấu theo loại tiền huy động 47
2.3.2.3. Cơ cấu theo thời gian 48
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA
VIETCOMBANK THANH HÓA 52
3.1. Định hướng và mục tiêu phát triển của Vietcombank Thanh Hóa giai đoạn 2013 -


2016 52
3.1.1. Định hướng phát triển của Vietcombank Thanh Hóa 52
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Vietcombank Thanh Hóa 56
3.3. Một số điều kiện để thực hiện các giải pháp 63
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG VỐN VÀ HIỆU QUẢ HUY
ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Nguồn vốn kinh doanh của NHTM.
Vốn đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng
thương mại. Đó là khoản hình thành nên tài sản của ngân hàng, giúp cho ngân
hàng hoạt động một cách hiệu quả. Vốn của ngân hàng là nhũng giá trị tiền tệ
do ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu
tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Có thể phân chia vốn của ngân hàng thương mại thành nhiều loại khác
nhau dựa trên những tiêu thức nhất định: theo thời gian (vốn ngắn hạn, vốn
trung hạn và vốn dài hạn), theo nguyên tệ (vốn nội tệ và vốn ngoại tệ), theo
đặc điểm của vốn bao gồm nợ và tiền vay… Nếu theo bảng tổng kết tài sản
nguồn vốn của ngân hàng thương mại được chia thành: vốn chủ sở hữu, vốn
huy động, vốn vay và các nguồn vốn khác.
1.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng
tạo lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong
tổng vốn của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập
một ngân hàng. Với chức năng bảo vệ, nguồn vốn này được coi như tài sản
đảm bảo gây lòng tin đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh tóan trong
trường hợp ngân hàng gặp thua lỗ. Nó còn là một căn cứ quyết định đến khả
năng và khối lượng huy động của ngân hàng, qua đó quyết định đến năng lực

và thế phát triển của một NHTM.
a) Nguồn vốn hình thành ban đầu
Một NHTM muốn bắt đầu hoạt động thì ngân hàng đó phải đáp ứng
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
1
Chuyên đề tốt nghiệp
được yêu cầu của NHNN về mức vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn
tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do pháp luật quy định. Khác với vốn
pháp định, vốn điều lệ lại là vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi vào
điều lệ hoạt động của ngân hàng và theo quy định tối thiểu phải bằng vốn
pháp định. Khi ngân hàng bước vào hoạt động thì nguồn vốn này được thể
hiện dưới dạng văn phòng, trụ sở, trang thiết bị, dự trữ…, và ngân hàng không
được phép sử dụng vốn này chia lợi tức hay trích lập quỹ phúc lợi khen
thưởng.
Trong nền kinh tế thị trường, với sự gia tăng các loại hình ngân hàng,
vốn điều lệ cũng được hình thành theo rất nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào
đặc trưng từng hình thức sở hữu. Đối với các ngân hàng tư nhân, đây là vốn
sở hữu riêng của doanh nghiệp và được hình thành sau một quá trình tích tụ,
tập trung vốn. Ngược lại, các ngân hàng quốc doanh được phép hoạt động
trên cơ sở vốn ban đầu do Ngân sách nhà nước cấp. Vốn điều lệ của các ngân
hàng cổ phần do các cổ đông đóng góp dưới hình thức mua cổ phiếu, còn đối
với các ngân hàng liên doanh là sự góp vốn của các ngân hàng trong và ngoài
nước.
Theo Nghị định số 141/2006/NĐ- CP ban hành ngày 22 tháng 11 năm
2006 của Chính phủ quy định, mức vốn pháp định đối với NHTM Nhà nước,
đầu tư là 3.000 tỷ đồng; các NHTM cổ phần, liên doanh, hợp tác, 100% vốn
nước ngoài và Quỹ tín dụng nhân dân TƯ là 1.000 tỷ (3.000 tỷ vào 2010).
Vốn pháp định của chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 15 triệu USD…
b) Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động

Trong suốt quá trình hoạt động của ngân hàng, vốn điều lệ không phải
luôn giữ cố định mà vẫn được bổ sung và tăng dần theo các hình thức: ngân
sách nhà nước cấp thêm, huy động thêm từ các cổ đông, lợi nhuận tích lũy…
tùy thuộc vào điều kiện cụ thể.
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
2
Chuyên đề tốt nghiệp
+ Cổ phần phát hành thêm, ngân sách nhà nước cấp thêm
Để mở rộng quy mô hoạt động, tăng cường khả năng chống đỡ rủi ro các
NHTM cổ phần có thể huy động thêm vốn bằng con đường phát hành thêm cổ
phiếu (có thể là cổ phiếu thường hoặc cổ phiếu ưu đãi), các NHTM thuộc sở
hữu nhà nước có thể xin cấp thêm vốn ngân sách, các ngân hàng tư nhân hay
ngân hàng liên doanh có thể cùng nhau góp thêm vốn.
+ Lợi nhuận bổ sung
Khi ngân hàng hoạt động hiệu quả và có lãi, chủ ngân hàng có xu hướng
gia tăng vốn chủ sở hữu bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn
đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào khả năng hoạt động cũng như chính sách
gia tăng vốn chủ của mỗi ngân hàng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập
ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn của chủ hình
thành ban đầu.
c) Các quỹ
Ngoài nguồn vốn hình thành ban đầu, NHTM còn có các quỹ dự trữ, các quỹ
này được coi là nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng và hàng năm được bổ sung
từ lợi nhuận ròng của ngân hàng đó. Tùy theo quy định của từng quốc gia, các
ngân hàng phải thực hiện trích lập các quỹ khác nhau. Thông thường các NHTM
phải lập các quỹ: Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư phát triển, quỹ
dự phòng tài chính
Ngoài ra, các NHTM còn có thể trích lập các quỹ sau: quỹ bảo toàn vốn,
quỹ thặng dư vốn, quỹ đánh giá lại,…

d) Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Các khoản vay trung và dài hạn của NHTM có khả năng chuyển đổi
thành vốn cổ phần như trái phiếu có khả năng chuyển đổi có thể được coi là
một bộ phận của vốn chủ sở hữu của ngân hàng (vốn bổ sung) do một số
đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa đất đai và có thể
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
3
Chuyên đề tốt nghiệp
không phải hoàn trả khi đến hạn. Nguồn vốn này thực sự là một công cụ
hữu hiệu đối với ngân hàng trong việc gia tăng vốn chủ sở hữu mà lại
không làm mất đi quyền kiểm soát của các cổ đông hiện hữu.
Trong quá trình hoạt động của ngân hàng, nguồn vốn chủ sở hữu mặc dù
được tích lũy tăng lên đáng kể nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ (khoảng 10%)
trong cơ cấu vốn của các NHTM. Tuy nhiên, vốn chủ sở hữu là điều kiện ban
đầu để thành lập ngân hàng, là nguồn tài trợ chính cho xây dựng trụ sở ngân
hàng, mua sắm thiết bị, công nghệ, Đây là cơ sở để đánh giá thực lực và quy
mô của một ngân hàng, tạo uy tín cho ngân hàng và là cơ sở để thu hút các
nguồn vốn khác. Bên cạnh đó, chức năng quan trọng của vốn chủ sở hữu là
chống đỡ rủi ro cho những người gửi tiền. Nguồn vốn chủ sở hữu càng lớn,
ngân hàng càng có nhiều khả năng chống đỡ rủi ro trong giai đoạn ngân hàng
gặp khó khăn. Hơn thế nữa, với vốn chủ sở hữu dồi dào, ngân hàng có thể đa
dạng hóa các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao khả năng thanh khoản. Nguồn
vốn chủ sở hữu thấp hạn chế các ngân hàng tiếp cận với các khách hàng có
nhu cầu vay lớn, hạn chế các ngân hàng mở rộng dịch vụ, quy mô hoạt động
và gây gánh nặng tài chính cho các quốc gia khi phá sản. Áp lực của thị
trường tài chính quốc tế, áp lực của hạn chế rủi ro buộc nhiều NHTM phải
tăng vốn chủ sở hữu thông qua quá trình tự tích lũy, phát hành cổ phiếu mới,
cổ phần hóa, sáp nhập, lành mạnh hóa tài chính và hạn chế tổn thất. Như vậy
một nguồn vốn chủ sở hữu dồi dào là tiền đề vững mạnh để có thể mở ra

nhiều cơ hội thành công và thế phát triển vững chắc cho các NHTM.
Xét về dài hạn, vốn chủ sở hữu có liên quan đến khả năng thanh khoản
của ngân hàng. Do vậy, các cơ quan chức năng kiểm soát ngân hàng luôn
quan tâm đến mức tối thiểu của nguồn vốn này. Rất nhiều các chỉ tiêu hoạt
động của ngân hàng bị ràng buộc bởi vốn chủ sở hữu. Theo Hiệp Định Basel
II, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản điều chỉnh qua hệ số rủi ro tối thiểu là 8%.
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
4
Chuyên đề tốt nghiệp
Pháp luật ngân hàng Việt Nam đã xây dựng các chỉ tiêu an toàn đối với các
NHTM dựa trên vốn chủ sở hữu.
- Theo điều 4 Quyết định 457/2002/QĐ- NHNN thì các “Tổ chức tín
dụng, trù chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa
vốn tự có so với tổng tài sản “Có” có điều chỉnh rủi ro.
- Theo quy định của NHNN về quy mô huy động vốn, các tổ chức tín
dụng không được huy động quá 20 lần vốn tự có.
Có được mức vốn chủ sở hữu dồi dào và phù hợp là mục tiêu hàng đầu
của các NHTM trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Trong xu
thế cạnh tranh đó, đối với hoạt động của ngân hàng, các tỷ lệ an toàn ngày
càng phải được chú trọng vì nó là cơ sở để xác định các tiêu chuẩn cạnh tranh
hợp lý trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Để nâng cao chất lượng cạnh tranh
của các ngân hàng Việt Nam với nhau cũng như với các ngân hàng thế giới
trước cơn bão của sự thâu tóm, sáp nhập, “cá lớn nuốt cá bé” thì áp lực về
nâng cao nguồn vốn chủ sở hữu thực sự là gay gắt, cấp bách, cần thiết trong
thời đại kinh tế bùng nổ và xu hướng hội nhập toàn cầu hóa như hiện nay.
1.1.2. Nguồn vốn tiền gửi
a) Tiền gửi thanh toán
Tiền gửi thanh toán chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn. Mục đích gửi
tiền vào ngân hàng không phải để hưởng lãi mà là nhằm sử dụng các tiện

ích do ngân hàng cung cấp như thanh toán hộ, chi trả hộ, thu hộ. Ngân
hàng thương mại buộc các khách hàng nếu muốn được ngân hàng cung cấp
các dịch vụ thì cần phải ký quỹ một lượng tiền tối thiểu, đồng thời với
những khoản tiền gửi vào tài khoản thanh toán phải có thời gian nhất định
mới được rút ra để thanh toán điều đó giúp ngân hàng có thể sử dụng lượng
vốn này.
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
5
Chuyên đề tốt nghiệp
Đặc điểm của nguồn vốn này là tính ổn định thấp, thời gian sử dụng
ngắn phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời vụ và ngân hàng phải
chủ động trả cho khách hàng bất cứ lúc nào nhưng ngược lại chi phí huy động
của nguồn vốn này thường là rất thấp. Thời kỳ đầu ngân hàng còn thu phí trên
số dư tiền gửi này nhưng về sau để khuyến khích khách hàng gửi tiền vào
ngân hàng không thu phí, hiện nay để cạnh tranh với nhau các ngân hàng còn
trả tiền lãi cho các số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân
hàng. Biến động của tiền gửi thanh toán phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh
doanh, thời vụ, hoặc địa bàn hoạt động của ngân hàng. Khi sử dụng nguồn
vốn tiền gửi thanh toán ngân hàng phải thận trọng nếu không rủi ro chi trả sẽ
xảy ra, điều này có thể làm giảm uy tín của ngân hàng, hoặc phải vay với chi
phí cao để bù đắp.
Để huy động được nguồn tiền gửi thanh toán ngân hàng cần phải khuyến
khích các cá nhân và tổ chức kinh tế mở tài khoản thanh toán đồng thời cũng
cần phải nâng cấp các tiện ích và dịch vụ gia tăng kèm theo như: dịch vụ ngân
hàng trực tuyến, dịch vụ thẻ, dịch vụ thanh toán,…
b) Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có sự thỏa thuận giữa ngân hàng và
khách hàng về thời hạn gửi tiền trong khoảng thời gian đó ngân hàng có
quyền chủ động sử dụng số tiền đó khi khách hàng muốn rút tiền trước thời

