Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

phân tích hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại ở việt nam giai đoạn 2008 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.35 MB, 87 trang )




NGHIÊN CỨU

“PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN (2008-2011)”











NHÓM NGHIÊN CỨU:
SINH VIÊN ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
(HƯỚNG DẪN: T.S HỒ ĐÌNH BẢO)


 Nguyễn Thị Diệu Thuần
 Vương Đắc Dũng
 Lê Thị Hằng
 Nguyễn Đức Cương


 Hoàng Thị Hải Yến





MỤC LỤC

TÓM TẮT 1
CHƯƠNG 1: . GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 2
1.1. Tính cấp thiết của đề tài: 2
1.2. Mục đích nghiên cứu: 7
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………………………………… 7

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 10
2.1. Các nghiên cứu có liên quan: 10
2.1.2. Nghiên cứu ngoài nước 13
2.1.3. Nghiên cứu tại Việt Nam………………………………………………………………16

2.2. Lý thuyết mô hình……………………………………………………………………… 16

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG NGÀNH NGÂN HÀNGVIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2008-2011 21
3.1- Năng lực tài chính: 21
3.1.1. Tổng tài sản và vốn chủ sở hữu: 21
3.1.2. Chỉ số thanh khoản: 23
3.1.3. Lợi nhuận và khả năng sinh lời: 266
3.1.4. Nợ xấu………………………………………………………………………………….28
3.2- Nhóm nhân tố phi tài chính: 300
CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ KỸ THUẬT CỦA CÁC NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI GIAI ĐOẠN 2008-2011 333
4.1. Hiệu quả kỹ thuật và bảng xếp hạng các ngận hàng 333
4.2. Phân tích xu hướng thay đổi hiệu quả kĩ thuật qua các năm từ 2008-2011 sử dụng
chỉ số malmquist trong DEA. 478
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 567
5.1 Kết luận 59
5.2 Kiến nghị………………………………………………………………………………….
Phụ lục 633
Tài liệu tham khảo 755



DANH MỤC BẢNG

Bảng 1: Chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh khoản của một số ngân hàng tiêu biểu giai
đoạn 2008-2011 24
Bảng 2: Chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh khoản của một số ngân hàng tiêu biểu giai
đoạn 2008-2011 25
Bảng 3: Tổng hợp số liệu một số chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động của các ngân
hàng giai đoạn 2008-2011 29
Bảng 4: Kết quả ước lượng hiệu quả kĩ thuật (TE) hiệu quả kĩ thuật thuần (PE) và hiệu
quả quy mô (SE) của các ngân hàng thương mại giai đoạn 2008-2011 34
Bảng 5: Bảng xếp hạng hiệu quả kĩ thuật của các NHTM ở Việt Nam giai đoạn 2008-
2011 37
Bảng 6 :Kết quả ước lượng chỉ số Malmquist bằng DEA 48
Bảng 7 : Kết quả ước lượng mô hình Tobit năm 2011 51






DANH MỤC HÌNH

Hình 1: Đường bao dữ liệu (DEA) 16
Hình 2: Đường biên sản xuất Error! Bookmark not defined.
Hình 3: Tổng tài sản, vốn chủ sở hữu và tốc độ tăng tổng tài sản, vốn chủ sở hữu của
một số ngân hàng thương mại năm 2011 22
Hình 4: Các chỉ số khả năng sinh lời của một số ngân hàng năm 2011. 27
Hình 5: Tỷ lệ nợ xấu của một số ngân hàng năm 2011. 29
Hình 6: Số chi nhánh và số năm hoạt động của một số ngân hàng 31
Hình 7 : Đồ thị mô tả xác xuất phân phối mật độ các Te của các ngân hàng thương mại
năm 2008. Error! Bookmark not defined.



PHỤ LỤC

Phụ lục 1. Xếp hạng các ngân hàng thương mại các năm giai đoạn 2008-2011.
Phụ lục 2. Kết quả ước lượng các chỉ số Malmquist bằng DEA
Phụ lục 3. Hiệu quả kĩ thuật (TE) thời kì 2008-2011 ước lượng theo mô hình phi
tham số (DEA) dưới điều kiện CRS.
Phụ lục 4. Hiệu quả toàn bộ (CRSTE) , hiệu quả kĩ thuật (VRSTE) và hiệu quả
quy mô thời kì 2008-2011.






















DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Danh mục tên viết tắt:

Viết tắt Viết đầy đủ tiếng Việt Viết đầy đủ tiếng Anh
effch Thay đổi hiệu quả kỹ thuật

Technical efficiency change
techch Thay đổi tiến bộ công nghệ Technological change
sech Thay đổi hiệu quả quy mô

Scale efficiency change
pech Thay đổi hiệu quả thuần
Pure technical efficiency
chage
tfpch
Thay đổi năng suất nhân tố tổng

hợp
Total factor productivity
TE Hi
ệu quả kỹ thuật
Technical efficiency
PE Hi
ệu quả thuần
Pure technical efficiency
SE Hiệu quả quy mô

Scale efficiency
irs Tăng theo quy mô

Increasing returns to scale
drs Giảm theo quy mô

Decreasing returns to scale
cons Không đổi theo quy mô

Constant returns to scale
ROA Thu nhập ròng /tổng tài sản

Return On Assets ratio
ROE Thu nhập ròng /vốn chủ sở hữu Return On Equity ratio
DEA Phân tích bao dữ liệu Data envelopment Analysis
SFA Phân tích biên ngẫu nhiên Stochastic frontier Appoach
GDP Tổng sản phẩm quốc nội Gross Domestic Product
NH Ngân hàng

