Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Thực trạng và giải pháp thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.8 KB, 42 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 1
2.1.1. Giai đoạn thăm dò 1988 – 1993 8
CHƯƠNG 3. TRIỂN VỌNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA
NHẬT BẢN TẠI VIỆT NAM 32
NĂM LÀ, CHUYỂN DẦN THU HÚT FDI HƯỚNG VÀO ĐÀO TẠO, PHÁT
TRIỂN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC CÓ KỸ NĂNG, CÓ TAY NGHỀ
CAO. PHẤN ĐẤU TRÊN 75 % LAO ĐỘNG CÓ TAY NGHỀ CAO VÀ ĐÃ
QUA ĐÀO TẠO 38
KẾT LUẬN 39
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và hội nhập kinh tế quốc tế
diễn ra ngày càng sâu rộng, đã và đang mang lại những cơ hội tốt cùng với những
thách thức không nhỏ cho mỗi quốc gia trong thời gian qua, đòi hỏi mỗi quốc gia
cần phải chủ động và tích cực tham gia để khai thác hiệu quả các lợi thế của đất
nước, học hỏi kinh nghiệm, để hoàn thành các mục tiêu đề ra, đạt được vị trí thuận
lợi. Điều đó có nghĩa là mỗi quốc gia cần phải phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả
các quan hệ kinh tế quốc tế, bao gồm thương mại quốc tế, các dịch vụ quốc tế, hợp
tác quốc tế và đặc biệt nhất là đầu tư quốc tế.
Hiện nay, kinh tế Việt Nam đã và đang có những bước chuyển biến tích cực,
từng bước tham hội nhập và toàn diện vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt sau sự kiện
gia nhập WTO. Hiện tại, Việt Nam đã và đang có mối quan hệ kinh tế, thương mại,
đầu tư với nhiều nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong số các đối tác này, Nhật
Bản nổi lên là một quốc gia có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế
của Việt Nam.
Xét riêng về khía cạnh quan hệ đầu tư, từ khi Việt Nam mở của nền kinh tế,
Nhật Bản là một trong các quốc gia đầu tiên đầu tư vào Việt Nam và FDI của Nhật
Bản luôn được đánh giá cao về chất lượng và tính ổn định.
Nguồn vốn FDI từ Nhật Bản tuy ở một thứ hạng cao trong danh sách các


nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, nhu
cầu và kỳ vọng của các bên. Hiện nay, Nhật Bản dù vẫn là nhà đầu tư số 1 tại Việt
Nam, nhưng đang đổ hàng tỷ USD vào Myanmar, quốc gia đang thu hút sự chú ý
của cả thế giới. Toyota, Mitsubishi và nhiều tập đoàn lớn khác của Nhật Bản đã
tuyên bố mở rộng cơ sở sản xuất tại Thái Lan, Malaysia, nhưng các cơ sở của họ ở
Việt Nam vẫn án binh bất động.
Chính vì vậy, tăng cường thu hút FDI từ Nhật Bản luôn là một trong những
nội dung được chú trọng hàng đầu trong hoạt động FDI của Việt Nam và vấn đề đặt
ra là phải có những nghiên cứu sâu, chiến lược cùng biện pháp khắc phục các nhược
điểm, đẩy mạnh các biện pháp khuyến khích cùng các giải pháp có tính thực tiễn
cao nhằm tăng cường thu hút vốn nguồn vốn này.
1
Xuất phát từ những ý nghĩa to lớn đó, để tìm hiểu vấn đề này một cách sâu
sắc và cụ thể, em chọn đề tài “thực trạng và giải pháp thu hút FDI của Nhật Bản
vào Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” là đề tài đề án môn học.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo: Tô Xuân Cường đã nhiệt tình giúp đỡ
em khi em thực hiện đề án này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do sự hạn chế
kinh nghiệm bản thân và thời gian tìm hiểu tương đối ngắn nên việc thực hiện đề án
không trách khỏi những sai sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
cũng như việc chỉnh sửa, bổ sung của thầy để bài viết của em hoàn thiện hơn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng thu hút FDI Nhật Bản vào Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế từ đó đề xuất giải pháp nhằm tăng cường khả năng thu hút
dòng vốn này.
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về thu hút FDI của Nhật Bản vào
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Phân tích thực trạng, cơ hội, thách thức đối với việc thu hút FDI của Nhật
Bản vào Việt Nam, trên cơ sở đó đánh giá những ưu nhược điểm, tìm ra nguyên
nhân các tồn tại.
Đề xuất một sô giải pháp nhằm tăng cường khả năng thu hút FDI từ Nhật

Bản vào Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động FDI Nhật Bản vào Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là dòng vốn FDI Nhật Bản vào Việt Nam từ
năm 1988 đến năm 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài viết có sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu khoa học
như quy nạp, diễn dịch và định tính có kết hợp với nghiên cứu một số trường hợp
điển hình.
Nguồn thông tin và số liệu trong bài viết được thu thập các công trình
nghiên cứu các báo cáo, thống kê từ Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Công Thương,
Tổng cục Thống kê, UNTAD
5.Bố cục của bài viết
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
bài viết bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thu hút FDI của Nhật
2
Bản vào Việt Nam
Chương 2. Thực trạng hoạt động thu hút FDI của Nhật Bản tại Việt
Nam
Chương 3. Triển vọng về đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản tại
Việt Nam.
3
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, hoạt động đầu tư nước ngoài nóichung
và hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng đang diễn ra hết sức mạnh mẽ.
Nhưng đối với Việt Nam, đầu tư nước ngoài vẫn còn là một vấn đềhết sức mới mẻ .
Do vậy để có một cái nhìn tổng thể, khai thác được nhữngmặt tích cực và hạn chế

được những mặt tiêu cực của đầu tư nước ngoài nhằmthực hiện thành công quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH),đòi hỏi phải nghiên cứu vấn đề
này một cách thấu đáo.
1.1 Đầu tư và đặc điểm của đầu tư
Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một thời giantương đối
dài nhằm thu được lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế- xã hội.
Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một thời giantương đối
dài nhằm thu được lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế- xã hội.
Vốn đầu tư bao gồm:
- Tiền tệ các loại: nội tệ, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý
- Hiệnvật hữu hình: tư liệu sản xuất, tài nguyên, hàng hoá, nhà xưởng
- Hàng hoá vô hình: Sức lao động, công nghệ, thông tin, bằng phátminh,
quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, dịch vụ, uy tín hàng hoá
- Các phương tiện đặc biệt khác: cổ phiếu, hối phiếu, trái phiếu, cácchứng từ
có giá khác.
Đặc điểm của đầu tư:
- Tính sinh lợi: Đầu tư là hoạt động tài chính ( đó là việc sử dụng tiềnvốn
nhằm mục đích thu lại một khoản tiền có giá trị lớn hơn khoản tiền đã bỏra ban
đầu).
- Thời gian đầu tư thường tương đối dài.
Những hoạt động kinh tế ngắn hạn trong vòng một năm thường không gọi
làđầu tư.
4
- Đầu tư mang tính rủi ro cao: Hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốntrong hiện
tại nhằm thu được lợi ích trong tương lai. Mức độ rủi ro càng caokhi nhà đầu tư bỏ
vốn ra nước ngoài.
1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment- FDI).
1.2.1. Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với nước ta vẫn còn khá mới mẻ bởi
hình thức này mới xuất hiện ở Việt Nam sau thời kỳ đổi mới. Do vậy, việc đưa ra