hạn cần phải báo trước và phải được sự chấp thuận của ngân hàng. Tiền gửi
có kỳ hạn là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình hoạt động
kinh doanh do các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội tạo ra từ các
quỹ như quỹ khấu hao, quỹ đầu tư, từ các nguồn thu nhập của doanh nghiệp,
… khi họ biết trước được thời điểm sử dụng tiền, họ gửi những khoản tiền
này vào ngân hàng nhằm mục đích thu lợi và an toàn.
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
6
Chuyên đề tốt nghiệp
Ngân hàng thường phải trả lãi cao cho số dư tài khoản tiền gửi có kỳ
hạn, nên chi phí huy động thường cao nhưng bù lại tính ổn định của nguồn
vốn này lại cao Ngân hàng có thể yên tâm sử dụng mà không sợ bị rủi ro về
khả năng chi trả. Chính vì vậy, ngân hàng thương mại thường tìm cách đa
dạng hóa loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn khác nhau với
mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
c) Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền do dân cư gửi vào ngân hàng với mục
đích an toàn và sinh lợi đây thường là khoản tiền gửi có tỷ trọng cao nhất
trong tổng số tiền gửi của ngân hàng và có tính ổn định cao nhất. Đây là
nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng của dân cư, mục đích của người
gửi tiền là nhằm hưởng lãi suất do đó yếu tố thường được người gửi quan tâm
nhất là lãi suất.
Lãi suất chi trả cho người gửi tiết kiệm bao giờ cũng là cao nhất chính
vì vậy huy động nguồn vốn này sẽ có chi phí huy động lớn nhất. Để huy
động được nguồn vốn này, ngân hàng cần chú ý tới nhu cầu tiết kiệm từ
dân cư, lượng tiền gửi phụ thuộc vào thu nhập của dân cư, vào xu hướng
tiêu dùng, tiết kiệm, các đặc tính về văn hóa, xã hội. Muốn huy động nguồn
tiền gửi tiết kiệm ngân hàng cần phải chú ý mạng lưới huy động, cung cấp
các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh.

Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách
hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn, sự thay đổi
đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân hàng.
Qui mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác, thông thường chiếm trên
50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng.
Tiền gửi là đối tượng phải dự dữ bắt buộc do vậy chi phí tiền gửi thường
cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Tiền gửi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn thường
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
7
Chuyên đề tốt nghiệp
nhạy cảm với các biến động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu và
nhiều nhân tố khác. Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp,
dân cư gửi tiền. Trong điều kiện có lạm phát, người có tiền tiết kiệm thường
quan tâm tới lãi suất thực, điều đó có nghĩa là lãi suất thực dương mới thực sự
hấp dẫn các nguồn tiền tiết kiệm. Các yếu tố khác như địa điểm ngân hàng,
mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, các loại hình huy động đa dạng, các
dịch vụ đa dạng,…đều ảnh hưởng tới quy mô và cấu trúc của nguồn tiền. Thời
vụ chi tiêu ảnh hưởng đến quy mô và tính ổn định của nguồn tiền.
Như vậy, để huy động được nguồn tiền gửi có kỳ hạn, ngân hàng cần
phải nghiên cứu đặc điểm thị trường nguồn tiền để có biện pháp quản lý và
sử dụng thích ứng.
d) Phát hành giấy tờ có giá
Bên cạnh phương thức nhận tiền gửi, các ngân hàng thương mại còn phát
hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu. Thực chất các nghiệp vụ này là
ngân hàng huy động vốn tiền tệ bằng việc phát hành chứng từ có giá với kỳ
hạn và khoản lãi được hưởng hấp dẫn in trên giấy tờ có giá. Hình thức huy
động này được thực hiện với mục đích sử dụng vốn với số lượng và thời gian
phát hành nhất định khi cần thiết. Việc huy động thông qua chứng chỉ tiền gửi
thường có tính ổn định cao, và đặc biệt là quyền đòi tiền xếp sau các loại tiền

gửi khác.
Huy động vốn bằng việc phát hành giấy tờ có giá thường có lãi suất hấp
dẫn hơn các loại tiền gửi có cùng kỳ hạn vì vậy chi phí vốn cho việc huy động
nguồn vốn bằng cách này rất cao tuy nhiên “tính lỏng” của loại vốn này lại
cao vì có thể được mua bán thị trường vốn và có tính ổn định.
Một số giấy tờ có giá thường được ngân hàng thương mại phát hành huy
động vốn là trái phiếu, kỳ phiếu và chứng chỉ tiền gửi.
Trái phiếu là cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ (cả gốc và lãi) của ngân
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
8
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu. Mục đích của ngân hàng
khi phát hành trái phiếu là nhằm huy động vốn trung và dài hạn. Việc phát
hành trái phiếu chịu sự quản lý của Ngân hàng Trung ương, các cơ quan quản
lý trên thị trường chứng khoán và bị chi phối bởi uy tín của ngân hàng.
Kỳ phiếu là loại giấy tờ có giá ngắn hạn (trong 1 năm). Nó có đặc điểm
giống như trái phiếu nhưng có thời hạn ngắn hơn trái phiếu vì vậy nó được sử
dụng cho mục đích huy động vốn ngắn hạn của ngân hàng.
Chứng chỉ tiền gửi là những giấy tờ xác nhận tiền gửi định kỳ ở một
ngân hàng. người sở hữu giấy này sẽ được thanh toán tiền lãi theo kỳ và nhận
đủ vốn khi đến hạn. Chứng chỉ sau khi phát hành được lưu thông trên thị
trường tiền tệ.
1.1.3 Nguồn vốn đi vay
Tiền gửi là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng thương mại thực hiện hoạt
động kinh doanh của mình tuy nhiên ngân hàng không thể chủ động trong
việc huy động tiền gửi, một số thời điểm nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng
vượt quá khả năng hiện có của ngân hàng. Để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn
của ngân hàng trong những trường hợp cần thiết, ngân hàng có thể vay các tổ
chức tín dụng khác hoặc ngân hàng trung ương.

Tỷ trọng của nguồn tiền vay trong tổng nguồn thường thấp hơn nguồn
tiền gửi, các khoản đi vay thường là có thời hạn và quy mô xác định trước nên
tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Ngân hàng chỉ thực hiện đi vay lúc
cần thiết và hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu
cầu sử dụng, nguồn vay có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm
tiền gửi. Các khoản vay Ngân hàng Nhà nước và vay ngân hàng khác tuy lãi
suất thấp song thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức
thời khi nhu cầu thanh toán của khách hàng tăng cao.
Nguồn vốn đi vay của ngân hàng chủ yếu có 02 nguồn chính là vay từ
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
9
Chuyên đề tốt nghiệp
các tổ chức tín dụng khác và vay ngân hàng trung ương.
a) Vay từ các tổ chức tín dụng khác
Các ngân hàng thực hiện vay vốn lẫn nhau thông qua thị trường tiền tệ
liên ngân hàng. Lãi suất đi vay phụ thuộc vào quy mô món vay, thị trường và
kỳ hạn. Nguồn tiền đi vay không phải dự trữ bắt buộc, không cần bảo hiểm
tiền gửi đồng thời ngân hàng cũng chủ động được thời gian hoàn lại, kỳ hạn
của khoản vay có thể rất ngắn (qua đêm).
b) Vay từ ngân hàng trung ương
Ngân hàng thương mại có thể vay từ ngân hàng trung ương qua các hình
thức như chiết khấu, tái chiết khấu, hình thức vay này thông qua thị trường
mở. Ngân hàng thương mại thường nắm giữ một lượng giấy tờ có giá, khi cần
tiền mặt, ngân hàng thương mại thực hiện cầm cố tại ngân hàng trung ương.
Ngân hàng thương mại còn có thể vay từ các nguồn ngắn hạn như vay
để bù đắp dự trữ thiếu hụt, nâng cao khả năng thanh toán, nâng cao khả
năng thanh khoản. Các khoản vay này thường là trong thời gian rất ngắn.
Trong những trường hợp đặc biệt các ngân hàng vẫn có thể vay ngân hàng
trung ương để cho vay lại nền kinh tế theo chỉ định của Nhà nước với một