NHNNg Ngân hàng nước ngoài


NHTM Ngân hàng thương mại


Danh mục các Ngân hàng Thương mại cổ phần:

Mã ngân
hàng
Tên đầy đủ tiếng Việt Tên đầy đủ tiếng Anh
ACB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á
Châu Asia Commercial Joint Stock Bank
ABB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần An
Bình
An binh Commercial Joint Stock
Bank
Viet
Capital
Bank
Ngân hàng Thương Mại Cổ phần Bản
Việt
Viet Capital Commercial Joint Stock
Bank

BIDV
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam
Joint Stock Commercial Bank For
Investment And Development Of

Vietnam
DAB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại
Á
Great Asia Commercial Joint Stock
Bank
EAB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Đông Á
DONG A Commercial Joint Stock
Bank
EIB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất
nhập khẩu Việt Nam
Viet nam Commercial Joint Stock
Export Import Bank
HBB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà
Hà Nội
Hanoi Building Commercial Joint
Stock Bank
MSB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Hàng Hải
The Maritime Commercial Joint
Stock Bank
KLB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kiên
Long
Kien Long Commercial Joint Stock

Bank
TCB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ
thương Việt Nam
Viet Nam Technologicar and
Commercial Joint Stock Bank
LPB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bưu
điện Liên Việt
LienViet Commercial Joint Stock
Bank
MDB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phát
triển Mê Kông
Mekong Development Joint Stoct
Commercial Bank
MHBB
Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng
Sông Cửu Long Housing Bank of Mekong Delta
NAB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam
Á Nam A Commercial Joint Stock Bank
NVB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam
Việt
Nam Viet Commercial Joint Stock
Bank
DCB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại
Dương

OCEANCommercial Joint Stock
Bank
HDB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phát
Triển TP. Hồ Chí Minh
Housing development Commercial
Joint Stock Bank
OCB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Phương Đông Orient Commercial Joint Stock Bank
PNB Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Southern Commercial Joint Stock

Phương Nam Bank
WEB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Phương Tây
Wetern Rural Commercial Joint Stock
Bank
MBB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Quân đội
Military Commercial Joint Stock
Bank
VIB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Quốc tế Việt Nam
Vietnam International Commercial
Joint Stock Bank
SCB

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài
Gòn
Sai Gon Joint Stock Commercial
Bank
SGB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài
Gòn Công thương Saigon bank for Industry & Trade
SHB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài
Gòn – Hà Nội
Saigon-HanoiCommercial Joint Stock
Bank
STB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài
Gòn Thương Tín
Saigon Thuong Tin Commercial Joint
Stock Bank
SEABA
NK
Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Đông Nam Á
Sotheast Asia Commercial Joint Stock
Bank
TienPho
ngBank
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Tiên
Phong
TienPhong Commercial Joint Stock
Bank
TrustBa

nk
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại
Tín
Great Trust Joint Stock Commercial
Bank
VCB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Ngoại thương Việt Nam
Bank for Foreign Trade of Viet Nam
CTG
Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Công thương Việt Nam
Industrial and Commercial Bank of
Vietnam
VAB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt
Á Viet A Commercial Joint Stock Bank
VPB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt
Nam Thịnh Vượng
Vietnam Commercial Joint Stock
Bank of Private Enterprise
PGB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Xăng dầu Petrolimex
Petrolimex Group Commercial Joint
Stock Bank









1

TÓM TẮT

Nghiên cứu được thực hiện nhằm đo lường hiệu quả kĩ thuật, năng suất
nhân tố tổng hợp và ảnh hưởng của một số nhân tố tới hiệu quả kĩ thuật trong
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn
2008-2011. Nghiên cứu sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA), chỉ số năng
suất nhân tố tổng hợp và mô hình Tobit cho bộ số liệu phản ánh tình hình
hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Kết quả thực nghiệm
cho thấy: (1) Hiệu quả kĩ thuật của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong
giai đoạn này khá thấp, biến động qua từng năm và tồn tại khoảng cách lớn về
hiệu quả kĩ thuật của các ngân hàng qua từng năm và giữa các ngân hàng với
nhau; (2) Sự thay đổi của hiệu quả kĩ thuật chủ yếu là do thay đổi hiệu quả
qui mô; (3) Năng suất nhân tố tổng hợp thay đổi chủ yếu do thay đổi hiệu quả
kĩ thuật, đây cũng chính là nguyên nhân tạo nên sự khác biệt lớn giữa các
ngân hàng với nhau; (4) Dư nợ, tổng vốn huy động/lao động, kinh nghiệm
hoạt động, mạng lưới chi nhánh là các nhân tố có ảnh hưởng tới hiệu quả kĩ
thuật của các ngân hàng thương mại trong những năm qua.


