Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TRIỂN VỌNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT FDI CỦA NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.58 KB, 25 trang )

TRIỂN VỌNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT FDI CỦA NHẬT
BẢN VÀO VIỆT NAM
I.Triển vọng của đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam ngày một tiến triển tốt đẹp
hơn. Từ khi Việt Nam mở cửa nền kinh tế(1986) đầu tư trực tiếp của Nhật
Bản vào Việt Nam ngày càng tăng. Năm 1989 Nhật Bản đầu tư vào Việt
Nam với số vốn là 0,6 triệu USD, năm 1990 số dự án mà Nhật Bản đầu tư
vào Việt Nam là 6 dự án, với số vốn là 10,2 triệu USD, năm 1992 đầu tư trực
tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam tăng mạnh số vốn là 116,72 triệu USD gấp
194,5 lần năm 1989 và hơn 11 lần so với năm 1990. Năm 1995 và năm 1996
là hai năm đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam đạt mức cao nhất.
Trong năm 1995 Nhật Bản đã đầu tư vào Việt Nam với số vốn là 1.303,2
triệu USD gấp gần 11,2 lần năm 1992, số dự án trong năm này cũng tăng
lên đạt 50 dự án. Năm 1996 đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam có sốdự án
là 56, tuy nhiên, số vốn lại ít hơn năm 1995, trong năm này số vốn là 777,8
triệu USD. Nhưng trong những năm 1997, 1998 và 1999 thì đầu tư trực tiếp
của Nhật Bản vào Việt Nam lại giảm, số vốn chỉ còn có 46,97 triệu USD vào
năm 1999. Nguyên nhân đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam giảm
là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra trong khu vực. Do đó, các
nhà đầu tư nước ngoài không chỉ riêng các nhà đầu tư Nhật Bản mà tất cả
các nhà đầu tư cũng đã rút vốn về nước. Đây là nguyên nhân chung mà các
nước trong khu vực phải gánh chịu chứ không riêng gì Việt Nam. Tuy nhiên,
đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam trong năm 2000 đã cho thấy sự
phục hồi của nó, số vốn năm 2000 là 56,348 triệu USD và số dự án là 19
trong khi đó năm 1999 là 13 dự án. Tính đến tháng 10 năm 2001 tổng số
vốn đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam là gần 4.020,8 triệu USD. Tổng số
vốn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam tính đến tháng 10 năm
2001 được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2: Đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam(1998 –2001)
LuËn V¨n Tèt NghiÖp
Tính đến năm Tổng số dự án được


cấp giấy phép
Tổng số vốn đầu tư
(USD)
1998 211 3.550.000.000
1999 212 3.570.940.000
2000 227 3.852.000.000
Tháng 10 năm
2001
317 4.020.777.572
Nguồn: Vụ quản lý dự án – Bộ kế hoạch và Đầu tư.

Qua việc điểm lại tình hình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam
trong thời gian qua, chúng ta có thể thấy đầu tư của Nhật Bản vào Việt
Nam ngày càng tăng và chúng ta có thể hy vọng vào triển vọng của nó
trong tương lai.
Triển vọng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam phụ thuộc vào một số yếu
tố sau:
Thứ nhất, là môi trường khu vực: Sau cuộc khủng hoảng tài chính -
tiền tệ khu vực, hiện nay kinh tế các nước trong khu vực đang đi vào phục
hồi và phát triển. So với năm 1998 – năm ảm đạm nhất của nền kinh tế khu
vực Đông Nam á, thì năm 1999 tốc độ tăng trưởng của Thái Lan đạt 4%;
Malaixia là 4,5%; Philippin là 3%; Singapo là 4,8%. Với sự phục hồi kinh tế
khu vực đã lấy lại niềm tin đối với các nhà đầu tư quốc tế, mmở ra giai
đoạn mới cho việc thu hút vốn đầu tư quốc tế nói chung, của Nhật Bản nói
riêng. Năm 1999 FDI của thế giới là 140 tỷ, trong đó cá nước châu á thu hút
91 tỷ USD, tăng 1% so với năm 1998. Sự phục hồi kinh tế khu vực tác động
đến dòng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trên hai khía cạnh. Thứ nhất, nó
làm tăng lên sự cạnh tranh trong thu hút FDI của Nhật giữa các quốc gia.
Thứ hai, sự phục hồi này thúc đẩy tăng cường hợp tác,giao dịch làm ăn
giữa các quốc gia, vì vậy làm tăng sức hấp dẫn của cả khu vực đối với các