một khái niệm tổng quát về FDI không phải là dễ. Xuất phát từ nhiều khía cạnh, góc
độ, quan điểm khác nhau trên thế giới đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về FDI.
- Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) (1977):
"Đầu tư trực tiếp ám chỉ số đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài
trong một hãng hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư,
mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong công việc quản
lý hãng đó".
- Theo luật Đầu tư nước ngoài của Liên Bang Nga (04/07/1991"Đầu tư trực
tiếp nước ngoài là tất cả các hình thức giá trị tài sản và những giá trị tinh thần mà
nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các đối tượng sản xuất kinh doanhvà các hoạt
động khác nhằm mục đích thu lợi nhuận".
Như vậy, mặc dù có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm về
FDI, song ta có thể đưa ra một khái niệm tổng quát nhất, đó là:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức mà nhà đầu tư bỏ vốn để tạo lập cơ
sở sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư. Trong đó nhà đầu tư nước ngoài
có thể thiết lập quyền sở hữu từng phần hay toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền quản
lý, điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn nhằm mục đích thu được lợi nhuận
từ các hoạt động đầu tư đó trên cơ sở tuân theo quy định của Luật Đầu tư nước
ngoài của nước sở tại.
1.2.2. Đặc điểm và môi trường của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
•Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm cơ bản sau:
5
- Hoạt động FDI không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận đầu tư mà còn có cả
công nghệ, kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, sản xuất, năng lực Marketing, trình độ
quản lý Hình thức đầu tư này mang tính hoàn chỉnh bởi khi vốn đưa vào đầu tư thì
hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành và sản phẩm được tiêu thụ trên thị
trường nước chủ nhà hoặc xuất khẩu. Do vậy, đầu tư kỹ thuật để nâng cao chất
lượng sản phẩm là một trong những nhân tố làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm
trên thị trường. Đây là đặc điểm để phân biệt với các hình thức đầu tư khác, đặc biệt

là với hình thức ODA (hình thức này chỉ cung cấp vốn đầu tư cho nước sở tại mà
không kèm theo kỹ thuật và công nghệ).
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một lượng vốn tối thiểu vào vốn
pháp định tuỳ theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài ở từng nước, để họ có
quyền trực tiếp tham gia điều hành, quản lý đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Chẳng
hạn, ở Việt Nam theo điều 8 của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định:
“Số vốn đóng góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của
dự án” (Trừ những trường hợp do chính phủ quy định).
- Quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
phụ thuộc vào vốn góp. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài càng cao thì quyền quản
lý, ra quyết định càng lớn. Đặc điểm này giúp ta phân định được các hình thức đầu
tư trực tiếp nước ngoài. Nếu nhà đầu tư nước ngoài góp 100% vốn thì doanh nghiệp
đó hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành. - Quyền lợi của các nhà ĐTNN
gắn chặt với dự án đầu tư: Kết quả hoạt động sản xuất kinh của doanh nghiệp quyết
định mức lợi nhuận của nhà đầu tư. Sau khi trừ đi thuế lợi tức và các khoản đóng
góp cho nước chủ nhà, nhà ĐTNN nhận được phần lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp
trong vốn pháp định.
- Chủ thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài thường là các công ty xuyên quốc
gia và đa quốc gia (chiếm 90% nguồn vốn FDI đang vận động trên thế giới). Thông
thường các chủ đầu tư này trực tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp (vì họ có
mức vốn góp cao) và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ.
6
- Nguồn vốn FDI được sử dụng theo mục đích của chủ thể ĐTNN trong khuôn
khổ luật Đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Nước tiếp nhận đầu tư chỉ có thể định
hướng một cách gián tiếp việc sử dụng vốn đó vào những mục đích mong muốn
thông qua các công cụ như: thuế, giá thuê đất, các quy định để khuyến khích hay
hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một lĩnh vực, một ngành nào đó.
- Mặc dù FDI vẫn chịu sự chi phối của Chính Phủ song có phần ít lệ thuộc vào
quan hệ chính trị giữa các bên tham gia hơn so với ODA.
- Việc tiếp nhận FDI không gây nên tình trạng nợ nước ngoài cho nước chủ

nhà, bởi nhà ĐTNN chịu trách nhiệm trực tiếp trước hoạt động sản xuất kinh doanh
của họ. Trong khi đó, hoạt động ODA và ODF ( Official Development Foreign)
thường dẫn đến tình trạng nợ nước ngoài do hiệu quả sử dụng vốn thấp.
• Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI )tại Việt Nam.
Nước ta mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài muộn hơn các nước trong khu
vực, hệ thống luật đầu tư nước ngoài ra đời muộn hơn. Nhưng tương đối đầy đủ và
không kém phần hấp dẫn so với các nước trong khu vực. Luật đầu tư nước ngoài
của Việt Nam được ban hành từ năm 1987, đây là một mốc quan trọng đánh dấu
quá trình mở cửa nền kinh tế, đa dạng hoá đa phương hoá quan hệ đối ngoại của
nước ta. Trước đó năm 1977 Chính phủ ban hành một nghị định về đâu tư trực tiếp
nước ngoài. Song quá trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ thực sự kể từ khi
luật đầu tư nước ngoài được ban hành. Luật đầu tư nước ngoài được ban hành dựa
trên kinh nghiệm và luật pháp của một số nước phát triển cùng với các điều kiện và
đặc điểm từng vùng của Việt Nam.
7
CHƯƠNG 2.THỰC TRẠNG FDI CỦA NHẬT BẢN TẠI
VIỆT NAM
2.1.Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào
Việt Nam qua các giai đoạn.
Từ năm 1986, Việt Nam đã chính thức bước vào công cuộc đổi mới mở cửa
nền kinh tế, thực hiện chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ kinh
tế quốc tế, tận dụng nguồn vốn bên ngoài để phát triển đất nước. Và đặc biệt khi
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành vào ngày 29/12/1987 quá trình
thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI nói chung và vốn FDI của Nhật Bản nói riêng tại
Việt Nam đã có những bước chuyển biến tích cực. Tình hình vốn FDI của Nhật vào
Việt Nam từ những ngày đầu cho đến nay có thể được chia ra làm 4 giai đoạn: giai
đoạn thăm dò 1988-1993; giai đoạn bùng nổ 1994-1997; giai đoạn suy thoái 1998-
2002; giai đoạn phục hồi và phát triển mạnh mẽ từ 2003 đến nay.
2.1.1. Giai đoạn thăm dò 1988 – 1993
Đây được coi là giai đoạn mở đầu khi các nhà đầu tư Nhật Bản mới chỉ dè