2

CHƯƠNG 1.
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU


1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một trung gian tài chính có vai trò
quan trọng trong việc liên kết các thành phần kinh tế với nhau, là điều kiện
không thể thiếu trong việc tổ chức hoạt động của mọi bộ phận, lĩnh vực của
nền kinh tế. Nếu nói tài chính là huyết mạch trong mậu dịch, thương mại và
công nghiệp thì lĩnh vực ngân hàng đóng vai trò xương sống của kinh doanh
hiện đại. Sự phát triển của bất cứ quốc gia nào cũng chủ yếu phụ thuộc vào hệ
thống ngân hàng.
Trong những năm vừa qua, hoạt động ngân hàng nước ta đã có những
chuyển biến sâu sắc. Hệ thống Ngân hàng tăng trưởng nhanh cả về số lượng
và qui mô tài sản trong giai đoạn 2005-2010. Các loại hình kinh doanh đa
dạng và phong phú hơn. Số lượng các ngân hàng, đặc biệt là số NHTM cổ
phần ngày càng nhiều. Tính đến cuối năm 2010, thị trường Việt Nam có 101
ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, bao gồm NHTM trong nước,
ngân hàng nước ngoài (NHNNg) và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Bên
cạnh những hoạt động tín dụng truyền thống thì các ngân hàng không ngừng
cho ra đời những sản phẩm, dịch vụ mới, đáp ứng mọi nhu cầu của khách
hàng, đồng thời cũng chính là nâng cao năng lực cạnh tranh và đa dạng hóa
rủi ro cho ngân hàng khi mà cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực Ngân hàng- Tài
chính đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ và khốc liệt. Cùng với đó là sự cải
tiến không ngừng về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, đưa công nghệ tiên tiến vào
trong hoạt động hàng ngày của ngân hàng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động của từng ngân hàng nói riêng và của cả hệ thống ngân hàng thương mại
nói chung. Tuy nhiên có một thực tế đặt ra là hệ thống ngân hàng nước ta bộc


3

lộ khá nhiều yếu kém, sự hoạt động kém hiệu quả tỏ ra bất lực trước các biến

động của kinh tế thế giới. Đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đến nay đã làm cho toàn ngành ngân
hàng đứng trước muôn vàn khó khăn và luôn trong tình trạng “gồng mình”
chống đỡ. Trong giai đoạn 2008-2011, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng bình
quân 26,56% và là mức thấp chưa từng có trong lịch sử phát triển ngành ngân
hàng nhưng tốc độ tăng trưởng nợ xấu bình quân 51%, đây quả thực là những
con số đáng lo ngại. Sức hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn rất yếu. Tốc độ tăng
trưởng tín dụng hằng năm không đạt mục tiêu đề ra. Tỷ lệ nợ xấu tăng cao,
qui mô vốn nhỏ, tăng trưởng tín dụng luôn cao hơn tăng huy động và GDP,
cơ cấu thu nhập chủ yếu vẫn phụ thuộc vào hoạt động tín dụng là các đặc
điểm hiện nay của ngành. Đứng trước những khó khăn đó, các chính sách từ
chính ngân hàng hay từ phía ngân hàng nhà nước đều tỏ ra không mấy hiệu
quả, sự chậm trễ trong triển khai, áp dụng làm cho khủng hoảng càng trở nên
trầm trọng. Điều này chứng tỏ cần có một cái nhìn sâu rộng, toàn diện hơn
nữa năng lực hoạt động của các ngân hàng từ phía các nhà quản lí và bộ máy
điều hành hoạt động của ngân hàng. Để tìm ra nguyên nhân của sự yếu kém
trong hoạt động của NHTM chúng ta cần đi sâu tìm hiểu, phân tích hoạt động
của nó, đặc biệt là hiệu quả kĩ thuật, nhân tố tạo ra sự khác biệt trong hiệu quả
hoạt động giữa các ngân hàng khác nhau. Yếu tố nào có vai trò quyết định
đến sự tồn tại cũng như phát triển của ngân hàng trong bối cảnh mới, làm thế
nào để nâng cao hiệu quả kĩ thuật trong hoạt động của ngân hàng là vấn đề
cấp thiết cần được giải quyết. Với tốc độ toàn cầu hóa và tự do hóa thương
mại nhanh như hiện nay, các ngân hàng không chỉ phải cạnh tranh với các
ngân hàng nội địa mà còn phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt và ngày càng tinh
vi của các ngân hàng nước ngoài vốn luôn coi Việt Nam là một thị trường đày


