Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

ĐỀ TÀI KIỂM TOÁN-Lập chương trình kiểm toán trong kiểm toán tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.15 KB, 29 trang )


-

3
-
Lời mở đầu
Hiện nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế mà đặc biệt là của thị trường chứng
khoán, ngành kiểm toán của nước ta cũng có những bước phát triển nhanh chóng. Đó là
sự phát triển về cả chất lượng và số lượng các công ty kiểm toán. Tuy nhiên sự phát triển
nhanh chóng như vậy cũng đặt ra câu hỏi về chất lượng của các cuộc kiểm toán. Không ít
các công ty vì mục đích tiết kiệm chi phí, nâng cao lợi nhuận hoặc là vì giới hạn trình độ
của nhân viên mà đã không thực hiện một cuộc kiểm toán có chất lượng. Một trong
những yếu tố ảnh hưởng lớn tới chất lượng một cuộc kiểm toán đó là chương trình kiểm
toán. Muốn một cuộc kiểm toán có chất lượng tốt thì trước hết kiểm toán viên cần lập ra
một chương trình kiểm toán hiệu quả, bao phủ được toàn bộ rủi ro, phạm vi kiểm toán.
Nếu phân loại theo đối tượng kiểm toán thì kiểm toán được chia thành ba loại là kiểm
toán tài chính, kiểm toán hoạt động và kiểm toán liên kết - là kết hợp của hai loại trên.
Trong lập chương trình kiểm toán cho kiểm toán hoạt động, kiểm toán viên phụ thuộc
khá nhiều vào hoạt động cụ thể cần kiểm toán cũng như cần một bộ tiêu chuẩn tiêu chí
riêng để đánh giá. Do đó lập chương trình kiểm toán trong kiểm toán hoạt động mang
nặng tính đặc thù. Với lý do như vậy em xin chọn đề tài "Lập chương trình kiểm toán
trong kiểm toán tài chính" làm đề tài cho bài đề án môn học của mình.
Bài đề án gồm ba chương:
Chương I: Lý luận chung về lập chương trình kiểm toán trong kiểm toán tài chính
Chương II: Thực trạng về công tác lập chương trình kiểm toán trong kiểm toán tài
chính của các công ty kiểm toán tại Việt Nam
Chương III: Nhận xét và các giải pháp đề xuất nhằm nâng cao chất lượng lập
chương trình kiểm toán trong kiểm toán tài chính
Do thời gian và kiến thức bản thân có hạn nên trong bài đề án sẽ có nhiều sai sót. Em
mong rằng sẽ nhận được ý kiến đóng góp bổ sung của thầy cô nhằm làm cho bài đề án
trở nên hoàn thiện hơn.




-

4
-
Chương I: Khái quát lý luận chung về lập chương trình kiểm toán
trong kiểm toán tài chính
1.1. KHÁI NIỆM, CẤU TRÚC VÀ VAI TRÒ CỦA CHƯƠNG TRÌNH
KIỂM TOÁN
1.1.1. Khái niệm chương trình kiểm toán
Để có thể thực hiện tốt bất cứ công việc nào, chúng ta cũng cần có sự chuẩn bị
trước những bước công việc phải làm cho công việc đó. Đối với công việc kiểm
toán cũng vậy, để thực hiện tốt công việc kiểm toán viên cần xây dựng một
chương trình kiểm toán đầy đủ và hiệu quả để hướng dẫn các bước công việc cần
phải làm trong cuộc kiểm toán.
Như vậy hiểu một cách đơn giản "Chương trình kiểm toán là những chỉ dẫn
cho kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán tham gia vào công việc kiểm toán và là
phương tiện ghi chép theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện kiểm toán. Chương
trình kiểm toán chỉ dẫn mục tiêu kiểm toán từng phần hành, nội dung, lịch trình
và phạm vi của các thủ tục kiểm toán cụ thể và thời gian ước tính cần thiết cho
từng phần hành."
Hay còn có một định nghĩa về chương trình kiểm toán như sau: "Chương trình
kiểm toán là chi tiết công việc cần thực hiện và thời gian hoàn thành đối với các
khoản mục hoặc bộ phận cần kiểm toán. Chương trình kiểm toán bao gồm các thủ
tục kiểm toán cụ thể bằng các thử nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản." Ở đây
định nghĩa này chú trọng tới nội dung của chương trình kiểm toán là các thủ tục
kiểm toán bao gồm thủ tục kiểm soát và các thủ tục cơ bản.
1.1.2. Cấu trúc của chương trình kiểm toán
Như trong phần trên đã trình bày, chương trình kiểm toán bao gồm các thủ tục

kiểm toán cụ thể bằng các thử nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản. Các thủ
tục kiểm toán đó có thể phân thành ba loại trắc nghiệm: trắc nghiệm công việc,
trắc nghiệm phân tích và trắc nghiệm trực tiếp số dư. Do vậy cấu trúc và cũng là