dặt bước vào thị trường Việt Nam. Trên thực tế, hơn 1 năm kể từ năm 1988, dòng
vốn FDI từ Nhật Bản vào Việt Nam mới có khoảng gần 1 triệu USD, mở đầu là dự
án đầu tư của công ty Kansai Kyodo trong lĩnh vực chế tạo thiết bị cảng ở Hải
Phòng năm 1989, tiếp đến là dự án xuất khẩu may mặc của công ty Hikosen Kara
vào tháng 3 năm 1990. Năm 1992, là năm chứng kiến dòng vốn FDI Nhật Bản vào
Việt Nam mạnh mẽ nhất trong cả giai đoạn, với 10 dự án và tổng số vốn đăng ký
lên tới gần 106 triệu USD, nhưng con số này cũng giảm mạnh ngay trong năm sau
đó, chỉ còn bằng 75% năm trước.
Phần lớn giai đoạn này nằm trong thời kì lạnh nhạt quan hệ ngoại giao giữa
hai nước kéo dài từ năm 1979 đến năm 1991. Năm 1990, tuy Việt Nam đã ban hành
các ưu đãi đầu tư thông thoáng hơn qua sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài, nhưng tình
hình cũng không mấy cải thiện. Năm 1992, đánh dấu một mốc quan trọng trong
quan hệ Việt Nam-Nhật Bản do việc giải quyết vấn đề Campuchia và quá trình đổi
8
mới của Việt Nam được gia tăng trên tất cả các lĩnh vực, chấm dứt thời kì lạnh nhạt,
mở đầu cho một giai đoạn mới trong quan hệ bang giao giữa hai nước. Việt Nam
tiếp tục áp dụng những ưu đãi đầu tư hấp dẫn hơn để thu hút vốn FDI. Tuy nhiên,
về cơ bản khuôn khổ pháp lý vẫn chưa được hoàn thiện nên chưa tạo được lòng tin
cho các nhà đầu tư.
Nhìn chung, cũng như các dòng FDI vào Việt Nam khác, mức đầu tư của
Nhật Bản vào Việt Nam hàng năm trong giai đoạn này không ổn định và chưa đáng
kể. Điều này cũng dễ hiểu bởi khung pháp luật về FDI ở Việt Nam mới được hình
thành lại liên tục bị thay đổi nên các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư Nhật Bản
với bản tính thận trọng, còn cân nhắc khi chọn Việt Nam là nơi đầu tư so với các
nước trong khu vực hay trên thế giới.
2.1.2. Giai đoạn bùng nổ 1994-1997
Đây là thời kì FDI của Nhật Bản vào Việt Nam nở rộ. Nhìn chung trong giai
đoạn này, mức vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam qua các năm đều đạt con số lớn.
Theo số liệu của Cục ĐTNN, ngay từ năm 1994, FDI của Nhật Bản vào Việt
Nam đã có dấu hiệu tăng trưởng mạnh với 35 dự án đầu tư và 347 triệu USD tổng

vốn đăng ký, tăng hơn 3 lần so với năm 1992, năm được coi là đỉnh cao của FDI
Nhật Bản trong giai đoạn trước. Năm 1995, FDI Nhật Bản vào Việt Nam tiếp tục
tăng vọt, đạt trên 1,2 tỷ USD vốn đăng ký, cao nhất kể từ thời kì đầu cho tới hết 10
năm sau đó, với 65 dự án được cấp phép đầu tư. Trong hai năm cuối của thời kì,
FDI của Nhật Bản vào Việt Nam tuy có giảm sút hơn nhưng vẫn đạt được những
con số đáng nể. Năm 1996, tổng vốn đăng ký đạt 788,9 triệu USD với 72 dự án
được cấp phép, những con số tương ứng năm 1997 là 606 triệu USD và 54 dự án
được cấp phép.
Bảng 2- . Dòng FDI từ Nhật Bản vào Việt Nam, giai đoạn 1994-1997
Năm 1994 1995 1996 1997
Số dự án đầu tư 35 65 72 54
Vốn đăng ký (triệu USD ) 347 1200 788,9 606
(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài)
Những con số đáng kể trên đã nâng tầm Nhật Bản dần trở thành một trong
những nhà đầu tư quan trọng hàng đầu vào Việt Nam. Năm 1995, Nhật Bản là nhà
9
đầu tư đứng thứ 3 ở Việt Nam, sau Đài Loan và Hồng Kông. Những tổ chức xúc
tiến thương mại và đầu tư của Chính phủ Nhật Bản như Tổ chức xúc tiến thương
mại Nhật Bản (Jetro), Văn phòng hợp tác quốc tế Nhật Bản (Jica) lần lượt khai
trương các văn phòng đại diện tại Việt Nam. Phó tổng vụ trưởng Vụ chính sách
thương mại, bộ kinh tế thương mại Nhật Bản, ông Yoshihiko Sumi cho biết: “Thời
gian này, người Nhật Bản coi Việt Nam là một hiện tượng”. Sự bùng nổ này một
phần là nhờ những chuyển biến tích cực của tình hình quốc tế, trong đó đáng chú ý
là Mỹ bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam (2/1994) và sự gia tăng của xu hướng đồng
Yên lên giá buộc các công ty Nhật Bản phải xúc tiến đi tìm một thị trường khác với
chi phí sản xuất rẻ hơn để đầu tư. Đó còn là nhờ những thành quả bước đầu trong
công cuộc chuyển mình của Việt Nam từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh
tế thị trường nhằm nỗ lực cải thiện hình ảnh của mình trong mắt các nhà đầu tư. Đồng
thời, sự kiện Việt Nam gia nhập ASEAN vào ngày 28/7/1995 sau khi bình thường
hoá quan hệ với Mỹ đã làm dấy lên kì vọng của các nhà đầu tư Nhật Bản vào một thị