dòng FDI. Nếu Việt Nam có chiến lược cải thiện tốt môi trường đầu tư, nâng
2
Khoa Kinh TÕ vµ Kinh Doanh Quèc TÕ
1
Lª V¨n Hinh – KDQT 40
LuËn V¨n Tèt NghiÖp
cao lợi thế so sánhtrong các yếu sản xuất, bảo đảm sự ổn định xã hội v.v…
thì chắc chắn sẽ giành được sự chú ý caocủa các nhà đầu tư, trong đó có
Nhật Bản.
Thứ hai, là xét từ phía Nhật Bản ta thấy xuất hiện những dấu hiệu
nói lêndòng FDI của Nhật Bản sẽ gia tăng trong những năm tới. Đó là sự
phục hồi kihn tế đi liền với sự ổn định chính trị với đường lối đối ngoại
hướng về châu á. Nếu trong năm 1997 và 1998 nền kinh tế Nhật rơi vào
mức tăng trưởng âm đã làm ảnh hưởng đến khả năng đầu tư ra nước
ngoài cuả Nhật thì năm 1999 nền kinh tế đã bắt đầu phuc hồi, tốc độ tăng
trưởng đạt 0,6%. Sự tăng trưởng kinh tế của Nhật Bảnsẽ góp phần làm sôi
động môi trươbgf kinh doanh của khu vực, thúc đẩy các hoạt động trao đổi,
đầu tư trong nội bộ khu vực. Đặc biệt với chính sách hướng về châu á thì
cùng sự phát triển kinh tế Nhật Bản, chắc chắn quan hệkinh tế, trong đó có
hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật vào khu vực sẽ gia tăng hơn. Nếu vậy
chúng ta có thể hy vọng về triển vọng mở rộng FDI vào khu vực cũng như
Việt Nam. Ông Nakamura, đại sứ Nhật tại Việt Nam cũng cho rằng: với nền
kinh tế Nhật Bản đang trên đà phục hồi và kinh tế khu vực cũng có dấu hiệu
phục hồi trong những năm tới. Tôi tin rằng các nhà đầu tư Nhật Bản sẽ tiếp
tục trở lại Việt Nam.
Thứ balà, nhìn nhận từ những chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam cũng
cho thấy những tác động tích cực đến thu hút FDI. Mặc dù Việt Nam cũng
chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực nhưng do
chưa hội nhập sâu và hơn nữa do có sự điều tiết vĩ mô tốt, Việt Nam vẫn
giữ được sự ổn định kinh tế xã hội trong những năm qua. Do đó, đã tạo

được niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài,trong đó có Nhật Bản .
Cùng với sự mở cửa nền kinh tế, luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
luôn có sự cải thiện theo hướng có lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài nên
3
Khoa Kinh TÕ vµ Kinh Doanh Quèc TÕ
1
Lª V¨n Hinh – KDQT 40
LuËn V¨n Tèt NghiÖp
Việt Nam đã thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là các nhà
đầu tư Nhật Bản. Việt Nam luôn được các nhà đầu tư Nhật Bản tin tưởng
vào môi trường đầu tư. Theo kết quả một cuộc khảo sát “Nghiên cứu tổng
quan năm 1996” (Từ 1/4/1996 đến 31/3/1997) của viện nghiên cứu đầu
tư và phát triển quốc tế ngân hàng xuất nhập khẩu Nhật Bản (JEXIM) đối
với các công tycủa Nhật Bản hoạt động đầu tư tại nước ngoài cho thấy:
Việt Nam luôn năm trong số 10 nước có triển vọng hấp dẫn nhất đối với
đầu tư trực tiếp của Nhật Bản cả trung hạn và dài hạn.
Bảng 3: Các nước có triển vọng nhất về FDI của Nhật cho thời kỳ dài hạn.