mức lãi suất ưu đãi nhưng khoản vay này thường bị hạn chế về số lượng
đặc biệt là khi chính sách tiền tệ quốc gia đang thắt chặt.
Lãi suất vay từ ngân hàng trung ương thường là ưu đãi nhưng để vay được
nguồn vốn này lại phụ thuộc vào chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ.
Thông qua lãi suất chiết khấu mà ngân hàng trung ương có thể điều chỉnh được
cung tiền tệ cũng như cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại.
1.1.4. Các nguồn vốn khác
Các nguồn vốn này thường không lớn, việc gia tăng các nguồn này nằm
trong chính sách tăng nguồn thu cho ngân hàng và bị ảnh hưởng rất lớn bởi
khả năng thực hiện và mở rộng các loại hình dịch vụ khác.
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
10
Chuyên đề tốt nghiệp
a) Vốn nhận ủy thác
Đây là nguồn được hình thành do các tổ chức, cá nhân, ủy thác tiền,
tài sản vào ngân hàng nhờ ngân hàng cho vay (ủy thác cho vay), đầu tư (ủy
thác đầu tư), giải ngân (ủy thác giải ngân) Cùng với sự phát triển các
mối quan hệ đa phương, rất nhiều Tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu
phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính đã sử dụng mạng lưới
ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu kết quả là hình thành
nguồn ủy thác, làm gia tăng nguồn vốn cho ngân hàng. Nguồn này khá ổn
định, các ngân hàng thực hiện hộ khách hàng và hưởng hoa hồng, không
phải trả lãi tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng là rất đáng kể như phải
tìm kiếm các chủ đầu tư, tìm hiểu yêu cầu của họ, nghiên cứu dự án mà họ
tài trợ,…
b) Nguồn vốn trong thanh toán
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn
vốn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở LC…).
Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có thể kết số dư từ

tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay
Ngoài ra, nguồn vốn của ngân hàng còn được hình thành từ nghiệp vụ
mua, bán, quản lý tài sản hộ. Khi ngân hàng thương mại càng phát triển
nghiệp vụ trung gian càng nhiều thì nguồn này chiếm tỷ trọng càng lớn.
1.2. Nghiệp vụ huy động vốn của NHTM.
1.2.1. Khái niệm về nghiệp vụ huy động vốn.
Vốn ngân hàng là những giá trị tiền tệ do doanh nghiệp tạo lập hoặc huy
động được để cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Nó được
biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản hữu hình, vô hình, tài sản tài chính
được đầu tư vào các hoạt động kinh doanh nhằm tạo ra lợi nhuận. Nguồn vốn
của ngân hàng thương mại bao gồm: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
11
Chuyên đề tốt nghiệp
vay và vốn khác. Vốn chủ sở hữu thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng
nguồn vốn ngân hàng nhưng cũng có vai trò quan trọng. Nó quyết định vị trí,
quy mô cũng như khả năng cho vay, đầu tư của ngân hàng, mặt khác nó còn là
cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác và giữ vai trò chống đỡ rủi ro phá sản
cho ngân hàng. Tuy vậy, nguồn vốn huy động được mới là nguồn tài nguyên
quan trọng tạo nên sự thịnh vượng cho ngân hàng.
Nguồn vốn huy động được là đầu vào sống còn đối với ngân hàng. Đây
là nguồn vốn chính để tài trợ cho các khoản cho vay, đầu tư, cung cấp dịch
vụ… tạo lợi nhuận nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM, là số tiền mà
NHTM có được từ các nghiệp vụ nhận tiền gửi, đi vay và các nghiệp vụ khác.
Nguồn vốn huy động được biểu hiện trên bảng cân đối kế toán là các tài
khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi tiết kiệm, phát hành giấy
tờ có giá, vay NHNN và tổ chức tín dụng khác, các nguồn khác….
1.2.2. Vai trò của nguồn vốn huy động đối với NHTM.

a) Vốn là điều kiện tiền đề để các NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh
doanh
Không có vốn thì Ngân hàng không thể thực hiện được các nghiệp vụ
kinh doanh. Vốn là điều kiện bắt buộc đối với các NHTM để được phép hoạt
động. Ngay từ khi bước vào hoạt động, các ngân hàng cần vốn để mua đất
đai, xây dựng cở sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, và những điều kiện làm
việc khác. Và với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là
phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của
NHTM. Do đó, khi tiến hành hoạt động kinh doanh, ngân hàng không thể chỉ
dựa vào nguồn vốn ban đầu, mà phải thực hiện nghiệp vụ huy động vốn từ các
nguồn khác nhau trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Quy mô hoạt động
phụ thuộc rất lớn vào nguồn tài chính của ngân hàng. Những ngân hàng
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
12
Chuyên đề tốt nghiệp
trường vốn sẽ có thế mạnh trong cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu của khách hàng
tốt hơn, và dễ dàng xâm nhập thị trường hơn. Vốn nhỏ sẽ khiến ngân hàng dè
dặt, không dám mạnh dạn đầu tư vào những lĩnh vực mới hay lĩnh vực tiềm
ẩn nhiều rủi ro nhưng mang lại mức lợi nhuận cao. Ngân hàng hoạt động kinh
doanh chủ yếu dựa vào vốn huy động, và vốn huy động chiếm gần 90% tổng
nguồn vốn ngân hàng.
b) Vốn quyết định quy mô của ngân hàng trong hoạt động tín dụng, bảo
lãnh và các hoạt động khác
Vốn của ngân hàng có tính chất quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp
quy mô hoạt động tín dụng, đầu tư của ngân hàng, khả năng thanh toán, chi
trả cũng như các hoạt động khác. Thông thường, so với các ngân hàng có quy
mô vốn lớn, các ngân hàng có quy mô vốn nhỏ có khoản mục đầu tư và cho
vay kém đa dạng hơn, phạm vi và đối tượng cho vay của các ngân hàng này
cũng nhỏ hơn. Trong khi đó, ngân hàng có quy mô vốn lớn dễ dàng mở rộng