trường Việt Nam tiềm năng, một môi trường đầu tư ngày càng hội nhập sâu rộng hơn
vào nền kinh tế thế giới và khu vực trong tương lai.
Sự bùng nổ FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong những năm này nằm
trong giai đoạn bùng nổ FDI nói chung vào Việt Nam từ năm 1994 đến năm 1998.
Điều này cho thấy các nhà đầu tư Nhật Bản rất nhạy bén với xu hướng của thời kì.
Nhật Bản đã vươn lên trở thành một trong những đối tác kinh tế quan trọng hàng
đầu của Việt Nam.
2.1.3. Giai đoạn suy thoái 1998-2002
Trong giai đoạn này, FDI của Nhật Bản vào Việt Nam suy giảm rõ rệt cả về
tổng vốn đăng ký và số dự án đầu tư, lâm vào trạng thái trì trệ kéo dài.
FDI của Nhật Bản vào Việt Nam năm 1998 chỉ còn 19 dự án được cấp phép
với 177,5 triệu USD vốn đăng ký, chỉ còn bằng 1/4 so với năm 1997 và tiếp tục
giảm mạnh trong các năm tiếp theo. Năm 1999, dòng vốn này của Nhật Bản vào
Việt Nam trở về mức khởi điểm, chỉ đạt 42 triệu USD với 14 dự án, đẩy các nhà
đầu tư Nhật Bản về vị trí thứ 9 trong số các nhà đầu tư vào Việt Nam. Các con số
trong những năm tiếp theo mặc dù có xu hướng tăng hơn nhưng cũng ở mức thấp,
10
đạt 140 triệu USD, 223 triệu USD, 163 triệu USD tương ứng vào các năm 2000,
năm 2001 và năm 2002. Các nhà đầu tư Nhật Bản mất dần vị trí chủ đạo. Theo Cục
ĐTNN, tổng FDI của Nhật Bản cả giai đoạn chỉ còn chiếm 3,9% tổng dòng vốn này
vào Việt Nam.
Bảng 2- . Dòng FDI từ Nhật Bản vào Việt Nam, giai đoạn 1998-2002
Năm 1998 1999 2000 2001 2002
Số dự án 19 14 26 48 59
Vốn đăng ký (triệu USD) 177,5 42 140 223 163
(Nguồn: cục đầu tư nước ngoài)
Đây là thời kì hậu khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực châu Á 1997, nền kinh tế
Nhật Bản lâm vào tình trạng suy thoái với hàng loạt các công ty lớn phá sản và các
nhà đầu tư rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính. Thêm vào đó, sự giảm giá của
đồng Yên, việc cải tổ, cơ cấu lại các doanh nghiệp của Nhật Bản cũng như việc

chính phủ Nhật tiến hành điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài trong giai đoạn
này làm cho dòng FDI của Nhật Bản tới hầu hết các nước suy giảm nghiêm trọng,
trong đó có cả Việt Nam.
Tuy nhiên, đây không phải là nguyên nhân chính làm hoạt động FDI của
Nhật Bản ở Việt Nam giảm sút mà còn do những nhận định của các nhà đầu tư Nhật
Bản về điều kiện nội tại của nền kinh tế Việt Nam và môi trường đầu tư kém hấp
dẫn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Theo quan điểm của nhiều
chuyên gia kinh tế, cuộc khủng hoảng này tuy có tác động đến Việt Nam nhưng
cũng tạo ra thời cơ trong việc thu hút nguồn vốn quốc tế khi các nước khác trong
khu vực đang phải đối phó với những biến động kinh tế nhưng luật đầu tư nước
ngoài sửa đổi năm 1996 lại không tạo điều kiện để khai thác được những lợi thế
này. Do đó, Việt Nam không đón bắt được cơ hội thu hút dòng vốn FDI từ Nhật
Bản.
Nhìn chung, những diễn biến về FDI của Nhật Bản trong thời kì này cũng
giống như xu hướng của dòng FDI nói chung vào Việt Nam, đều có biểu hiện
chững lại hay giảm sút. Điều này tiếp tục cho thấy sự nhạy bén của các nhà đầu tư
Nhật Bản trong nắm bắt tình hình để giữ an toàn cho nguồn vốn của họ, đặc biệt là
những quan tâm sâu sắc về môi trường đầu tư của nước chủ nhà trong quá trình tìm
11
hiểu và tiến hành đầu tư.
2.1.4. Giai đoạn phục hồi và phát triển mạnh mẽ từ năm 2003 đến nay
Đây được coi là giai đoạn các nhà đầu tư Nhật Bản chú ý trở lại thị trường
Việt Nam. Dòng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam từng bước hồi phục và tăng
trưởng mạnh mẽ, đạt được những con số đáng kể.
Năm 2003, tổng vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam tăng gần gấp đôi so
với mức 163 triệu USD vào năm 2002, đạt 324 triệu USD. Đến năm 2004, con số
này đã tăng lên gấp hơn 2,5 lần so với năm 2003. Năm 2005, vốn đầu tư của Nhật
Bản tiếp tục tăng lên 960 triệu USD với 119 dự án mới.
Vào năm 2009, có 43 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt
Nam, Nhật Bản chỉ đứng thứ 9 với tổng vốn đăng ký là 372,7 triệu USD chiếm

1,7% tổng số vốn đầu tư vào Việt Nam, nhưng tính đến hết năm 2010, Nhật Bản có
1397 dự án đầu tư trực tiếp còn hiệu lực tại Việt Nam. Năm 2011, Nhật Bản vẫn giữ
nguyên vị trí thứ 3 trong tổng số các đối tác đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn
đăng kí cấp mới và tăng thêm là 2,4 tỷ USD (tổng số vốn lên tới gần 23,6 tỷ
USD), tỷ lệ giải ngân giai đoạn này vẫn giữ ổn định ở mức 28,72%, số dự án tăng
thêm là 416 dự án, tăng gấp đôi so với năm 2010.
Năm 2012, đã có 58 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam.
Nhật Bản dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm 5,13 tỷ USD,
chiếm 39,5% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam trong năm 2012, Singapore đứng vị trí
thứ 2 với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1,72 tỷ USD, chiếm
13,3% tổng vốn đầu tư, Hàn Quốc đứng vị trí thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký
cấp mới và tăng thêm là 1,17 tỷ USD, chiếm 9,1% tổng vốn đầu tư.
12
Bảng 2- . Dòng FDI từ Nhật Bản vào Việt Nam, giai đoạn 2003-2012
Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Số dự án 53 102 119 160 154 105 95 208 416 317
Số vốn
đăng kí
(triệu USD)
342 890 960 1500 965 7280 372,7 1840 2400 5130
(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài)
Nguyên nhân của quá trình phục hồi nhanh chóng này trước hết phải kể đến sự
quan tâm của các nhà đầu tư Nhật Bản tới Việt Nam như một địa điểm tiềm năng
cho chiến lược “Trung Quốc +1”, chiến lược tìm một thị trường đầu tư để phân tán
rủi ro khỏi Trung Quốc. Sự quan tâm này đã thúc đẩy những nỗ lực hợp tác của
Chính phủ và các doanh nghiệp hai nước, thể hiện cụ thể trong việc ký kết Hiệp
định về tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư vào 14/11/2003 cũng như việc thực thi
Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản từ năm 2003. Thêm vào đó, từ 1/7/2006, Luật
đầu tư và Luật doanh nghiệp mới được đưa vào thực hiện, đánh dấu bước tiến quan
trọng trong lộ trình hội nhập kinh tế nói chung và đầu tư nói riêng trên lĩnh vực lập