4

tiềm năng. Hơn bao giờ hết, vấn đề hiệu quả hoạt động cần được quan tâm

nhiều hơn nữa nếu các ngân hàng muốn khẳng định mình trên thị trường.
Nhận thấy tác động quan trọng của ngân hàng với nền kinh tế, vì thế đã
có không ít các nghiên cứu cả trên thế giới và trong nước nghiên cứu về các
vấn đề xung quanh hoạt động của ngân hàng. Trong thời gian qua đã có một
số tác giả trong nước quan tâm nghiên cứu về vấn đề này, như nghiên cứu của
Võ Thành Danh (2008) hay nghiên cứu của Lê Dân (2004) hoặc nghiên cứu
của TS Phạm Thanh Bình (2005). Tuy nhiên chúng ta có thể thấy một điểm
hạn chế chung của các nghiên cứu là qui mô, phạm vi nghiên cứu còn hạn
chế, chỉ phân tích dựa trên số ít các ngân hàng, chủ yếu là các ngân hàng quốc
doanh. Với bối cảnh thay đổi khá nhiều như hiện nay, cùng với không ít bất
cập trong quản lí của các ngân hàng có yếu tố nhà nước đã làm cho các
nghiên cứu trước đây không còn phù hợp. Tốc độ toàn cầu hóa diễn ra nhanh
chóng, rất khó để các ngân hàng có thể kiểm soát được hết tất cả các vấn đề,
nếu không chuẩn bị cho mình một nội lực mạnh mẽ để thích nghi trước
những biến cố bất lợi. Các nhân tố mới luôn làm cho các nhà quản lí phải trăn
trở. Sự thay đổi biến hóa, linh hoạt tác động khác nhau đến hoạt động của các
ngân hàng vì thế mà luôn cần sự nghiên cứu, phân tích thường xuyên thì mới
có thể phản ánh được hết các tác động mà nó mang lại. Từ đó đưa ra các giải
pháp phù hợp với chiến lược phát triển trong dài hạn. Trong tình hình đó, tất
nhiên các yếu tố, nhân tố truyền thống vẫn thường được sử dụng trong các
nghiên cứu trước đây đã lỗi thời không còn có ý nghĩa nghiên cứu cũng như
thực tiễn.
Phân tích tác động của các nhân tố nhằm đẩy mạnh khả năng cạnh tranh
và nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM là rất quan trọng. Trong đó,
phương pháp, kĩ thuật nghiên cứu là cách mà các nhà nghiên cứu có thể lột tả
được bản chất vấn đề mà mình muốn đề cập. Nhưng đáng tiếc là đa phần các


5


phương pháp được sử dụng trước đây còn nặng về lí thuyết, các kết luận kinh
tế đưa ra còn mang tính định tính, chưa chứng minh được vấn đề một cách rõ
ràng, thêm vào đó là phạm vi nghiên cứu bó hẹp, các nhân tố tác động chưa
phản ánh được hết mức độ ảnh hưởng. Vì thế, nó tạo ra không ít bất cập, hạn
chế cho các nghiên cứu này.
Về phương pháp định lượng, như nghiên cứu của Bùi Duy Phú (2002)
hay nghiên cứu của TS Phạm Lê Thông (2011) thông qua việc sử dụng hàm
sản xuất biên ngẫu nhiên. Nhìn chung, số lượng các nghiên cứu định lượng
còn rất khiêm tốn, nếu có cũng chỉ mới dừng lại ở mức độ sơ khai, đơn giản
chưa phản ánh được hết mức độ phức tạp của vấn đề. Hạn chế chủ yếu mà
các nghiên cứu này gặp phải đó là chưa định dạng đúng dạng hàm và nghiên
cứu mới chỉ dừng lại đánh giá cho một số ít các ngân hàng nhà nước.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến hiệu quả kỹ thuật và
hiệu quả phân phối hay hiệu quả kinh tế của các ngành sản xuất ở các nước
phát triển và đang phát triển. Nhiều tác giả đã sử dụng DEA để phân tích sâu
về mức độ hiệu quả cũng như nguyên nhân dẫn đến sự phi hiệu quả của các
doanh nghiệp như Pitt and Lee (1981); Changanti and Damanpour (1991);
Prada và cộng sự (1997), Deyoung và Nolle (1996).
Mới đây nhất, phương pháp định lượng được sử dụng để nghiên cứu
hiệu quả hoạt động ngành ngân hàng ở nước ta có thể kể đến nghiên cứu của
Nguyễn Việt Hùng. Tuy nhiên số liệu trong nghiên cứu chỉ mới cập nhật đến
năm 2008, đây cũng là hạn chế của nghiên cứu. Bởi gần đây, đặc biệt giai
đoạn sau năm 2008, nhiều bất cập của hệ thống ngân hàng mới được bộc lộ,
thanh khoản yếu kém cùng với tình hình nợ xấu cao có nguy cơ gây rủi ro đến
an toàn hệ thống. Diễn biến hoạt động của các ngân hàng theo hướng bất lợi,
xu hướng biến động thì không theo một quy luật nhất định nào và nhạy cảm


6


với nhiều yếu tố bên trong lẫn bên ngoài. Vì thế, bổ sung nghiên cứu mới về
chủ đề này là rất cần thiết với điều kiện hiện tại.
Một dấu hỏi lớn đặt ra là: “ Tại sao các ngân hàng lại dễ bị tổn
thương trước các diễn biến bất lợi của nền kinh tế ” và chưa bao giờ chúng
ta có thể thấy trên thị trường Tài chính- Ngân hàng một sự khủng hoảng
toàn diện về mọi mặt hoạt động được diễn ra dồn dập, ở quy mô sâu, rộng
gây tác động đến mọi tầng lớp dân cư và ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền
kinh tế như những năm qua. Như vậy, để tìm ra câu trả lời, chúng ta cần
làm rõ mấu chốt của vấn đề đó là chất lượng hoạt động của ngành ngân
hàng đã thực sự đạt được yêu cầu đặt ra, hiệu quả hoạt động kinh doanh
của ngân hàng có như chúng ta nhìn thấy và những yếu tố nào có ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng là rất cần thiết và nó có ý
nghĩa đặc biệt đối với các nhà hoạch định chính sách nhằm nâng cao hiệu
quả kinh tế của không chỉ riêng hệ thống ngân hàng mà của cả nền kinh tế.
Xuất phát từ những phân tích trên, buộc các nhà quản lí luôn phải đối mặt
với tình huống đầy khó khăn và thách thức đó là tìm hiểu, định lượng và
phân tích những nhân tố có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các
ngân hàng. Tuy nhiên không phải ngân hàng nào cũng làm được điều này
với điều kiện nguồn lực hạn hẹp của mình. Nhận thấy sự quan trọng và cấp
thiết của vấn đề, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu “Phân tích hiệu quả
hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam trong giai
đoạn 2008-2011” nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn đó cho các nhà quản trị
doanh nghiệp, đồng thời bổ sung thêm vào các chính sách kinh tế về quản lí
hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Vấn đề này đòi hỏi cần có sự
nghiên cứu, đo lường hiệu quả kĩ thuật của các ngân hàng, tìm hiểu những
nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng trong bối cảnh