phạm vi cho vay, không chỉ trên địa bàn mình mà còn hướng ra khu vực và
quốc tế. Thêm vào đó, do khả năng vốn hạn hẹp nên các ngân hàng có quy mô
vốn nhỏ không phản ứng nhạy bén được với sự biến động về thị trường, về lãi
suất, gây ảnh hưởng lớn đến khả năng thu hút vốn đầu tư từ các tầng lớp dân
cư và các tổ chức trong nền kinh tế. Với nguồn vốn lớn, các ngân hàng dễ
dàng hơn trong việc chủ động quyết định kỳ hạn, lãi suất, thời hạn của các
khoản mục cho vay và đầu tư, phạm vi và quy mô cũng được nhiều hơn. Vốn
có tầm quan trọng lớn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Nền kinh tế
nước ta đang trên đà phát triển, hiện tại và tương lai nhu cầu vốn là rất lớn,
nếu các ngân hàng không dự đoán, điều chỉnh công tác huy động để duy trì
nguồn vốn thì có thể bỏ qua những cơ hội phát triển.
c) Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng
Như đã đề cập ở trên, phần lớn nguồn vốn của ngân hàng là nguồn tiền
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
13
Chuyên đề tốt nghiệp
gửi từ các tổ chức kinh tế và dân cư. Đặc điểm của nguồn tiền này là hoàn trả
khi có yêu cầu (trừ khi có thỏa thuận khác), nên ngân hàng thường xuyên phải
đối mặt với nhu cầu rút tiền của khách hàng. Vì thế năng lực thanh toán cao là
yếu tố các ngân hàng cần phải đảm bảo và luôn được chú trọng. Vốn khả
dụng của ngân hàng càng cao thì khả năng thanh toán chi trả của ngân hàng
càng lớn. Do đó, loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng
tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và vốn khả dụng nói riêng.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô
hoạt động đòi hỏi các ngân hàng phải có uy tín lớn trên thị trường. Để được
coi là có uy tín trên thị trường, các ngân hàng phải đáp ứng tốt nhất, tức thời
các yêu cầu của khách hàng, trong đó có nhu cầu thanh toán. Nếu ngân hàng
không thể thực hiện ngay, sẽ mất lòng tin của khách hàng, nghiêm trọng hơn,
phản ứng dây chuyền lan truyền trong dân chúng có thể dẫn đến việc rút tiền

đồng loạt, ngân hàng mất khả năng thanh toán, phá sản và có thể gây ra đổ vỡ
hệ thống.
Vì vậy, việc nâng cao hoạt động huy động vốn để tạo ra nguồn vốn lớn
trong ngân hàng đã gián tiếp nâng cao khả năng thanh toán cũng như uy tín
của ngân hàng trên thị trường tiền tệ.
d) Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, kinh doanh ngân hàng đang là một
lĩnh vực có tốc độ phát triển mạnh mẽ. Vì thế việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của mỗi ngân hàng đang là vấn đề cấp bách của các nhà quản lý, điều
hành ngân hàng. Trong lĩnh vực này rất khó có thể tạo ra sự khác biệt về sản
phẩm, dịch vụ hay lãi suất. Do đó, để có thể thu hút khách hàng, ngân hàng
phải có một tiềm lực tài chính mạnh và ổn định. Tiềm lực tài chính mạnh
được xây dựng dựa trên một nguồn vốn lớn. Khả năng vốn lớn là điều kiện để
các ngân hàng mở rộng quan hệ tín dụng với tất cả các tổ chức, cá nhận trong
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
14
Chuyên đề tốt nghiệp
nền kinh tế, vốn lớn tăng quyền chủ động của ngân hàng trong việc thỏa thuận
quy mô, kỳ hạn, thời hạn, thậm chí cả lãi suất. Có như vậy, các ngân hàng
mới có thể mở rộng kinh doanh, tăng thu lợi nhuận, bổ sung làm gia tăng
nguồn vốn tự có. Hơn thế nữa, quy mô vốn lớn sẽ giúp các ngân hàng đa dạng
hóa danh mục đầu tư, có thể góp vốn thành lập các công ty tài chính, mở
rộng dịch vụ thuê mua, thành lập các công ty chứng khoán, công ty bất động
sản… Một danh mục đa dạng như vậy sẽ làm tăng thu cho ngân hàng, phân
tán rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tăng sức cạnh tranh của ngân
hàng trên thị trường.
Vốn có vai trò quyết định trong việc thực hiện các hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Để có được quy mô vốn lớn, các ngân hàng phải nâng cao
hiệu quả hoạt động huy động vốn của mình. Do đó, để có thể phát triển bền

vững, các ngân hàng phải tự xây dựng cho mình một chiến lược huy động vốn
khả thi, hiệu quả.
1.2.3. Các hình thức huy động vốn của NHTM.
Trong nền kinh tế mở cửa hội nhập hiện nay, để thu hút được nguồn vốn
lớn, các NHTM phải tìm cách đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, đáp ứng tối đa
nhu cầu và thỏa mãn mọi mong muốn của khách hàng. Vì thế, có thể phân các
hình thức huy động vốn theo các tiêu thức sau đây.
1.2.3.1. Theo đối tượng huy động
a) Huy động vốn từ dân cư
Đối với nguồn tiền huy động từ dân cư, do nhu cầu sử dụng là khác nhau
nên các NHTM luôn tìm mọi cách để đa dạng hóa nguồn vốn huy động này
bằng cách đa dạng hóa các sản phẩm như rút ngắn kì hạn gửi tiền có thể theo
ngày, theo tuần, theo tháng, lãi suất bậc thang, rút gốc linh hoạt…
b) Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng và các tổ
chức khác
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
15
Chuyên đề tốt nghiệp
Đây là khoản tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng trong
và ngoài nước, các tổ chức xã hội khác như cơ quan nhà nước, đơn vị vũ
trang, tổ chức chính trị xã hội… Phần lớn mục đích của nguồn tiền gửi này là
nhằm mục tiêu thanh toán, hưởng các dịch vụ khác của ngân hàng. Bên cạnh
đó, còn nhằm mục đích sinh lời đối với khoản tiền nhàn rỗi chưa cần sử dụng.
Đối với mục đích gửi tiền để hưởng các dịch vụ thanh toán, ngân hàng
thường không trả lãi hoặc quy định một tỷ lệ lãi suất rất thấp và khách hàng
khi hưởng các dịch vụ này thì phải trả một khoản phí dịch vụ nhất định. Do
nhu cầu thanh toán của các doanh nghiệp là rất lớn nên hình thức huy động
vốn này tạo nên một nguồn lớn trong vốn của ngân hàng.
Đối với những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi và chưa cần dùng đến