pháp, xoá bỏ việc phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo tâm lý
bình đẳng hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, việc phân cấp cho chính
quyền tỉnh, thành phố thẩm định và cấp phép, quản lý nhà nước các doanh nghiệp
FDI đã hình thành phong trào thi đua cải thiện thủ tục và môi trường đầu tư giữa
các địa phương. Một lý do quan trọng trong thời gian gần đây là do đồng Yên bắt
đầu suy yếu, nếu không đầu tư ra nước ngoài thì sẽ tạo ra nhiều nguy cơ cho giá trị
của đồng Yên, chính vì vậy mà các doanh nghiệp Nhật Bản phải tìm cách đầu tư ra
nước ngoài. Thêm một lý do khác, việc căng thẳng gia tăng trong tranh chấp lãnh
thổ giữa Nhật Bản và Trung Quốc vì quần đảo Senkaku (tiếng Trung Quốc là đảo
Điếu Ngư) năm nay, như một nghịch lý, đã có tác động tích cực đến nền kinh tế
Việt Nam và góp phần làm tăng dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nước này. Tinh
thần bài Nhật ở Trung Quốc đã làm ảnh hưởng không ít đến kinh doanh của người
Nhật, và bây giờ họ chú trọng hơn đến Việt Nam. Theo đánh giá của nhiều chuyên
gia, các nhà đầu tư Nhật Bản đang chú ý nhiều hơn tới thị trường Việt Nam, bắt đầu
xem nước ta là điểm đến thứ hai bên cạnh Trung Quốc và đây không chỉ đơn thuần
13
là sự phân tán rủi ro đầu tư của Nhật Bản ở Trung Quốc mà là do môi trường đầu tư
của Việt Nam ngày càng trở lên hấp dẫn hơn.
2.2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
2.2.1. Cơ cấu theo ngành
Nền kinh tế Nhật Bản có đặc thù là một nền kinh tế hướng ngoại với cơ cấu
công nghiệp hoàn chỉnh. Vì vậy, FDI của Nhật có mặt trong tất cả các ngành, lĩnh
vực của nền kinh tế nước ta từ công nghiệp, nông, lâm, ngư nghiệp, xây dựng và
dịch vụ.
Nhìn vào giai đoạn trước, ta thấy Nhật Bản quan tâm nhiều đến các dự án
khai thác tài nguyên thiên nhiên và các dự án phát triển dịch vụ. Nhật Bản là một
nước nghèo về tài nguyên thiên nhiên, đây là lý do khách quan thúc đẩy các công ty
Nhật Bản thực hiện chiến lược phát triển hướng ngoại trên cơ sở nhập nguyên liệu.
Trong những thập kỷ 70 – 80, Nhật Bản đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường
do hậu quả của quá trình công nghiệp hoá. Vì vậy, chiến lược đầu tư của Nhật Bản

vào Châu Á từ cuối thập niên 80 đến nay vẫn là nhằm vào khai thác nguyên liệu từ
bên ngoài.
Bước sang giai đoạn tiếp theo 1995-2002, sau công nghiệp (chiếm 63% ),
một số lĩnh vực được các nhà đầu tư Nhật ưu tiên đầu tư theo thứ tự: dịch vụ với
6,5% tổng số dự án, sấp xỉ 1% tổng vốn đăng ký; giao thông vận tải, bưu điện
chiếm 5,4% số dự án, 7,3% vốn đăng ký; xây dựng chiếm 5,8% trong tổng dự án,
11% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực nông, lâm nghiệp đến nay chiếm khoảng
5,5% số dự án và 1,4% tổng số vốn đầu tư. Nhìn chung số dự án trong lĩnh vực này
tăng chậm, nguyên nhân chính là việc đầu tư vào lĩnh vực này gặp nhiều khó khăn
về cung cấp nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm, về giải quyết đất đai, chịu ảnh hưởng
của thời tiết khí hậu
14
Bảng 2- 4. Đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam theo giai đoạn 1989-1994
(Đơn vị: triệu USD, %)
Ngành
Số dự án Tổng số vốn đầu tư
Tỷ trọng VĐT
của Nhật trong
tổng VĐT %
Tổng
dự án
Nhật
Bản
Tổng
VĐT
VĐT
của Nhật
Công nghiệp 492 40 3.838,2 175,4 4,57
Dầu khí 25 4 1.284,9 121,4 9,45
Ngư nghiệp 20 - 60,4 - -

GTVT-Bưu điện 21 - 636,8 - -
Khách sạn du lịch 104 5 1.954,1 184,6 9,45
Dịch vụ 127 12 729,6 34,6 4,74
Tài chính-Ngân hàng 15 - 176,6 34,6 4,74
Các ngành khác 51 - - - -
Tổng số 930 66 9066,4 528,8 5,5
(Nguồn: Uỷ ban hợp tác đầu tư)
Không giống như các giai đoạn trước hiện nay vốn đầu tư của Nhật Bản tập
trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm hơn 89% tổng
dòng vốn đăng ký. Theo Cục đầu tư nước ngoài, tính đến trung tuần tháng
11/2012, trong số khoảng 1.700 dự án của doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam
trải trên nhiều lĩnh vực như tài chính ngân hàng, xây dựng cơ sở hạ tầng thì công
nghiệp chế biến chế tạo - lĩnh vực đang được Việt Nam khuyến khích chiếm
khoảng 990 dự án, với tổng vốn đầu tư khoảng 23,3 tỷ USD, chiếm 81% tổng
vốn đầu tư từ Nhật Bản vào Việt Nam.
Hình 2- 1: Cơ cấu FDI theo ngành của Nhật Bản vào Việt Nam (tính theo tổng
vốn đăng ký) đến năm 2012 (%)
15
(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài)
Hàng loạt các tập đoàn, công ty lớn của Nhật Bản đã xây dựng nhà máy ở
Việt Nam như Toyota, Honda, Panasonic, Canon, tập đoàn sản xuất cao su và lốp
xe lớn nhất thế giới Bridgestone, tập đoàn sản xuất vật liệu xây dựng lớn nhất của
Nhật Bản Lixil
2.2.2. Cơ cấu theo địa phương
Cơ cấu FDI theo vùng, lãnh thổ đã có chuyển biến tích cực. Thời gian đầu,
FDI chủ yếu tập trung vào các tỉnh phía Nam, đến nay đã có sự quan tâm hơn đối
với khu vực miền Bắc, có tới 28/62 tỉnh thành trong cả nước có các dự án đầu tư
của Nhật Bản đang được tiến hành thực hiện. Đây là những tỉnh thành có cơ sở hạ
tầng (cả cứng và mềm) thuận lợi tương đối hơn so với các địa phương khác và có
nguồn lực được đào tạo có tay nghề như ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng,