7


mới, từ đó đánh giá và đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu
quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.


1.2. Câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu
Căn cứ vào tình hình đó nghiên cứu này hướng đến một số mục tiêu sau
đây:
- Đo lường hiệu quả kĩ thuật của từng ngân hàng và của tất cả các ngân
hàng qua các năm từ 2008-2011.
- Phân tích các thành tố và mức độ tác động của nó đến hiệu quả kĩ thuật
của các ngân hàng.
- Làm rõ tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của
ngân hàng và xây dựng mô hình phân tích các tác động của nó đến hoạt động
của ngân hàng thương mại.
Từ đó, bài nghiên cứu sẽ tập trung trả lời những câu hỏi nghiên cứu sau:
- Thực trạng hiệu quả hoạt động của các ngân hàng Việt Nam và xu
hướng thay đổi của nó qua thời gian?
- Nguyên nhân dẫn tới sự phi hiệu quả trong hoạt động?
- Nhân tố nào có ảnh hưởng đến khả năng hoạt động cũng như định lượng
mức độ tác động của các nhân tố tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng
Hàm ý chính sách là gì cho các nhà quản lý và hoạch định chính sách để
tận dụng những lợi thế sẵn có và kịp thời khắc phục các yếu kém hiện tại
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng và các quyết định quản
lý đưa ra nhằm giúp thị trường Tài chính- Ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn?



8



1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Ở Việt nam hiện có hơn 100 ngân hàng và các
tổ chức tín dụng hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Nền kinh tế nước
ta chịu sự chi phối rất lớn từ hệ thống này. Trong những năm vừa qua, hoạt
động trong hệ thống ngân hàng bộc lộ nhiều yếu kém đe dọa đến sự an toàn
của hệ thống, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế, cần phải tập trung
nghiên cứu, phân tích làm rõ hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương
mại cổ phần ở Việt Nam, đây cũng là đối tượng của bài nghiên cứu. Hiệu quả
hoạt động thể hiện ở việc ngân hàng sử dụng các kết hợp đầu vào để tạo đầu
ra hiệu quả, tìm ra các nhân tố và phân tích định lượng ảnh hưởng của nó đến
hiệu quả hoạt động này của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: không chỉ tập trung nghiên cứu vào nhóm ngân
hàng thương mại nhà nước hay nhóm riêng các ngân hàng lớn mà nghiên cứu
này cho thấy một bức tranh toàn cảnh nền tài chính với 35 ngân hàng thương
mại cổ phần đang hoạt động ở nước ta. Sự mở rộng phạm vi nghiên cứu so
với các nghiên cứu trước đây là hết sức cần thiết, bởi sự gia tăng nhanh chóng
về số lượng của các ngân hàng trong những năm gần đây cho thấy nhiều nhân
tố mới đã và đang có khả năng chi phối mạnh mẽ hoạt động của hệ thống,
đồng thời trong bối cảnh mới, các ngân hàng thương mại nhà nước không còn
mang nhiều ý nghĩa đại diện. Vì thế cần phải mở rộng phạm vi nghiên cứu để
thấy hết được bản chất hoạt động của hệ thống ngân hàng hiện nay.
Từ năm 2008-2011, nhìn chung hoạt động của các ngân hàng thương
mại trong một môi trường vĩ mô không mấy thuận lợi, lạm phát gia tăng (
năm 2008 là 19,89%, năm 2011 là 18,58%), cán cân thương mại thâm hụt
lớn, thị trường tài chính trong nước và quốc tế diễn biến phức tạp, lãi suất, tỉ
giá, giá vàng biến động mạnh Nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của cuộc