Xếp
hạng
Năm tài chính
1994
(4/94 – 4/95)
Năm tài chính 1995
(4/95- 4/96)
Năm tài chính 1996
(4/96 – 4/97)
1 Trung Quốc Trung Quốc Trung Quốc
2 Việt Nam Việt Nam ấn Độ
3 Thái Lan ấn Độ Việt Nam

4 Mỹ Mỹ Mỹ
5 Inđônêxia Inđônêxia Inđônêxia
6 Malaixia Thái Lan Thái Lan
7 ấn Độ Mianma Malaixia
8 Mêhicô Malaixia Mianma
9 Singapo Philippin Philippin
10 Đài Loan Anh Mêhicô

Nguồn: Thông tin phục vụ lãnh đạo, số 14(134), 7/1997. Viện nghiên cứu,
Bộ tài chính
Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam có triển vọng rất tốt. Điều
này có thể thấy rõ nhất là từ phía Việt Nam, thể hiện trong việc Việt Nam
đã có những chuyển biến tích cực về mọi mặt trong thời gian qua. Mặc dù
bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á, nhưng Việt
Nam vẫn giữ được sự ônr định kihn tế – xã hội trong những năm qua. Riêng
năm 1999, mức tăng GDP đạt 5%. Sản lượng nông nghiệp đạt 33,8 triệu
tấn, tăng 2 triệu tấn so với năm 1998 và là mức cao nhất từ trước cho tới
4
Khoa Kinh TÕ vµ Kinh Doanh Quèc TÕ
1
Lª V¨n Hinh – KDQT 40
LuËn V¨n Tèt NghiÖp
nay. Kim ngạch xuất khẩu tăng 22% so với năm 1998, tăng vượt hơn hai
lần so với kế hoạch đề ra. Kết quả sự phát triển kinh tế Việt Nam là cơ sở
quan trọng tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài trong đó có Nhật
Bản. Cơ sở hạ tầng của Việt Nam cũng đã và đang được nâng cấp, hệ thống
thông tin liên lạc đã đứng ngang hàng được với các quốc gia trong khu vực.
Cùng với việc cải cách kinh tế và cơ sở hạ tầng. Việt Nam đang triển khai
các biện pháp nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị, tăng cường đấu
tranh chống tham nhũng. Đáng chú ý là chính phủ Việt Nam rất quan tâm

đến việc cải thiện môi trường đầu tư mà biểu hiện rõ nét nhất gần đây là
ban hành quyết định 53 với nhiều nội dung quan trọng theo hướng tạo điều
kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc giảm chi phí sản xuất, tạo điều
kiện kinh doanh bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong nước cũng như nước
ngoài.Vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài được đảng và nhà nước
quan tâm nhiều hơn.
Mặt khác Việt Nam là một trong số những nước có khá nhiều thuận lợi,
đáp ứng được với những yêu cầu đặt racủa nhà đầu tư nước ngoài về
nguồn lực con người, trình độ đân trí, sự ổn định của chế độ chính trị xã
hội. lợi thế lớn nhất của Việt Nam là một thị trường với sức mua của hơn
80 triệu dân, một mảnh đất màu mỡ đầy tiềm năng chưa được khai thác
hết với nguồn nhân lực dồi dào, cần cù chịu khó và năng động, nguồn tài
nguyên phong phú được dựa trên một nền tảng vững chắc về chính trị xã
hội ổn định. Đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới và khủng hoảng tài
chính trong khu vực hiện nay, những lợi thế so sánh trên đây của Việt Nam
lại càng phát huy tác dụng nhiều hơn trong việc thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài đặc biệt là dòng vốn đầu tư từ Nhật Bản.
Triển vọng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam càng được khẳng định rõ
hơn, khi chúng ta nghe được lời nhận xét về môi trường đầu tư của Việt
5
Khoa Kinh TÕ vµ Kinh Doanh Quèc TÕ
1
Lª V¨n Hinh – KDQT 40
LuËn V¨n Tèt NghiÖp
Nam từ chính những người Nhật. Trong một cuộc hội thảo tại Tokyo, ông
Numata, cố vấn Hiệp hội quốc tế hoá các doanh nghiệp vừa và nhỏ của
Nhật Bản đã đề cập đến những nguên nhân khiến các doanh nghiệp Nhật
Bản đầu tư vào Việt Nam.Theo ông, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong
những năm gần đây giảm là do nguyên nhân từ phía các nhà đầu tư, ví dụ
như do kinh tế Nhật Bản trì trệ, cộng thêm khủng hoảng tài chính trầm