trong thanh toán, khách hàng thường lựa chọn hình thức gửi tiết kiệm với
mức lãi suất quy đinh cao hơn nhưng không được hưởng các dịch vụ thanh
toán. Khi có nhu cầu sử dụng, các tổ chức phải cử người đại diện của mình
đến ngân hàng để yêu cầu rút tiền.
1.2.3.2. Theo phương thức huy động
a) Huy động tiền gửi của các pháp nhân
- Tiền gửi không kỳ hạn
Đây là khoản tiền mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào và
ngân hàng phải thỏa mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn
có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi. Tùy theo mục đích gửi tiền mà người
ta phân chia thành tiền gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn thuần túy
+ Tiền gửi thanh toán: đây là khoản tiền gửi thanh toán của các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân gửi vào ngân hàng trước hết được sử dụng để tiến
hành thanh tóan, chi trả cho các hoạt động hàng hóa, dịch vụ và các khoản chi
khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và
thuận tiện. Khi sử dụng các tiện ích thanh toán, chủ sở hữu tài khoản phải trả
cho ngân hàng một khoản phí.
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
16
Chuyên đề tốt nghiệp
+ Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy: đây là khoản tiền của doanh nghiệp,
cá nhân, tổ chức gửi vào ngân hàng trong khi chưa có kế hoạch sử dụng cụ thể
nhằm mục đích đảm bảo an toàn tài sản và khi cần có thể sử dụng ngay,
không mang tính chất phục vụ thanh toán. Khi cần khách hàng có thể đến
ngân hàng rút ra để chi tiêu. Hình thức gửi tiền này không được ngân hàng
cho phép phát hành séc.
Nói chung, tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng phản ánh
mối quan hệ kinh tế, pháp lý giữa ngân hàng với người gửi tiền nên giữa ngân
hàng với người gửi tiền phải tuân thủ quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền

gửi do Thống đốc NHNN ban hành và các văn bản quy phạm pháp luật khác
có liên quan, đồng thời chủ tài khoản phải làm thủ tục mở tài khoản và đăng
kí mẫu chữ ký của chủ tài khoản đối với khách hàng là cá nhân, mẫu chữ ký
chủ tài khoản và kế toán trưởng, mẫu con dấu đối với các khách hàng là
doanh nghiệp, tổ chức xã hội tại các ngân hàng mở tài khoản. Ngân hàng
được từ chối thanh toán nếu người gửi tiền vi phạm quy định quản lý tài
khoản thanh toán và chế độ chứng từ kế toán ngân hàng.
Đứng trên góc độ ngân hàng, tiền gửi không kì hạn một khoản nợ mà
ngân hàng luôn phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào. Tuy
nhiên, trong mỗi ngân hàng có sự không khớp nhịp giữa xuất và nhập trên mỗi
tài khoản tiền gửi thanh tóan hay giữa các tài khỏan của các doanh nghiệp làm
cho nhập lớn hơn xuất, tạo nên tồn khoản. Khi đã đảm bảo khả năng thanh toán
của mình, ngân hàng có thể sử dụng tồn khoản vào làm vốn kinh doanh.
- Tiền gửi có kỳ hạn
Đây là loại tiền gửi có sự thỏa thuận trước giữa khách hàng và ngân
hàng về thời gian rút tiền. Loại tiền gửi này của các doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế, cá nhân, có nguồn gốc từ tích lũy và xét về bản chất chúng được ký
thác với mục đích hưởng lãi.
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Các NHTM nhận hai loại tiền gửi có kỳ hạn là tiền gửi có kỳ hạn và tiền
gửi báo rút (tức là khi muốn rút ra phải báo trước). Về cơ bản, các khoản tiền
gửi có kì hạn không được sử dụng để tiến hành thanh toán như các khoản chi
trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai nên không thể phát séc. Thông thường,
tiền gửi có kỳ hạn là các khoản tiền gửi có thời hạn dài và có lãi suất cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền
gửi tiết kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng
phần lớn tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì vây, các NHTM luôn tìm cách

đa dạng hóa loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi
suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng.
b) Tiền gửi tiết kiệm của các thể nhân
Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành theo quyết định số
1160/2004/QĐ-NHNN của thống đốc ngân hàng Nhà nước đã quy định rõ “
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi
tiết kiệm, được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của
tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật
về bảo hiểm tiền gửi”.
Trong nền kinh tế thị trường, tiền gửi tiết kiệm được phát triển thành hai
loại là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền
có thể rút tiền theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc
nào của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có
thể rút tiền sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận
tiền gửi tiết kiệm.
Nguồn tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng lớn và quan trọng nhất trong
tổng nguồn vốn huy động. Do đó, việc tăng cường huy động nguồn tiền này
đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của NHTM.
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
18
Chuyên đề tốt nghiệp
c) Phát hành giấy tờ có giá
Các giấy tờ có giá là các công cụ Nợ do ngân hàng phát hành để huy
động vốn trên thị trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định để sự dụng cho
một mục đích nào đó. Các giấy tờ có giá do NHTM phát hành bao gồm kỳ
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi.
Theo chuẩn mực kế toán số 16, các doanh nghiệp trong đó có NHTM

phát hành giấy tờ có giá theo ba phương thức là phát hành giấy tờ có giá
ngang giá, phát hành giấy tờ có giá chiết khấu và phát hành giấy tờ có giá phụ
trội. Về trả lãi phát hành giấy tờ có giá thường áp dụng ba hình thức trả lãi là
trả lãi trước, trả lãi sau và trả lãi định kỳ.
Trong hình thức huy động vốn này, ngân hàng phải trả lãi suất cao hơn
so với lãi suất tiền gửi huy động. Nghiệp vụ này chỉ được tiến hành khi ngân
hàng thiếu vốn mà vốn tự có và vốn huy động tiền gửi không đủ. Như vậy,
khi thực hiện huy động vốn dưới các hình thức này, các ngân hàng phải căn
cứ vào đầu ra để quyết định về khối lượng huy động. mức lãi suất và thời hạn,
phương thức huy động. Vốn này chỉ được huy động trong một thời gian nhất
định, khi đã huy động đủ khối lượng vốn theo dự kiến, các ngân hàng sẽ
ngừng việc huy động (bán) kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi.
1.2.3.3 Theo thời gian huy động
a) Huy động vốn ngắn hạn
Các khoản huy động có thời gian dưới 12 tháng được gọi là các khoản
huy động ngắn hạn. Tùy theo chiến lược phát triển cũng như mức độ đa
dạng hóa các sản phẩm tiền gửi của các NHTM mà có thể chia nhỏ các kỳ
hạn theo tuần, tháng, quý. Đối với khoản tiền gửi này, tỷ lệ dự trữ bắt buộc
thường cao. Đây là nguồn tiền thường được khách hàng ưa chuộng nên
chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn huy động.
d) Huy động vốn trung và dài hạn
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
19
Chuyên đề tốt nghiệp
Các khoản huy động có thời gian trên 12 tháng được gọi là các khoản
huy động trung và dài hạn. Do kỳ hạn dài nên lãi suất chi trả cho nguồn tiền
này thường cao. Đây là nguồn tiền có chi phí cao nên chiếm tỷ trọng thấp hơn
so với nguồn ngắn hạn trong tổng nguồn vốn huy động.
1.2.3.4 .Theo loại tiền huy động

