Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ KHAI THÁC VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.4 KB, 15 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ KHAI THÁC VỐN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I/ Khái niệm cơ bản về vốn
1/ Vốn hiện vật .
Vốn hiện vật là các hàng hoá đã được sản xuất và được sử dụng đẻ sản xuất
ra các hàng hoá và dịch vụ khác có lợi hơn.
Vốn hiện vật bao gồm máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nghuyên nhiên vật liệu
dự trữ do quá trình sản xuất và kinh doanh. Vốn hiện vật và đất đai gộp lại tạo nên
tài sản hữu hình của doanh nghiệp. Chúng là của cải hoặc tài sản bởi vì chúng có
tính lâu bền. Chúng là hữu hình bởi vì chúng là hàng hoá hiện vật có thể sờ thấy
được. Lao động kết hợp với tài sản sẽ tạo ta các sản phẩm cầnthiết cho xã hội.
2/ Vốn nhân lực
Vốn nhân lực là toàn bộ trình độ chuyên môn mà một người lao động tích
luỹ được. Nó được đánh giá cao vì có tiềm năng đem lại thu nhập trong tương lai.
Cũng như vốn vật chất, vốn nhân lực là kết quả đầu tư trong quá khứ với mực đích
tạo ra thu nhập trong tương lai.
3/ Vốn tài chính
Vốn tài chính không phải là tài sản hữu hình. Nó không thể trực tiếp tham
gia vào quá trình sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ mặc dù chúng được sử dụng để
mua các yếu tố dùng để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ.
Như vậy sự kết hợp hài hoà giữa vốn nhân lực, vốn vật chất và vốn tài chính
giúp cho các doanh nghiệp tiến hành sản xuất ra những sản phẩm cần thiết cho xã
hội. Bất cứ một quá trình sản xuất nào cũng cần phải có vốn. Vốn là khâu mắt xích
quan trọng đầu tiên của một quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá .
Vốn tài chính được thể hiện dưới các hình thức tiền tệ. Tiền tệ trong tuỹ
nghiệp vụ của Ngân hàng, tiền tồn quỹ tại các đơn vị và các tổ chức kinh tế, tiền
tiết kiệm trong dân cư. Nguồn vốn này rất phong phú và đa dạng nhưng chúng ta
chưa khai thác hết để phục vụ cho việc phát triển kinh tế.
II/ Vốn và các hình thức tạo vốn của ngân hàng thưong mại trong nền kinh tế
thị trường.
1/ Khái niệm cơ bản về vốn của Ngân hàngthương mại.


Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do NH tạo lập hoặc
huy động, dùng để cho vay, đầu tư hoặc hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Thực chất, nguồn vốn NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời
sản xuất trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu
chúng gửi vào NH với các mục đích khác nhau. Hay nói cách khác, họ chỉ có
quyền sở hữu còn quyền sử dụng vốn tiền tệ họ chuyển nhượng cho NH, để rồi
ngân hàng phải trả lại cho họ một khảon thu nhập. Và như vậy ngân hàng đã thực
hiện vai trò tập trung và phân phối lại dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá
trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích tích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng
thời, chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn tại và hoạt động kh của ngân
hàng nông nghiệp. Nhìn chung, vốn chi phối toàn bộ các hoạt động của ngân hàng
thương mại.
2/ Két cấu và tính chất vốn kinh doanh của NHTM.
2.1/ Vốn tự có.
Vốn tự có củan NHTM là những giá trị tiền tệ của NHTM tạo lập được,
thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn
vốn của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi mới thành lập một
ngân hàng. Do tích chất thường xuyên ổn định của vốn tự có, ngân àhng có thể chủ
động sử dụng vào các mục đích khác nhau như; trang bị cơ sở vật chất, tạo tái tài
sản cố định (văn phòng, kho tàng, trang thiết bị ...) phục vụ cho bản thân Ngân
hàng, cho vay và đặc biệt là tham gia đầu tư, góp vốn liên doanh. Mạt khác, với
chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài sản đảm bảo gây lòng tin với khách
hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp Ngân hàng gặp nhiều thua lỗ.
Nó còn là một trong những căn cứ quyết định đến quy mô và khối lượng vốn huy
động của Ngân hàng (theo pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và Công ty tài
chính quy định vốn huy động không được vượt quá 20 lần vốn tự có). Như vậy,
quy mo và sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định đến năng lực và ưu thế phát
triển của NH. Về bản chất, vốn tự có là một bộ phận của tài sản nợ, mà mỗi thành
phần của nó gắn liền với một loại nghiệp vụ nhất định.
Vốn tự có của NHTM gồm những thành phần cơ bản sau:

- Vố cơ bản là vốn pháp định - vốn điều lệ. Trong đó mức vốn pháp định là
mức vốn tối thiểu phải có để thành lập Ngân hàng do pháp luật quy ddịnh. Khác
với vốn pháp định, vốn điều lệ lại là vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi vào
trong điều lệ hoạt động của Ngân hàng và theo quy định tối thiểu phải bằng vốn
pháp định. Đối với các Ngân hàng tư Ngân hàngân, đây là vốn sở hữu riêng của
doanh nghiệp và được hìNgân hàng thàNgân hàng sau một quá trìNgân hàng tích
tụ tập trung vốn lại, đối với các Ngân hàng quốc doanh được phép hoạt động trên
cơ sở vốn ban đầu do ngân sách cấp. Vốn điều lệ của các Ngân hàng cổ phần do
các cổ đông đóng góp dưới hình thức mua cổ phiếu, còn với Ngân hàng liên
doanhlà sự góp vốn từ các bên liên doanh.
- Vố tự có bổ sung: Vốn của các NHTM không ngừng được tăng lên theo
thời gian nhờ có nguồn vốn bổ sung. Vố tự có bổ sung bao gồm:
+ Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, có mục đích tăng cường vốn tự có ban
đầu.
+ Quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ.
+ Ngoài các quỹ trên, vốn tự có bổ sung còn bao gồm phần lợi nhuận chưa
phân bổ hoặc các quỹ nghiệp vụ khác như: Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ Ngân
hàng, quỹ phúc lợi, khen thưởng, khấu hao...
2.2. Vốn huy động.
Vốn lưu động là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ các tổ
chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông quá quá trình thực hiện các nghiệp
vụ tín dụng, thanh toán các nghiệp vụ kinh doanh khác và được làm vốn để kinh
doanh.
Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, Ngân
hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả
cả gốc và lãi đến kỳ hạn (đối với tiền gửi có kỳ hạn) hoặc khi họ có nhu cầu rút
vốn để chi trả (đối với tiền gửi không có kỳ hạn). Vốn huy động đóng vai trò rất
quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của NHNN.
Vốn huy động luôn biến động, nên Ngân hàng không được phép sử dụng hết

số vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng
thanh toán. Vốn huy động bao gồm:
- Tiền gửi: tiền gửi tại NHTM bao gồm tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không
kỳ hạn.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: là khoản tiền gửi mà người sử dụng có thể rút ra bằng
séc hay tiền mặt để có thể sử dụng chúng báat cứ lúc nào và Ngân hàng phải thoả
mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn có mức lãi suất thấp hoặc
không được trả lãi và bao gồm hai loại:
i. Tiền gửi thanh toán: Đó là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được
sử dụng để tiến hành thanh toán, chi trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai. Thông
thường tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền có thời hạn và lãi suất cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vai trò trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi
tiết kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng phần lớn
tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy, các ngân hàng Thương mại luôn tìm cách
đa dạng hoá loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn khác nhau với các
mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng.
- Tiền gửi tiết kiệm.
Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của cá nhân người lao động chưa
sử dụng vào tiêu dùng. Họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích luỹ tiền một cách
an toàn và hưởng lãi từ số tiền đó. Tiền gửi tiết kiệm là một dạng đặc biệt để tích
luỹ tiền tệ trong tiêu dùng cá nhâ. Trên thực tế, trong nền kinh tế thị trường tiền gửi
tiết kiệm được phát triển dưới hai loại hình tiết kiệm sau:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ lúc
nào nhưng không được sử dụng vào các công cụ thanh toán để chi trả cho người
khác.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là khoản tiền gửi có sự thoả thuận về thời hạn
gửi và có rút tiền, có mức lãi suất cao hơn với tiền gửi không kỳ hạn.
- Các nguồn huy động khác:
Bên cạnh phương thức nhận tiền gửi, các Ngân hàng Thương mại còn phát
hành chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu. Thực chát các nghiệp vụ này là Ngân hàng