trọng ở châu á, làm cho hoạt động đầu tư của Nhật Bản và các nền công
nghiệp mới nổi lênở châu á(NIEs) giảm sút, không phải do thị trường Việt
Nam kếm hấp dẫn. Năm 1999 có 298 dự án đầu tư vào Việt Nam, ở mức
cao, điều này cho thấy thị trường Việt Nam vẫn được quan tâm nhiều. Ông
Namuta cho rằng Việt Nam hiện nay đang có những ưu thế từng xuất hiện
ở Nhật Bản trong thập kỷ 60, đó là hoạt động kinh tế sôi động, tiền công lao
động thấp giá thành rẻ, cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện, có nhiều cơ hội làm
ăn và có nhiều triển vọng. Các nhà đầu tư nước ngoài có thể tìm thấy ở Việt
Nam những gì thuận lợi cho công cuộc kinh doanh mà ở Nhật Bản không
còn nữa. từ đó họ rút ra kết luận: muốn vào thị trường Việt Nam, hãy vào
ngay từ bây giờ. Ông còn nhận xét nền kinh tế Việt Nam tuy bị ảnh hưởng
bợi cuộc khủng hoảng tài chính châu á nhưng kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục
tăng trưởng điều này đã tạo một niềm tin lớn cho các nhà đầu tư nước
ngoài nói chung và nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng. Và ông cũng nhận xét là
có rất nhiều xí nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam làm ăn đã thành công. Theo
ông Numata, kinh tế Nhật Bản trong thập kỷ 90 đứng trước 4 điểm bất lợi:
đồng yên cao, chi phí lao động cao, sự mệt mỏi của tiền tệ trong nước, phải
cạnh tranh với ASEAN và Trung Quốc. Trong tình hình đó, Nhật Bản đã
chọn đầu tư vào Việt Nam, nơi có tài nguyên phong phú, chi phí lao động rẻ
và trình độ lao động cao, tiềm năng thị trường lớn, vị trí địa lý phù hợp. Giờ
đây, các doanh nghiệp Nhật Bản vẫn đánh giá cao và quan tâm đầu tư vào
6
Khoa Kinh TÕ vµ Kinh Doanh Quèc TÕ
1
Lª V¨n Hinh – KDQT 40
LuËn V¨n Tèt NghiÖp
thị trường Việt Nam. Ông đặc biệt nhấn mạnh tình hình chính trị – xã hội
Việt Nam rất ổn định đã tạo điều kiện để các nhà đầu tư nước ngoài yên
tâm đầu tư vào Việt Nam.
Theo đánh giá của ông Shoichi Kameyama, chủ tịch Phòng thương mại

Nhật Bản tại Philippin thì Việt Nam là nước có môi trường đầu tư mang
tính cạnh tranh cao hơn nhiều so với Philippin, môi trường pháp lý tốt hơn
đồng thời đưa ra cho các nhà đầu tư những ưu đãi chắc chắn, đáng tin cậy
hơn. Do vậy, trong 6 tháng đầu năm 2001, nhiều nhà đầu tư Nhật Bản ban
đầu dự định đến làm ăn ở Philippin, cuối cùng họ đẫ chuyển sang Việt Nam,
nơi có chi phí sản xuất thấp hơn nhiều và sản phẩm sản xuất ra có chất
lượng không hề thua kém.
Chính những nhận xét thực tế của người Nhật trên đây càng khẳng định
chắc chắn hơn triển vọng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam sẽ ngày một
tốt đẹp hơn.Việt Nam đã thực sự là nước thu hút vốn đầu tư nước ngoài nói
chung, đầu tư Nhật Bản nói riêng mạnh nhất trong khu vực.
II. Một số giải pháp nhằm thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam.
Để thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa
đất nước trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 chúng ta cần thực
hiện rất nhiều chiến lược, trong đó có chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Theo kinh nghiệm của những nước đi trước thì vốn đầu tư
nước ngoài đóng góp rất lớn vào quá trình đi lên công nghiệp hoá của quốc
gia đó. Vì vậy, để đạt được mục tiêu đưa đất nước trở thành một nước công
nghiệp phát triển vào năm 2020 thì nguồn vốn FDI là rất cần thiết. Qua
thời gian đầu của quá trình thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, chúng ta luôn quan tâm đến viêc cải thiện chính sách thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong thời gian này, chúng ta đã đạt được
những thành công nhất định, nhiều nhà đầu tư lớn trên thế giới đã đến đầu
7
Khoa Kinh TÕ vµ Kinh Doanh Quèc TÕ
1
Lª V¨n Hinh – KDQT 40
LuËn V¨n Tèt NghiÖp
tư tại Việt Nam và đã gặt hái được những thành công, trong số những nhà
đầu tư nước ngoài đó không thể không kể đến các nhà đầu tư Nhật Bản.