9


khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, sau đó là vấn đề lạm phát
cao và hiện nay là suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước. Do đó môi
trường kinh doanh và hoạt động ngân hàng gặp nhiều khó khăn làm cho chất
lượng tín dụng suy giảm và nợ xấu tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng tín
dụng. Trong giai đoạn 2008-2011, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng bình
quân 26,56% nhưng tốc độ tăng trưởng nợ xấu bình quân 51%, do tình hình
kinh doanh và tài chính của các doanh nghiệp suy giảm mạnh. Có thể nói đây
không còn là thời kì hoạt động của các ngân hàng được “thuận buồm xuôi
gió”, mà giai đoạn 2008-2011 thực sự là giai đoạn đầy khó khăn và thách
thức, đòi hỏi các ngân hàng phải có một nội lực mạnh mẽ, phản ứng nhanh
nhạy trước diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, đồng thời không ngừng
nâng cao năng lực kinh doanh, năng lực cạnh tranh để có thể tồn tại và phát
triển trong sự sàng lọc ngày càng khắt khe của thị trường tài chính trong thời
kì nền kinh tế mở cửa, hội nhập. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng nước ta đã
không có sự thể hiện đáng mong đợi trong thời kì đầy biến động vừa qua.
Thẳng thắn nhìn vào vấn đề, tốc độ tăng trưởng hệ thống ngân hàng là tương
đối nhanh. Tuy nhiên, sự tăng trưởng về số lượng không gắn liền với một cấu
trúc hợp lí và chất lượng tăng trưởng. Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng tăng
trưởng nhanh, quy mô tín dụng so với GDP tăng nhanh làm cho hệ thống
ngân hàng dễ bị tổn thương từ những sự thay đổi bất lợi của nền kinh tế.
Nhiều vấn đề về hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại được đặt
ra, yêu cầu phải có cái nhìn toàn diện hơn nữa về tổ chức này. Hơn nữa,
nguồn số liệu của thời kỳ nghiên cứu này bảo đảm tính đồng bộ hơn, đầy đủ
hơn, có độ tin cậy cao hơn, cập nhật và phản ánh tốt việc đánh giá hiệu quả
hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.




10

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

DEA là phương pháp được sử dụng khá phổ biến trong các nghiên cứu
trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, nhằm đo lường hiệu
quả kỹ thuật cũng như đánh giá xu hướng biến động năng suất của các hoạt
động. Vì vậy, trong nghiên cứu này chúng tôi sẽ tập trung sử dụng phương
pháp bao dữ liệu (DEA) làm công cụ tính toán chủ yếu. Phương pháp bao dữ
liệu (DEA) sẽ được áp dụng cho mẫu gồm 34 ngân hàng thương mại trong
bốn quan sát từ năm 2008 đến năm 2011. Nghiên cứu này sử dụng mô hình
DEA để xây dựng một một đường bao biên tiêu chuẩn cho các ngân hàng có
hoạt động tốt nhất. Kết quả của việc áp dụng mô hình này sẽ chỉ ra các điểm
hiệu quả kỹ thuật (TE) cùng với các bộ phận cấu thành là hiệu quả thuần (PE)
và hiệu quả về qui mô (SE) trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.
2.1. Các nghiên cứu có liên quan
2.1.1 Nghiên cứu ngoài nước:
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu áp dụng thành công phương pháp
bao dữ liệu (DEA) để ứng dụng vào phân tích hoạt động của các ngành sản
xuất ở các nước phát triển và đang phát triển. Các tác giả sử dụng mô hình
DEA để phân tích sâu về mức độ hiệu quả cũng như nguyên nhân dẫn đến sự
phi hiệu quả của các doanh nghiệp như Pitt and Lee(1981); Changanti and
Damanpour (1991); Prada và cộng sự (1997); Deyoung và Nolle (1996). Hầu
hết, những sản phẩm khoa học của họ đều khai thác triệt để công cụ DEA, trả
lời thấu đáo 3 câu hỏi lớn: Tại sao dùng DEA- Dùng như thế nào- Kết quả có
ý nghĩa ra sao?
Nhìn chung, những nghiên cứu của D.Yudistira (2004) Drake, Hall và
cộng sự (2003), Esho. N(2001) v.v. đều có những phương pháp mang tính


11
nhất quán trong việc sử dụng mô hình bao dữ liệu. Họ thiết lập lại cơ sở lý

thuyết DEA, chọn lọc những biến có ảnh hưởng lớn, điều tra số liệu và chạy
mô hình. Đặc điểm chung trong những nghiên cứu này là cách hệ thống hóa
qui trình xử lý số liệu. DEA là phương pháp mang tính chất định lượng vì vậy
việc đảm bảo độ chính xác của số liệu là rất cần thiết. Nhiều công trình khoa
học tiếp cận nguồn số liệu đáng tin cậy như Ngân hàng quốc tế London,
World Bank, Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) .v.v… Kết quả của các nghiên
cứu cũng chỉ ra mức độ tương quan giữa hiệu quả qui mô và hiệu quả thuần
túy trong kĩ thuật. Dựa vào đường bao dữ liệu, mô hình DEA đánh giá tính
phi hiệu quả của một doanh nghiệp dựa trên việc so sánh với các doanh
nghiệp tốt nhất trong mẫu nghiên cứu. Trong lĩnh vực Ngân hàng- Tài chính,
phương pháp DEA đã được sử dụng rộng rãi, đặc biệt có khá nhiều các phân
tích áp dụng cho khu vực Bắc Mỹ chẳng hạn như Miller và Noulas (1996),
Berger và Mester (2001). Kết quả nghiên cứu thu được từ khu vực này có
nhiều nét tương đồng dù các nghiên cứu có cách tiếp cận thời gian và số liệu
khác nhau. Điều này có thể lí giải bởi cơ chế hoạt động của các ngân hàng
Bắc Mỹ có sự tương đồng; lợi nhuận ngân hàng không có nhiều biến động và
ít cơ hội gia tăng lợi nhuận từ việc cạnh tranh với các đối thủ khác. Tương tự
như vậy, DEA cũng được sử dụng để rà soát hiệu quả trong lĩnh lực ngân
hàng của cá quốc gia thuộc của Cộng đồng kinh tế châu Âu. Nhiều người cho
rằng, việc đánh giá các ngân hàng ở châu Âu sẽ thu được mức chênh lệch
hiệu quả rất lớn, lí do ở khác biệt cấu trúc và qui mô ngân hàng. Phân tích của
Casu và Molyneux (2000) cho thấy rằng: qua các năm, có một cải thiện nhỏ
trong hiệu quả ngân hàng nhưng sự khác biệt xuất phát từ tiềm lực kinh tế của
quốc gia khác nhau vẫn dẫn đến chênh lệch hiệu quả rất lớn .Vì thế, phương
pháp bao dữ liệu (DEA) là phương pháp mà nhóm nghiên cứu lựa chọn để