Đồng Nai Riêng TP. Hồ Chí Minh tập trung được nhiều dự án cũng như vốn đầu
tư nước ngoài, với hơn 90 văn phòng đại diện của các hãng và ngân hàng Nhật Bản,
cao nhất là Hà Nội với 59 dự án với số vốn là 867,933 triệu USD chiếm 19,7% tổng
dự án và 22,5% tổng số vốn, TP. Hồ Chí Minh có 118 dự án chiếm 39,5% với số
vốn là 45,141 triệu USD chiếm 19,3 % tổng số vốn, tiếp đến là Đồng Nai 28 dự án
với số vốn là 729,929 triệu USD, Thanh Hoá chỉ có 2 dự án nhưng vốn chiếm tới
373,6 triệu USD Tuy nhiên gần đây có nhiều dự án đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng
như khu chế xuất Tân Thuận, Linh Trung, dự án Bắc Nhà Bè - Nam Bình Chánh,
dự án đô thị mới Nam Sài Gòn và dự án nhà máy nước Bình An.
16
Hình 2- 2. Cơ cấu FDI theo địa bàn của Nhật Bản vào Việt Nam (tính theo vốn
đăng ký) đến năm 2000 (%)
Có thể nói, cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ của FDI tại Việt Nam không
cân đối, với một biểu hiện nổi bật là chỉ tập trung vào một số địa phương. Điều này
cho thấy đối tác Nhật rất kén địa điểm đầu tư. Mười địa phương dẫn đầu đã chiếm
tới 87,6% tổng số dự án và 91,8% tổng vốn FDI vào Việt Nam. Sự phân bố này khá
tương ứng với tính chất, mức độ mở cửa và tiềm năng của các vùng kinh tế ở Việt
Nam. Bên cạnh đó, không thể phủ nhận FDI nói chung và FDI nói riêng đã góp
phần hình thành nên các vùng kinh tế trọng điểm quốc gia và ở giai đoạn đầu tiến
hành Công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì đây là một tất yếu khách quan và như vậy
mới tạo ra được những chuyển biến cần thiết cho nền kinh tế.
Tính đến hết 2010, trừ 4 dự án trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí, các
dự án đầu tư của Nhật Bản có mặt tại 42 tỉnh, thành phố của Việt Nam nhưng tập
trung tại các địa phương có cơ sở hạ tầng tương đối phát triển: Hà Nội, TP. Hồ Chí
Minh, Bình Dương và Đồng Nai. Bốn địa phương này có 910 dự án với tổng vốn
đầu tư đăng ký là 7,9 tỷ USD. Thứ nhất là Hà Nội với 344 dự án có tổng số vốn
đăng ký 3 tỷ USD, thứ hai là Thành phố Hồ Chí Minh với 378 dự án có tổng vốn
đăng ký 2,39 tỷ USD. Thứ ba là Bình Dương với 247 dự án có tổng vốn đăng ký
1,26 tỷ USD. Thứ tư là Đồng Nai với 96 dự án có tổng vốn đăng ký 1,52 tỷ USD
17

Bảng 2- 5. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam phân theo vùng lãnh thổ
(tính đến năm 2012)
Địa phương Số dự án Tỷ trọng
TP. Hồ Chí Minh 495 28,2%
Hà Nội 457 26%
Bình Dương 179 10,2%
Đồng Nai 124 7,1%
Hải Phòng 90 5,1%
Hưng Yên 51 2,9%
Bắc Ninh 49 2,8%
Hải Dương 46 2,6%
Đà Nẵng 40 2,3%
(Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư)
Qua bảng 2.5 ta thấy, Nhật Bản vẫn chủ yếu đầu tư nguồn vốn FDI vào các
tỉnh thành phố lớn gây ra sự phát triển mất cân đối giữa các vùng trong cả nước.
Nhà nước cần có những giải pháp thích hợp để khắc phục tình trạng này.
Năm 2011, thành phố Hồ Chí Minh luôn là địa bàn dẫn đầu cả nước về cả
quy mô và số lượng dự án đầu tư, thu hút tới hơn 16% tỷ trọng vốn ở cả hai thời
kỳ. Tiếp đến là Bà Rịa – Vũng Tàu, Hà Nội, Đồng Nai và Bình Dương. Chỉ tính
riêng 5 địa phương này trong cả 2 thời kỳ đã chiếm tới gần hơn 55% tổng luồng
vốn, hơn 70% tổng số các dự án FDI Nhật Bản vàoViệt Nam.
Năm 2012, các dự án đầu tư của Nhật Bản có mặt tại 48 tỉnh, thành phố Hồ
Chí Minh tiếp tục dẫn đầu, tiếp sau đó là Hà Nội, Bình Dương có dự án khu đô thị
Tokyu Bình Dương do nhà đầu tư Nhật Bản đầu tư tại Bình Dương với tổng vốn
đầu tư đăng ký 1,2 tỷ USD, hay ở Hải Phòng có một số dự án lớn như dự án Nhà
máy Sản xuất lốp xe ô tô (công suất 24.700 chiếc/ngày) của Bridgestone
Corporation, vốn đầu tư 574,8 triệu USD, sử dụng 102 ha đất tại KCN Đình Vũ, dự
án Sản xuất thuốc tiêu chuẩn cao Nipro Pharma Corporation (công suất hàng năm:
20 triệu túi dịch truyền, 40 triệu ống thuốc tiêm, 2 tỷ viên thuốc uống…), vốn đầu
tư 250 triệu USD, sử dụng 15 ha đất tại KCN VSIP, dự án Sản xuất máy in, máy