Các nhà đầu tư Nhật Bản luôn được xếp vào danh sách các nhà đầu tư lớn
nhất đầu tư vào Việt Nam. Điều này chứng tỏ rằng vốn đầu tư trực tiếp của
Nhật Bản đóng góp rất lớn vào việc thực hiện công cuộc CNH, HĐH của
nước ta. Trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện chính sách
đầu tư nhằm nâng cao việc thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và đặc
biệt là đầu tư trực tiếp của Nhật Bản.
Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống đầu tư trực tiếp của Nhật
Bản vào các nước ASEAN – những nước đã rất thành công trong việc thu
hút vốn FDI nói chung và Nhật Bản nói riêng để phục vụ cho mục đích CNH
của mình, nghiên cứu về những chính sách nhằm thu hút vốn FDI của các
nước ASEAN, tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị về giải pháp nhằm thu
hút FDI nói chung và FDI của Nhật Bản nói riêng đối với Việt Nam cả về
phía Chính phủ và phía các doanh nghiệp Việt Nam.
1.Về phía Chính phủ:
1.1. Cần có sự nhận thức đầy đủ và nhất quán về nội dung, tính đặc thù của
FDI và tầmm quan trọng nhiều mặt của FDI đối với công cuộc phát triển
kinh tế của ta hiện nay cũng như trong những năm tới. Đặc biệt cần đánh
giá đúng vai trò FDI từ Nhật Bản, xem đó là đầu nguồn của dòng thác FDI
vào châu á nòi chung và vào Việt Nam nói riêng.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài và Việt Nam trải qua hơn 10 năm thực
hiện nhưng sự thực vẫn là lĩnh vực rất mới; quan niệm của chúng ta về FDI,
kinh nghiệm tiếp nhận quản lý FDI cũng còn nhiều bất cập. Vì vậy cần có
thông tin, tổ chức tìm hiểu về hoạt động FDI, trong đó có FDI của Nhật Bản.
8
Khoa Kinh TÕ vµ Kinh Doanh Quèc TÕ
1
Lª V¨n Hinh – KDQT 40
LuËn V¨n Tèt NghiÖp
FDI có những đặc điểm khác biệt cơ bản đối với các hình thức đầu tư quốc
tế khác không chỉ ở quyền điều hành đối với tài sản đầu tư mà nó còn là