12
phân tích cấu trúc và mức độ chênh lệch trình độ, năng lực hoạt động của các
ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong giai đoạn 2008-2011.

Một vài nghiên cứu khác về phương pháp DEA như Lewelyn và William
(1996), nhận xét phương pháp DEA có thể sẽ ước lượng được mức phi hiệu
quả thực tế của các doanh nghiệp lớn hơn con số mà chúng ta nhìn thấy.
Phương pháp ước lượng phi tham số có ưu điểm là không cần phải biết trước
dạng hàm sản xuất, các thành phần bóc tách từ phần dư của ước lượng không
nhất thiết phải tuân theo một phân phối thống kê nào (Seiford và Thrall,
1990). Thêm vào đó, DEA có khả năng áp dụng trong trường hợp doanh
nghiệp có nhiều đầu ra và nhiều đầu vào. Và nó cũng có khả năng tách hiệu
quả kỹ thuật thành hiệu quả thuần, hiệu quả qui mô và hiệu quả phân bổ. Để
khắc phục tính bất định của ước lượng phần dư, gần đây các nghiên cứu về
DEA đã hướng sự quan tâm tới ước lượng DEA động và ngẫu nhiên
(Sengupta. 1990 và 2002).
Tuy có tính nhất quán, nhưng cũng có nhiều nghiên cứu đi sâu vào việc
chứng thực, đánh giá kết quả của DEA thông qua việc so sánh với phương
pháp tiếp cận tham số (SFA) như Cummins.J.D và cộng sự (1996). Kết quả
của họ đã đưa ra một nhận xét về việc lựa chọn phương pháp có thể ảnh
hưởng tới kết quả nghiên cứu. Vì ước lượng bằng phương pháp khác nhau sẽ
cho ra kết quả khác nhau. Cũng sử dụng cách tiếp cận này, Wadud (2003) đo
lường hiệu quả kĩ thuật và hiệu quả phân phối cho những người nông dân
trồng lúa ở Bangladesh. Kết quả từ cách tiếp cận cho thấy có cả phi hiệu quả
về kĩ thuật và cả phi hiệu quả về kinh tế. Họ cũng đưa phương pháp biên ngẫu
nhiên trong nghiên cứu để chứng thực rằng: trung bình của tất cả các độ đo
hiệu quả dựa trên phương pháp DEA (cả CRS lẫn VRS) đều cao hơn kết quả
từ tiếp cận biên ngẫu nhiên SFA.


13
Tiếp thu những đánh giá về hiệu quả của việc sử dụng phương pháp
DEA để đo mức độ hiệu quả, nghiên cứu của chúng tôi cũng sẽ tiếp cận nó
dưới góc độ loại bỏ những chỉ định tham số của công nghệ trong ngành ngân

hàng và giả thuyết phân phối đối với số liệu là ngẫu nhiên.
2.1.2 Nghiên cứu tại Việt Nam:
Mặc dù DEA đã khá phổ biến trong các bài báo, công trình nghiên cứu
khoa học quốc tế về kinh tế, nhưng ở việt nam hiện nay chỉ dừng lại ở góc độ
phân tích và đánh giá số liệu. Một vài công trình nghiên cứu đã mở đường
cho việc tiếp cận DEA và áp dụng tương đối thành công trong nghiên cứu
thực tiễn phải kể đến Nguyễn Việt Hùng (2006) về đề tài ngành ngân hàng,
Nguyễn Thị Việt Anh (2004), Nguyễn Thị Thủy (2008) và một số tác giả
khác. Kết quả của các nghiên cứu trong nước đã đạt được: Nguyễn Thị Thủy
(2008) đã sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) phân tích năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp ngành chế biến Thực phẩm Việt Nam. Trên cơ sở
hệ thống hoá và vận dụng những lí thuyết cơ bản về cạnh tranh, đưa ra thực
trạng ngành chế biến thực phẩm và thông qua việc phân tích đánh giá hiệu
quả kĩ thuật đề xuất một số khuyến nghị có tính đồng bộ nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của ngành chế biến thực phẩm Việt Nam trong hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay. Đặc biệt là luận văn tiến hành ước lượng hiệu quả kỹ
thuật và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới nó để xây dựng phương pháp
hoạt động có hiệu quả. Nguyễn Văn Ngọc và Nguyễn Thành Cường (2010\
áp dụng DEA để nghiên cứu hiệu quả trong ngành chế biến thủy sản với 39
doanh ngiệp trong năm 2009. Nghiên cứu đã đưa ra một cái nhìn tổng quan
về sự phi hiệu quả trong khâu quản lý việc chế biến thủy hải sản của 39 doanh
nghiệp. Mà nguyên nhân chính là sử dụng các nguồn lực, gồm vốn chủ sở
hữu và vay không hiệu quả. Tuy nhiên, việc bó hẹp ở một thời điểm phân tích
năm 2009, chỉ có yếu tố đầu vào là vốn chủ sở hữu và tổng tài sản dẫn tới