huy động vốn tiền tệ bằng việc phát hành chứng từ có giá. Trong đó, chứng chỉ tiền
gửi là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá quy định, trái phiếu là loại phiếu nợ trung
và dài hạn. Hai loại phiếu này được Ngân hàng phát hành từng đợt, tuỳ theo mục
đích với sự chấp nhận của Ngân hàng trung ương hoặc hội đồng chứng khoán quốc
gia.
Tổng huy động vốn dưới hình thức phát hành chứng chỉ tiền gửi trái phiếu
Ngân hàng, các Ngân hàng Thương mại phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất
huy động.Nhgiệp vụ này cjỉ được tiến hành khi Ngân hàng thiếu vốn mà vốn tự có
và vốn huy động không đủ trang trải. Như vậy, khi huy động vốn dưới hình thức
này, cac Ngân hàng phải căn cứ vào đầu ra để quyết định về khối lượng huy động,
mức lãi suất và thời hạn, phương pháp huy động, khi đã huy động đủ khối lượng
theo dự kiến các ngân hàng sẽ dừng việc huy động (bán) kỳ phiếu, trái phiếu.
Tóm lại vốn huy động là công cụ chính đối với hoạt động kinh doanh của
các NHTM. Nó là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của
Ngân hàng, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng,
NHTM tuân thủ theo quy luật về mức vốn huy động tối đa không được vượt quá
20 lần vốn tự có, đồng thời mở tài khoản tiền gửu tại NHNN để duy trì ở đó khối
lượng bắt buộc. Song nếu một Ngân hàng kinh doanh tiền tệ có hiệu qảu thì không
những nguồn lợi của Ngân hàng được tăng lên mà còn làm cho uy tín của nó trên
thị trường cũng tăng theo, chính vì thế nguồn vốn huy động vào Ngân hàng ngày
càng tăng theo, mở rộng quy mô hoạt động để phục vụ cho phát triển kinh tế.
2.3. Vốn đi vay.
Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng Thương mại với NHNH,
hoặc giữa các NHTM với nhau hay các tổ chức tín dụng khác. Các NHTM sẽ đi
vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình khi Ngân hàng đã sử dụng hết vốn
khả dụng mà vẫn không đủ hoạt động vốn, hay nói cách khác Ngân hàng tạm thời
thiếu vốn khả dụng. Trong trườn hợp vốn vay trên mà không đáp ứng được nhu cầu
sử dụng vốn của NHTM thì NHTM sẽ đi vay của NHNN.
Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay NHTM được
chia thành hai loại: Vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và vay để tái cấp

vốn.
+ Vốn vay ngắn hạn bổ sung là hình thứcmmà NHTM xin vay vốn nganứ
hạn bổ sung của mình. Trong hình thức này, các Ngân hàng chỉ được vay khi còn
hạn mức dụng hoặc trong hạn mức tín dụng mà Ngân hàng đã thoả thuận.
+ Vố vay để thanh toán: Các Ngân hàng Thương mại vay Ngân hàng nhà
nước nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán (thời hạn vay thường ngắn).
+ Tái cấp vốn. Ngân hàng nhà nước cho Ngân hàng Thương mại vay trên cơ
sở chứng từ có giá. Các chứng từ phải đảm bảo tính hợp lệ, hợp pháp đảm bảo an
toàn. Tái cấp vốn gồm hai hình thức:
i. Cho vay chiết khấu: Ngân hàng nhà nước nhận các chứng từ có giá mà
NHTM đã chiết khấu trước đây để thực hiện các nghiệp vụ giống như các NHTM
đã làm. Tuy nhiên, việc cho vay tái chiết khấu đôiư với Ngân hàng Thương mại đã
được giứoi hạn trong mức cho phép (hạn mức tía chiéet khấu) để thực hiện chính
sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước.
ii. Cho vay bản đảm: là hình thức các NHTM đem các chứng từ có giá đến
Ngân hàng nhà nước để làm vật tư bảo đảm xin vay vốn. Căn cứ trên tổng mệnh
giá các chứng từ có giá làm vật tư bảo đảm, Ngân hàng nhà nước sẽ cho vay theo
tỷ lệ nhất định tuỳ theo chính sách quản lý giá của Ngân hàng nhà nức trong từng
thời kỳ.
Vốn vay Ngân hàng nhà nức là quan hệ trực tiếp giữa các NHTM nằm trong
sự điều tiết của chính sách tiền tệ. Khi Ngân hàng nhà nước sử dụng công cụ thị
trường mở mua bán các trái phiếu, kỳ phiếu ngắn hạn, hệ thống ngân hàng Thương
mại phải chịu sự kiểm soát gắt gao của Ngân hàng nhà nước.
2.4. Vốn khác.
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo được một khoản
vốn trong thanh toán: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi séc
bảo chi, sséc định mức và các khoản tiền phong toả do Ngân hàng chấp nhận hối

×