hinhf thức chuyển giao lớn về vốn và công nghệ… FDI không chỉ có tác dụng
tích cực với nước đầu tư cũng như nước nhận đầu tư mà nó còn có tác
động tiêu cực, nhất là với nước nhận đầu tư. Đối với chung ta, nước nhận
đầu tư, sẽ có lợi như gia tăng nguồn vốn; tiếp nhận đượccông nghệ kỹ
thuật và quản lý tiên tiến; khai thác, phát huy được tiềm năng kinh tế của
các vùng, ngành qua đó giải quyết dược lao động, tăng thu nhập cũng như
nâng cao năng lực cạnh tranh góp phần vào cải thiện cán cân thanh toán…
Gắn liền với nó là nguy cơ phụ thuộc nước ngoài về công nghệ, nguồn vốn,
chịu sự can thiệp của bên ngoài đối với các quyết sách về kinh tế. Đáng chú
ý nữa là những tác động về văn hoá - xã hộicó thể làm thay đổi các giá trị
chuẩn mực xã hội, nhất là với nước đang hướng tới phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa thì càng cần chú ý đéen tác động về mặt này.
Nhận thức về tác động hai mặt của FDI cho phép ta có những quyết
sách mạnh dạn, chính xác trong quá trình thu hút FDI. Đi cùng với những
chính sách, biện pháp thu hút cần thiết lập những bộ luật phù hợp với
thông lệ quốc tế để hạn chế tác động tiêu cực.
Nhật Bản là một trong ba nhà đầu tư quốc tế hàng đầu trên thế giới.
Nguồn FDI của Nhật đổ vào khu vực châu á ngày càng lớn. chúng ta cần
nhận thức rõ vai trò đầu nguồn của dòng FDI Nhật. Vì vậy, cần có chính
sách tổng thể trong quan hệ với Nhật mang tính dài hạn, xem Nhật là đối
tác chiến lược của Việt Nam trong những năm tới đây. Chúng ta cần có
những nghiên cứu tìm hiểu sâu về cách thức làm ăn của người Nhật đồng
thời kết hợp những hoạt động xúc tiến đầu tư, trong đó chú ý thông tin về
thị trường của Việt Nam cho các doanh nhân Nhật Bản.
9
Khoa Kinh TÕ vµ Kinh Doanh Quèc TÕ
1
Lª V¨n Hinh – KDQT 40
LuËn V¨n Tèt NghiÖp
1.2. Đẩy mạnh cải thiện cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt nhằm

góp phần nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam.
Trong cuộc điều tra hàng năm của ngân hàng xuất – nhập khẩu Nhật
Bản thì vấn đề cơ sở hạ tầng xã hội nghèo nàn của Việt Nam là vấn đề nổi
cộm trong môi trường đầu tư của nước ta. Để gia tăng tính cạnh tranh
trong việc thu hút FDI nói chung, của Nhật Bản nói riêng, không thể không
tập trung nâng cấp cơ sở hạ tầng.
Trong phát triển cơ sở hạ tầng không chỉ chú ý vào phần “cứng” như
xây dựng đường sá, kho tàng bến bãi, thông tin liên lạc… mà phải chú ý cả
phần cơ sở hạ tầng “mềm”, trong đó đặc biệt chú trọng đào tạo nguồn nhân
lực. Thực tế có không ít các công ty Nhật Bản phàn nàn gặp khó khăn trong
việc lựa chọn nhân sự đủ năng lực ở Việt Nam.
Hiện nay, chúng ta đã xây dựng được những khu chế xuất, khu công
nghiệp. Nhưng trong số đó chỉ có số ít là hoạt động có hiệu quả, trong việc
xây dựng những khu chế xuất, khu công nghiệp, chúng ta đã xây dựng thiếu
đồng bộ, tràn lan không phù hợp với yêu cầu của các nhà đầu tư, do đó, đã
không thu hút được họ. Chúng ta nên xây dựng những khu chế xuất, khu
công nghiệp trọng điểm. Trong điều kiện hạ tầng xã hội còn yếu, lại chưa
đều giữa các vùng thì cần có qui hoạch phù hợp về phát triển ngành, lĩnh
vực. Không cứ nhất thiết tất cả các tỉnh phải có đầu tư nước ngoài. Cần
dựa trên cơ sở thế mạnh của từng vùng, tỉnh mà kêu gọi đầu tư nước ngoài
nói chung, của Nhật Bản nói riêng.
Cần tạo sự bình đẳng về mọi mặt giữa các công ty trong và ngoài
nước, giữa người Việt Nam với người nước ngoài.Trong điều kiện dịch vụ
kếm chúng ta lại thi hành chính sách giá phân biệt và quá cao đối với
ngưoừi nước ngoài quả là bất hợp lý, khong những không khuyến khích
10
Khoa Kinh TÕ vµ Kinh Doanh Quèc TÕ
1
Lª V¨n Hinh – KDQT 40

×