Căn cứ vào tính thanh khoản, mức độ ưa thích, nhu cầu dự trữ, đầu tư
của người dân mà ngân hàng có thể huy động bằng nội tệ (VNĐ) hoặc là
ngoại tệ (ngoại tệ mạnh).
a) Huy động bằng nội tệ
Do quá trình tích lũy và nhu cầu tiêu dùng, thanh toán trong nước nên
khách hàng thường gửi tiền bằng đồng nội tệ. Do đó, nguồn vốn này thường
chiếm phần lớn trong nguồn vốn huy động và có lãi suất cao hơn.
b) Huy động bằng ngoại tệ
Từ nhu cầu đầu tư, cất trữ bằng các ngoại tệ mạnh của khách hàng, hay
nhu cầu thanh toán trong xuất nhập khẩu hàng hóa đã làm nên nguồn vốn huy
động bằng ngoại tệ trong ngân hàng. Do sự biến động về tỷ giá nên lãi suất
huy động của loại này thường thấp hơn so với huy động bằng nội tệ.
1.3. Hiêu quả huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
1.3.1. Khái niệm hiệu quả huy động vốn.
Khi kinh tế càng phát triển và có nhiều biến động, cạnh tranh trên thị
trường tài chính ngày càng trở nên quyết liệt. Và các ngân hàng ngày nay đều
nhận thấy vai trò quan trọng của hoạt động huy động vốn trong quá trình phát
triển của mình. Như đã đề cập ở trên, năm 2011 là năm mà chỉ tiêu đảm bảo
thanh khoản còn đặt trên chỉ tiêu lợi nhuận, chỉ tiêu giúp các ngân hàng tồn
tại. Đây là lúc mà các ngân hàng nhận thấy tồn tại là điều kiện tiên quyết.
Cũng không hẳn chỉ qua những năm 2011, 2012 các ngân hàng mới chú
trọng hoạt động huy động vốn mà các ngân hàng đều có kế hoạch, chiến lược
để tăng cường hoạt động này.
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
20
Chuyên đề tốt nghiệp
“Hiệu quả huy động vốn được thể hiện ở khả năng đáp ứng cao nhất
nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng, đó chính là đáp ứng một cách đầy đù,
kịp thời và chính xác nhu cầu sử dụng vốn với một chi phí hợp lý”.

Bao giờ cũng vậy, khi nhắc đến hiệu quả, chúng ta luôn phải so sánh
giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Khi so sánh kết quả và chi phí, ta
thường so sánh dưới dạng thương số, chi phí/kết quả hoặc kết quả/chi phí. Ta
không thể đánh giá chỉ tiêu hiệu quả qua hiệu số của kết quả và chi phí. Bởi
chênh lệch giữa thu nhập và chi phí chỉ cho ta biết lợi nhuận gộp của ngân
hàng, từ lợi nhuận gộp có thể xác định được lợi nhuận ròng của ngân hàng.
Đây là chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động của ngân hàng trong một thời kỳ.
1.3.2. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả huy động vốn.
1.3.2.1 Quy mô huy động vốn
Quy mô vốn hợp lý luôn được các ngân hàng muốn đạt tới. Đây là chỉ
tiêu quan trọng phản ánh chất lượng hoạt động của ngân hàng nói chung và
hiệu quả huy động vốn nói riêng. Một quy mô vốn phù hợp có nghĩa là phải
đáp ứng đủ nhu cầu tín dụng, đầu tư, đáp ứng nhu cầu chi trả cho các tổ chức
và cá nhân. Sự thiếu đồng bộ giữa quy mô huy động vốn và nhu cầu sử dụng
vốn đều ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của ngân hàng và nguy cơ thua lỗ.
Nếu vốn huy động không đáp ứng đủ, ngân hàng rơi vào tình trạng thiếu vốn,
phải đi vay thêm với chi phí cao hơn nếu muốn mở rộng đầu tư, cho vay.
Ngược lại, nếu huy động quá nhiều mà quy mô cho vay, đầu tư và chi trả thấp
thì dẫn đến ứ động vốn Bởi mỗi một đồng vốn huy động đều phát sinh chi
phí, nếu không được sử dụng hợp lý sẽ ảnh hưởng đến thu nhập cũng như uy
tín của ngân hàng.
Sự gia tăng của quy mô vốn được thể hiện thông qua sự gia tăng về số
lượng tuyệt đối và tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn. Về sự gia tăng tuyệt đối
của quy mô vốn được đo bằng hiệu số tổng nguồn vốn huy động được năm
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
21
Chuyên đề tốt nghiệp
sau và năm trước. Nếu hiệu số này lớn hơn không có nghĩa là quy mô nguồn
vốn năm nay cao hơn quy mô vốn năm trước, và tăng được bao nhiêu so với