14
việc đánh giá mất đi tính khách quan, tính dự báo, mà chỉ mang ý nghĩa thống
kê và thông báo. Nghiên cứu này cũng cho thấy để kết quả DEA sát với thực
tiễn cần phải có quá trình cân nhắc lựa chọn biến khoa học, thu thập một

không gian mẫu đủ lớn và phải đảm bảo tính chính xác của số liệu.
Một số nghiên cứu khác đã sử dụng thành công phương pháp DEA như
Luận văn thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Việt Anh (2004) về tính hiệu quả
cho ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam hay trong
nghiên cứu của tiến sĩ Nguyễn Việt Hùng cũng về chủ đề này (2006). Nghiên
cứu của Nguyễn Khắc Minh (2004) đã sử dụng công cụ DEA khá mạnh mẽ
trong việc ước lượng hiệu quả kỹ thuật của 32 ngành sản xuất ở Hà nội và
thành phố Hồ Chí Minh (Tp.HCM) thông qua sử dụng số liệu hỗn hợp. Bài
viết sử dụng phương pháp tiếp cận tham số, thường là hàm sản xuất biên ngẫu
nhiên (SFPF), và phương pháp tiếp cận phi tham số, thường là phân tích bao
dữ liệu (DEA) với số liệu ở Hà nội và Tp.HCM trong giai đoạn 2000-2002.
Kết quả nghiên cứu đưa ra hiệu quả kỹ thuật của 2 thành phố lớn nhất nước
ta chêch lệch nhau không đáng kể. Việc nâng cao tính hiệu quả của các ngành
không kể tới qui mô lên tới 40%. Cách sử dụng phương pháp bao dữ liệu của
tác giả đã chủ động trong việc tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng, tạo ra một cái
nhìn đa chiều và kết quả phân tích trở nên thuyết phục hơn. Tuy nhiên,
nghiên cứu này có bộ số liệu chỉ trong ba năm, nên việc dự đoán điều gì xảy
ra với các ngành sản xuất của hai thành phố còn mang tính chủ quan, chưa
bao quát hết xu hướng biến động của ngành trong dài hạn.
Nhờ những đặc tính khoa học ưu việt, DEA cũng là phương pháp mà
nhóm nghiên cứu sử dụng để phân tích, đánh giá hoạt động của Ngân hàng
thương mại nước ta trong giai đoạn 2008-2011. Từ đó tìm ra nguyên nhân và
biện pháp nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động kinh tế của các NHTM.
Đồng thời gợi ý cho các ngân hàng còn có mức hiệu quả bên dưới đường bao


15
biên tham khảo phương thức hoạt động của các ngân hàng trên đường bao
biên để đạt hiệu quả kĩ thuật tối đa trong hoạt động của mình.
Tình hình hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại trong

những năm qua đang là chủ đề được quan tâm hàng đầu. Là một khu vực then
chốt đảm bảo cho nền kinh tế quốc dân hoạt động một cách nhịp nhàng, ngân
hàng luôn là khu vực được chính phủ cũng như doanh nghiệp đặc biệt quan
tâm. Đi sâu vào lĩnh vực ngân hàng đặc biệt là Ngân hàng thương mại ở Việt
Nam là cần thiết để xây dựng một mô hình nhằm nghiên cứu một cách tổng
quan về tình hình hoạt động cũng như tính hiệu quả trong công tác điều hành
và kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Cùng chủ đề này, trước đó
cũng đã có nhiều công trình khoa học đã đưa ra những cái nhìn đa chiều về hệ
thống ngân hàng ở Việt Nam. Nhìn chung, các nghiên cứu này cũng phân tích
đánh giá được thực trạng hiệu quả hoạt động của các ngân hàng nhưng chủ
yếu mới dừng lại ở phân tích định tính như: Bài viết của Võ Thành Danh “
Phân tích hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần
Việt Nam” năm 2008 sử dụng phương pháp phân tích hiệu quả truyền thống
dựa trên phân tích các tỷ số tài chính, hay nghiên cứu của Lê Dân (2004)
"Vận dụng phương pháp thống kê để phân tích hiệu quả hoạt động của ngân
hàng thương mại Việt Nam". Tuy đã có phần nào tiếp cận theo cách thức
phân tích định lượng nhưng vẫn chỉ dừng lại ở các chỉ tiêu mang tính chất
thống kê, mô tả truyền thống.
2.1.3 Vài nét về nghiên cứu này:
Nghiên cứu của chúng tôi cũng mang tính kế thừa những nghiên cứu
trước đó trong việc tập trung sử dụng DEA là công cụ chủ yếu để đánh giá
năng lực hoạt động của các ngân hàng. Ngoài ra, kết quả của mô hình DEA sẽ
được sử dụng để đánh giá ngược lại khi xem xét tác động của các biến nội
sinh tới tổng hiệu quả kỹ thuật. Áp dụng vào một không gian mẫu lớn gồm 34

×