-

5
-
nội dung chính của một chương trình kiểm toán là ba loại trắc nghiệm kiểm toán
trên. Các trắc nghiệm trên được chia theo các chu kỳ nghiệp vụ và các khoản mục
trên Báo cáo tài chính.
Ví dụ một chương trình kiểm toán được chia theo thứ tự các phần hành sau:
DANH MỤC PHẦN HÀNH
Phần tổng hợp Tham chiếu: A
Hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ. B
Vốn bằng tiền. C
Các khoản đầu tư ngắn hạn. D
Các khoản phải thu. E
Hàng tồn kho. F
Các tài sản lưu động khác. G
TSCĐ hữu hình. H
TSCĐ vô hình và TSCĐ khác. I
Các khoản đầu tư dài hạn khác. K
Chi phí XDCB dở dang. L
Cầm cố, ký quỹ, ký cược dài hạn. M
Các khoản phải trả ngắn hạn. N
Các loại thuế. O
Vay và nợ dài hạn. P
Nguồn vốn, quỹ và lợi nhuận chưa phân phối. Q
Nguồn kinh phí. R


-

6
-
Doanh thu. S
Giá vốn hàng bán. T
Chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. U
Thu nhập khác. V
Chi phí khác. W
Khác. X
Cuối mỗi phần hành trên sẽ là các kết luận về phần hành đó do kiểm toán viên
thực hiện nêu ra, ý kiến soát xét của kiểm toán viên soát xét, các kiến nghị và các
vấn đề cần được theo dõi tiếp trong kì kiểm toán lần sau.
Trắc nghiệm công việc: là cách thức và trình tự rà soát các nghiệp vụ hay hoạt
động cụ thể trong quan hệ với sự tồn tại và hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ
trước hết là hệ thống kế toán.
Trắc nghiệm phân tích: là cách thức xem xét các mối quan hệ kinh tế và xu
hướng biến động của các chỉ tiêu kinh tế thông quan việc kết hợp giữa đối chiếu
trực tiếp, đối chiếu lôgic, cân đối giữa các trị số của các chỉ tiêu hoặc bộ phận
cấu thành chỉ tiêu. Các trắc nghiệm phân tích được thiết kế để đánh giá tính hợp lý
chung của các số dư tài khoản đang được kiểm toán và từ đó khoanh vùng các
khu vực có rủi ro cao, có xu hướng sai phạm, từ đó xây dựng các trắc nghiệm trực
tiếp số dư.
Trắc nghiệm trực tiếp số dư: là cách thức kết hợp các phương pháp cân đối,
phân tích, đối chiếu trực tiếp với kiểm kê và điều tra thực tế để xác định độ tin cậy
của các số dư cuối kỳ ở Sổ cái ghi vào Bảng Cân đối tài sản hoặc vào Báo cáo Kết
quả kinh doanh.
Với mỗi loại hình trắc nghiệm kiểm toán trên lại được quy định chi tiết thành
bốn nội dung: thủ tục kiểm toán được sử dụng, qui mô mẫu chọn, khoản mục được

chọn và thời gian thực hiện.

-

7
-
Các thủ tục kiểm toán được sử dụng: là những hướng dẫn chi tiết về quá trình
thu thập một loại bằng chứng kiểm toán cá biệt ở thời điểm nào đó trong khi tiến
hành kiểm toán.
Qui mô mẫu chọn: Do đối tượng kiểm toán bao gồm nhiều loại nghiệp vụ khác
nhau với khối lượng nghiệp vụ phát sinh lớn. Bên cạnh đó những người sử dụng
thông tin tài chính thì lại đòi hỏi kiểm toán viên phải có kết luận chính xác về
thông tin đó. Vì vây, kiểm toán viên phải tiến hành chọn mẫu theo phương pháp
khoa học để chọn được mẫu có tính đại diện, phản ánh được đặc trưng cơ bản của
tổng thể.
Khoản mục được chọn: Khi quyết định được số lượng mẫu thì lại phải chọn
được mẫu có tính đại diện.
Thời gian thực hiện: Xác định thời điểm bắt đầu và kết thúc các thủ tục kiểm
toán đã đề ra.
Cách thức để thiết kế các trắc nghiệm trên sẽ được trình bày ở phần sau.
1.1.3. Vai trò của chương trình kiểm toán
Vai trò chính của một chương trình kiểm toán là giữ được mối liên hệ trong
công việc giữa các kiểm toán viên. Công việc được chia nhỏ cho từng cá nhân
kiểm toán viên dựa vào khả năng và trình độ chuyên môn của họ. Việc chia như
vậy sẽ khiến công việc của kiểm toán viên không bị trùng lắp mà vẫn bao phủ
được toàn bộ công việc kiểm toán. Hơn nữa trưởng nhóm kiểm toán có thể quản lý
được công việc của từng kiểm toán viên có kinh nghiệm cũng như giúp các trợ lý
kiểm toán không bị lúng túng khi mới bắt đầu công việc.
Thêm nữa, khi thực hiện kiểm toán do có giới hạn về thời gian, không gian, chi
phí kiểm toán… nên không bao giờ kiểm toán viên có thể thực hiện kiểm tra đối