photocopy và máy đa năng của Fuji Xerox (công suất 1,3 triệu sản phẩm/năm), vốn
đầu tư 119 triệu USD, sử dụng 17,67 ha đất tại KCN VSIP. Ngoài ra Nhật bản đầu
tư FDI vào rất nhiều các dự án rải rác ở các tỉnh như: dự án tăng vốn mở rộng sản
18
xuất thêm 870 triệu USD của Công ty TNHH Wintek Việt Nam tại Bắc Giang và dự
án của Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam tại Khu công nghiệp Bắc
Ninh với số vốn là 830 triệu USD…
2.2.3. Cơ cấu theo hình thức đầu tư
Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Việt Nam được thực hiện dưới ba dạng chủ
yếu sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp liên doanh: Đây là hình thức mà các đối tác nước
ngoài thường chọn trong giai đoạn đầu khi đầu tư vào bất kỳ một thị trường mới
nào. Đây được coi là hình thức tối ưu hơn cả bởi lẽ ở giai đoạn này các nhà đầu tư
chưa thực sự tin tưởng và hiểu đối tác của mình. Các nhà đầu tư Nhật cũng vậy,
thông qua hình thức này hay thông qua liên doanh, phía Nhật Bản sẽ hiểu hơn về thị
trường Việt Nam, về hệ thống pháp luật cũng như phong tục tập quán địa phương
nơi mà họ sẽ tiến hành đầu tư. Do vậy thông thường đối tác liên doanh với Nhật
trong hình thức này là các doanh nghiệp Nhà nước và phần góp chủ yếu của phía
Việt Nam là đất, bất động sản nên việc đánh giá gặp nhiều khó khăn đã làm ảnh
hưởng tới hiệu quả liên doanh.
Hiện nay vốn đầu tư của Nhật theo hình thức này chiếm 60% với xấp xỉ 50%
số dự án. Nếu so với mức chung hiện nay 70% số vốn đầu tư và 62% dự án thì các
nhà đầu tư Nhật Bản không phải là những người ưa chuộng hình thức này. Trong
khi đó, đối với Singapore chiếm tới 75% dự án, gấp 1,4 lần so với Nhật Bản,
Inđônêxia là 61% gấp gần 1,2 lần Hình thức liên doanh chủ yếu của doanh nghiệp
Việt Nam với Nhật Bản liên quan chủ yếu đến các dự án chế biến sản phẩm nông -
lâm nghiệp, dịch vụ, sản xuất xe máy v.v
Bảng 2- 6. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam theo hình thức đầu tư
(Đơn vị: triệu USD, %)
Hình thức đầu tư

Số dự
án
Tỷ lệ
Tổng vốn
đăng ký
Tỷ lệ
Vốn thực
hiện
Tỷ lệ
Vốn
pháp
định
Tỷ lệ
Liên doanh 138 46,1 2.250,5 58,4 1.362,4 57,4 918,1 49,1
19
100% vốn Nhật bản 249 49,8 1.205,2 31,2 550,6 23,2 597,7 30,2
Hợp đồng hợp tác
12 4,1 69,6 10,4 457,5 19,4 369,9 20,7
Tổng số 299 100 3.825,6 100 2.370,5 100 1.913,1 100
(Nguồn: Vụ quản lý dự án)
Thứ hai, doanh nghiệp 100% vốn Nhật Bản: Đây là hình thức được nhiều
nhà đầu tư Nhật Bản quan tâm nhất là trong những năm gần đây. Bởi chỉ ở hình
thức này, nhà đầu tư mới có quyền độc lập, tự quyết định hoạt động kinh doanh của
mình, chủ động trong chiến lược kinh doanh thích hợp với môi trường luôn có sự
biến động.
Nhằm thu hút và khuyến khích đầu tư nước ngoài, Chính phủ Việt Nam đã
có những sửa đổi các đạo luật liên quan theo hướng tạo thuận lợi hơn đối với loại
hình này. Có thể nói các công ty thuộc loại hình này hoạt động kinh doanh như các
công ty trách nhiệm hữu hạn của Việt Nam. Nhờ đó loại hình này đang ngày càng
gia tăng. Nếu năm 1997 loại hình này mới chiếm 40% số dự án, năm 1998 đã là

42% và đến nay nó đã chiếm gần tới 50% số dự án. Đây là con số khá cao so với
mức trung bình 30% số dự án tổng FDI vào Việt Nam.
Hình thức này được tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực dịch vụ, sản xuất hàng
tiêu dùng và đặc biệt là các lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao như sản xuất điện lạnh,
thiết bị quang học.ví dụ công ty sản xuất linh kiện máy tính Fujisu ở Đồng Nai,
công ty điện máy Sanyo v.v
Bảng 2- 7. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam theo hình thức đầu tư
(tính đến năm 2010)
STT Hình thức đầu tư
Số
dự án
Tổng số vốn đầu
tư (USD)
Vốn điều lệ(USD)
1 100% vốn nước ngoài 1125 9.912.512.235 3.485.612.986
2 Liên doanh 234 9.439.313.321 1.463.644.629
3 Hợp đồng hợp tác kinh doanh 19 447.660.356 447.660.356
4 Hợp đồng BT, BOT, BTO 1 9.375.000 3.125.000
5 Công ty cổ phần 17 929.088.858 300.684.741
20
6 Công ty Mẹ-Con 1 98.008.000 82.958.000
Tổng cộng 1397 20.835.957.776 5.783.685.712
(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài-Bộ Kế Hoạch và Đầu tư)
Thứ ba, hợp đồng hợp tác kinh doanh: Hình thức này được sử dụng chủ yếu
trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí, viễn thông, những lĩnh vực then chốt
mà phía Việt Nam muốn hạn chế sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài mặc dù
ở lĩnh vực này rất cần đến kỹ thuật công nghệ hiện đại.
Hết năm 2010, các dự án FDI của Nhật Bản tại Việt Nam theo hình thức
100% vốn nước ngoài chiếm 80,52% số dự án và 47,57% vốn đầu tư. Tiếp theo là
đầu tư theo hình thức liên doanh với 234 dự án, tổng số vốn đầu tư là 9,43 tỷ USD

(chiếm 16,75% số dự án và 45,3% vốn đầu tư). Còn lại là các dự án đầu tư theo
hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng BT, BOT, BTO và công ty cổ
phần. 3 hình thức này chiếm một lượng rất nhỏ trong tổng số dự án đầu tư (tổng cả
3 hình thức chiếm 2,64% số dự án và 6,6% vốn đầu tư).
Theo cục đầu tư nước ngoài, tính tới năm 2012, cả nước có 13,664 dự án
được phân bổ vào 6 ngành: 100% vốn nước ngoài, liên doanh, Hợp đồng BOT, BT,
BTO, Hợp đồng hợp tác kinh doanh, Công ty cổ phần, Công ty mẹ con.
21
2.3 Quy mô dự án và hiệu quả đầu tư FDI của Nhật Bản vào Việt Nam
2.3.1 Qui mô dự án
Bảng 2-8. Quy mô dự án đầu tư FDI của Nhật vào Việt Nam
giai đoạn 1994-2012
Năm Số dự án
Vốn đăng kí (triệu
USD)
Quy mô trung bình các dự
án (triệu USD)
1994 35 347 9,91
1995 65 1200 18,46
1996 72 788,9 10,96
1997 54 606 11,22
1998 19 177,5 6,18
1999 14 42 3
2000 26 140 5,38
2001 48 223 4,65
2002 59 163 2,76
2003 53 342 6,45
2004 102 890 8,73
2005 119 960 8,07
2006 160 1500 9,38