mục tiêu, kế hoạch đề ra. Còn tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn được thể
hiện qua công thức:
Tốc độ tăng trưởng của vốn kỳ i
=
Quy mô vốn kỳ i
Quy mô vốn kỳ i-1
Nếu tốc độ tăng trưởng vốn lớn hơn không thì số vốn huy động năm thứ
i tăng, ngược lại thì tốc độ tăng trưởng nhỏ hơn không, quy mô vốn giảm.
Sự gia tăng tuyệt đối và tốc độ tăng trưởng vốn đều cho chúng ta biết
được khả năng huy động vốn của ngân hàng, nó cho biết quy mô vốn của
ngân hàng tăng lên hay giảm đi. Với chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng của vốn còn
cho ta biết mức biến động của nguồn vốn. Nếu tốc độ tăng đều qua các năm,
ban đầu có thể khẳng định nguồn vốn huy động gia tăng ổn định. Ngoài ra,
chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng vốn còn được tính cho quy mô của từng loại vốn.
Quy mô vốn có tốc độ tăng trưởng ổn định giúp ngân hàng có thể dự báo
tương đối chính xác lượng vốn có thể huy động được để có kế hoạch đầu tư,
cho vay cho kỳ tiếp theo. Đồng thời, tốc độ gia tăng của từng loại vốn ở mỗi
thời điểm sẽ cho ngân hàng dự đoán sự thay đổi về quy mô và kết cấu của
nguồn vốn, từ đó đưa ra phương thức huy động vốn hiệu quả trong giai đoạn
tới.
Trong từng hoàn cảnh cụ thể, quy mô và tốc độ tăng trưởng vốn huy động
cũng như từng loại vốn của mỗi một ngân hàng khác nhau. Thông thường khi
đạt tới quy mô huy động vốn lớn thì tốc độ tăng trưởng sẽ bị chậm lại.
1.3.2.2 Cơ cấu huy động vốn
Cơ cấu của nguồn vốn huy động ảnh hưởng đến cơ cấu tài sản và quyết
định chi phí của ngân hàng. Cơ cấu của nguồn vốn được phân chia theo nhiều
tiêu chí khác nhau phụ thuộc vào từng mục đích của ngân hàng. Cơ cấu của
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
22

Chuyên đề tốt nghiệp
nguồn vốn có thể được phân loại theo đối tượng huy động, theo kỳ hạn, theo
đồng tiền huy động… Cơ cấu của nguồn vốn được phản ánh thông qua tỉ
trọng từng loại vốn trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng.
Tỷ trọng của loại vốn i =
Quy mô loại vốn i
Tổng vốn huy động được
Kết hợp giữa tỷ trọng của từng loại vốn với quy mô tăng trưởng của
chúng cho ta cái nhìn tổng quát hơn về cơ cấu vốn huy động của ngân hàng.
Cơ cấu vốn huy động của ngân hàng cho ta biết ưu thế của ngân hàng đối với
từng loại vốn. Các ngân hàng nhỏ thường có tỷ trọng tiền gửi lớn hơn tỷ trọng
tiền vay trong tổng nguồn vốn huy động.
Để phục vụ cho công tác quản lý nguồn vốn, NHTM sử dụng mô hình
cấu trúc kỳ hạn của nguồn vốn. Các nguồn vốn của NHTM tại một thời điểm
nào đó được phân chia thành các nhóm khác nhau tuỳ thuộc vào ngày đến hạn
dự kiến của chúng. Từ đó có thể dự báo một cách tương đối về quy mô nguồn
vốn đến hạn (có thể bị rút ra) trong khoảng thời gian tương ứng như: trả theo
yêu cầu, 1-30 ngày, 1-3 tháng, 3-6 tháng, 6-12 tháng, hơn 12 tháng. Báo cáo
về cấu trúc kỳ hạn là công cụ quan trọng được sử dụng để phân tích, so sánh
biến động cơ cấu kỳ hạn tại các thời điểm khác nhau, phân tích sự tương thích
giữa nguồn vốn và sử dụng nguồn, quản lý rủi ro lãi suất.
Tính ổn định của nguồn vốn được phản ánh qua kỳ hạn danh nghĩa của
nguồn. Các kỳ hạn danh nghĩa càng dài thì sự ổn định càng cao đồng thời chi
phí bỏ ra huy động càng cao. Nhìn chung, khi đã lựa chọn gửi tiền theo mục
đích tiết kiệm thì những người gửi tiền đều cố gắng duy trì kỳ hạn danh nghĩa
đó để hưởng lãi suất ở mức cao nhất. Nếu môi trường kinh tế vĩ mô không ổn
định (lạm phát cao, tỷ giá biến động theo hướng không có lợi cho người gửi
tiền nội tệ, thu nhập dân cư thấp, thị trường tài chính kém phát triển…) thì
việc thu hút những nguồn vốn có kỳ hạn dài rất khó khăn.
SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung

Lớp: 610411B
23
Chuyên đề tốt nghiệp
Tuy nhiên, có những khoản tiền gửi có kỳ hạn của khách hàng đến hạn
nhưng vẫn tiếp tục duy trì với kỳ hạn đó. Trên thực tế, đây được coi là những
khoản tiền gửi trung và dài hạn. Kỳ hạn thực tế của nguồn tiền là thời gian mà
khoản tiền đó liên tục tồn tại trong ngân hàng. Giống như kỳ hạn danh nghĩa,
một số nguyên nhân khác gây ảnh hưởng tới kỳ hạn thực tế của ngân hàng là:
nhu cầu chi tiêu đột xuất, lãi suất cạnh tranh của các ngân hàng khác, lãi suất
giữa các nguồn tiền khác nhau và tỷ giá hối đoái sẽ gây ra sự dịch chuyển
tiền từ ngân hàng này sang ngân hàng khác, từ kỳ hạn này sang kỳ hạn khác
và thay đổi cơ cấu ngoại tệ và nội tệ ngay trong chính mỗi ngân hàng. Các
nhà quản lý ngân hàng phải tổng hợp các số liệu thống kê để thấy biến động
của mỗi nguồn, nhóm nguồn, tìm số dư thấp nhất trong quý, trong 1 năm và
nhiều năm và các nhân tố ảnh hưởng tới sự thay đổi số dư của nguồn, từ đó đo
được kỳ hạn thực tế của nguồn.
Nhìn chung, dựa vào các báo cáo về cấu trúc, kỳ hạn của nguồn huy
động để nhà quản lý ngân hàng phân tích, so sánh biến động cơ cấu kỳ hạn tại
các thời điểm khác nhau, sự tương hợp giữa các nguồn vốn và sử dụng vốn để
đánh giá hiệu suất sử dụng vốn và giúp cho việc tạo ra khe hở lãi suất tích cực
để quản lý rủi ro lãi suất. Các nguồn vốn huy động được phân chia vào tài sản
của ngân hàng như tiền mặt, tiền gửi ngân hàng khác, cho vay, mua chứng
khoán…dưới sự phù hợp với cơ cấu kỳ hạn của nguồn vốn.
Thông thường các ngân hàng vẫn sử dụng một phần nguồn vốn có kỳ
hạn ngắn để đầu tư vào các tài sản có thời hạn dài hơn nhưng chỉ ở một tỷ lệ
nhất định vì phải chịu sức ép về khả năng thanh toán và tuân theo quy định
của cơ quan quản lý. Nhưng nếu sử dụng vốn dài hạn để cho vay ngắn hạn thì
lãi thu được không đủ bù đắp chi phí huy động vốn.
Do đó, qua mô hình cấu trúc kỳ hạn ngân hàng tiến hành điều chỉnh cơ
cấu nguồn vốn và danh mục tài sản để nâng cao hiệu suất sử dụng vốn tăng

SV: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp: 610411B
24

×