2007 154 965 6,27
2008 105 7280 69,33
2009 95 372,7 3,92
2010 208 1840 8,85
2011 416 2400 5,77
2012 317 5130 16,18
(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài)
Quy mô dự án hay quy mô đầu tư cũng là một nhân tố quan trọng thể hiện
tình hình đầu tư của một quốc gia. Theo Cục ĐTNN, trước năm 1994, quy mô vốn
trung bình của một dự án FDI Nhật B ản là 6 triệu USD, tương đối thấp so với mức
bình quân của toàn bộ các dự án FDI lúc bấy giờ là 9 triệu USD. Đến năm 1994,
quy mô bình quân của một dự án là 9,91triệu USD. Năm 1995, năm bùng nổ đầu tư
của Nhật Bản vào Việt Nam, mức vốn trung bình cho một dự án được mở rộng ra,
đạt 18,46 triệu USD, gấp gần 2 lần so với năm trước. Cũng từ năm này, Nhật Bản
bắt đầu chú ý đến một số dự án lớn tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp quan
trọng, như: thăm dò khai thác dầu khí, xi măng, hoá chất, luyện kim…Trong đó có
các dự án lớn đáng chú ý như: liên doanh sản xuất phân bón hoá học ở phía Nam
với vốn đầu tư là 35 triệu USD, nhà máy cán thép Vinakyoei với vốn đầu tư trên 46
22
triệu USD, công ty kính Nippon Sheet Glass với vốn đầu tư là 118 triệu USD hoạt
động trong 50 năm, công ty nhựa Mitsui Vina Plastic với vốn đầu tư trên 90 triệu
USD hoạt động trong 30 năm…
Tuy nhiên, vào những năm tiếp theo, quy mô dự án lại nhanh chóng thu hẹp
lại như các năm 1999 quy mô bình quân một dự án của Nhật Bản vào Việt Nam là 3
triệu USD. Năm 2001, con số này là 2,76 triệu USD. Sang đến năm 2003, quy mô
bình quân một dự án đã gấp đôi so với năm 2001. Các năm tiếp theo tiếp tục tăng
mạnh, lên tới đỉnh điểm là năm 2008 với 69,33 triệu USD. Nhưng ngay năm sau
2009, con số này tụt xuống còn 3,92 triệu USD. Nguyên nhân là do năm 2008 là
năm đỉnh điểm thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam với số vốn đăng kí là 7280
triệu USD, số dự án là 105 dự án, sau đó đến năm 2009 bị ảnh hưởng bởi cuộc

khủng hoảng toàn cầu khiến cho FDI vào các nước giảm xuống. Trong những năm
gần đây, mặc dù các công ty lớn Nhật Bản đã bắt đầu quan tâm đến những dự án
quy mô lớn nhưng nhìn chung các nhà FDI Nhật Bản vẫn ưa thích các dự án đầu tư
quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu. Năm 2011, quy mô bình quân một dự án FDI của
Nhật vào Việt Nam là 5,77 triệu USD. Hiện Nhật Bản dẫn đầu với tổng vốn đầu tư
đăng ký cấp mới và tăng thêm 5,13 tỷ USD, chiếm 39,5% tổng vốn đầu tư vào Việt
Nam trong năm 2012, quy mô vốn đầu tư bình quân một dự án Nhật Bản hiện
khoảng 16,18 triệu USD cao hơn quy mô vốn đầu tư bình quân một dự án FDI hiện
nay là vào khoảng 14,7 triệu USD. Rõ ràng, theo thời gian, quy mô các dự án ngày
càng biến động mạnh và nó có xu hướng nhỏ lại. Nguyên nhân một phần là do các
dự án kiểu này cần nhiều lao động với tiền lương thấp, phù hợp với yêu cầu của các
nhà đầu tư Nhật Bản.
Khảo sát mới đây của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) cho thấy
80% doanh nghiệp Nhật Bản có vốn FDI tại Việt Nam sẽ mở rộng kinh doanh trong
vòng 3 năm tới.
2.3.2. Hiệu quả đầu tư FDI của Nhật Bản vào Việt Nam
Hiệu quả đầu tư là một nhân tố vô cùng quan trọng phản ánh chất lượng thực
của quá trình đầu tư, là một trong những yếu tố cân nhắc hàng đầu khi nhà đầu tư
đưa ra quyết định hay xem xét quy mô đầu tư. Trong những năm qua, hoạt động của
các công ty Nhật Bản ở Việt Nam là tương đối khả quan, nhiều doanh nghiệp đã có
23
những sản phẩm thay thế nhập khẩu và tham gia tích cực vào làm tăng lượng hàng
xuất khẩu. Hiệu quả đầu tư FDI của Nhật Bản được thể hiện rõ qua số vốn thực hiện
cao, tỷ lệ vốn thực hiện cao, tỷ lệ dự án giải thể trước thời hạn thấp…
Thứ nhất, trong khi vốn đăng ký đầu tư chỉ là con số danh nghĩa mà nhà đầu
tư cam kết đầu tư thì vốn thực hiện mới thể hiện nhà đầu tư thực tế đã bỏ ra bao
nhiêu. Lượng vốn này mới thực sự tác động tới nền kinh tế của nước tiếp nhận.
Hàng năm, vốn thực hiện của các dự án FDI Nhật Bản luôn ở mức cao và đặc biệt
trong những năm gần đây liên tục tăng mặc dù Nhật Bản chỉ là nhà đầu tư có vốn
đăng ký FDI lớn thứ 4 vào Việt Nam nhưng tỷ lệ vốn thực hiện lại cao nhất (trên

60%).
Ngoài ra, doanh thu của các dự án đầu tư trên vốn thực hiện đạt con số rất
cao: 2,2 lần trong khi con số chung của FDI vào Việt Nam là 1,7 lần. Những con số
này cho thấy tiềm năng trong kinh doanh tại môi trường Việt Nam đối với các công
ty Nhật Bản là dấu hiệu khả quan nhất lôi cuốn các nhà đầu tư tương lai.
2.4. Đánh giá chung về thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật
Bản tại Việt Nam.
2.4.1. Những thành công
Thứ nhất, về quy mô đầu tư
Sau một chặng đường đầu tư khá dài vào Việt Nam, cho đến nay Nhật Bản
vẫn đang và tiếp tục khẳng định vị thế của mình so với các nhà đầu tư khác tại Việt
Nam. Tính đến hết tháng 2/2013, Nhật Bản có 1.885 dự án đầu tư trực tiếp còn hiệu
lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 28,9 tỷ USD, đứng thứ nhất
trong 95 Quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Riêng trong
năm 2012, Nhật Bản có tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 5,59 tỷ
USD, chiếm 34,2% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam.
Thứ hai, về cơ cấu đầu tư
Cơ cấu đầu tư đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng
đầu tư vào lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghệ cao trong giai đoạn 1989-
1994 nhưng đến năm 2012 các doanh nghiệp Nhật được xem là "người đi đầu"
trong việc đưa vốn vào lĩnh vực chế biến - chế tạo, vốn đang được Chính phủ Việt
Nam khuyến khích. Theo đó, trong tổng số hơn 1.700 dự án FDI của Nhật tại Việt
24

×