với tất cả các chi tiết trong báo cáo tài chính của công ty. Như là kiểm toán viên
không thể thực hiện thủ tục gửi thư xác nhận để kiểm tra sự chính xác cho số dư
của tất cả khách hàng trên tài khoản 131… Như vậy một chương trình kiểm toán

-

8
-
được lập tốt sẽ giúp kiểm toán viên giảm bớt số lượng các trắc nghiệm kiểm toán
cần thực hiện tới mức ít nhất mà vẫn đảm bảo bao phủ được phần lớn rủi ro. Qua
đó giúp tiết kiệm chi phí kiểm toán, nâng cao hiệu quả kiểm toán.
Và cuối cùng chương trình kiểm toán là bằng chứng để chứng minh các thủ tục
kiểm toán đã thực hiện. Thông thường sau khi hoàn thành một cuộc kiểm toán,
kiểm toán viên ký tên hoặc viết tắt lên chương trình kiểm toán liền ngay với thủ
tục kiểm toán vừa hoàn thành.
1.2. QUY TRÌNH LẬP CHƯƠNG TRÌNH KIỂM TOÁN
1.2.1. Khảo sát thu thập thông tin về đơn vị được kiểm toán
1.2.1.1. Thu thập thông tin về đơn vị được kiểm toán
Thu thập thông tin là một bước rất quan trọng trong lập chương trình kiểm
toán. Kiểm toán viên cần phải có một sự hiểu biết chính xác và đầy đủ về các hoạt
động, chính sách, hệ thống kiểm soát nội bộ… thì mới có thể xây dựng lên một
chương trình kiểm toán phù hợp. Tùy thuộc vào loại hình tổ chức đơn vị và số lần
kiểm toán trước đó, các thông tin cần thu thập phục vụ cho việc lập chương trình
kiểm toán bao gồm:
 Thông tin về tổ chức hoạt động của đơn vị
Các thông tin cần thu thập bao gồm:
Thứ nhất: quá trình hình thành và hoạt động của đơn vị. Nhằm tìm hiểu về quá
trình hình thành và những thay đổi về tổ chức, mô hình, tính chất hoạt động của
đơn vị.
Thứ hai: mục tiêu hoạt động chủ yếu, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của

đơn vị.
Thứ ba: đặc thù và phương thức hoạt động. Tìm hiểu phạm vi, nhiệm vụ được
phép hoạt động; những nghiệp vụ kinh doanh chính; các dịch vụ; qui trình nghiệp
vụ; chế độ kế toán và phương pháp xử lý thông tin kế toán Kiểm toán viên phải

-

9
-
tìm hiểu được những đặc thù về hoạt động của tổ chức để xác định các lợi thế hoặc
bất lợi riêng có của tổ chức, từ đó xác định phương pháp kiểm toán thích hợp trong
chương trình kiểm toán.
Thứ tư : điều lệ tổ chức và hoạt động; quy chế quản lý tài chính, tín dụng, các
văn bản pháp quy khác có liên quan đến quản lý và phân cấp quản lý tài chính, kế
toán, tín dụng, hoạt động. Kiểm toán viên phải nghiên cứu kỹ các văn bản này để
nắm được những đặc thù riêng có của đơn vị về cơ chế chính sách để đưa ra những
chỉ đạo nhất quán trong đoàn kiểm toán ngay từ khâu lập kế hoạch kiểm toán tổng
quát.
Thứ năm: những thay đổi hiện tại hoặc sắp tới về công nghệ, loại hình, quy
trình hoạt động. Kiểm toán viên cần thu thập thông tin về tình hình triển khai và
dự định (kế hoạch, chiến lược) triển khai của tổ chức trong việc cải tiến công nghệ,
quy trình hoạt động, dịch vụ, sản phẩm mới có thể cung cấp trong tương lai nhằm
đánh giá sơ bộ về tính hoạt động liên lục và lâu dài của tổ chức.
Thứ sáu: một số thuận lợi, khó khăn chủ yếu ảnh hưởng đến tình hình hoạt
động và tình hình tài chính của đơn vị. Thông qua việc thu thập các thông tin về
tình hình môi trường kinh tế - xã hội, môi trường hoạt động của tổ chức và các
chính sách, luật pháp, kiểm toán viên sẽ đánh giá sơ bộ những thuận lợi và khó
khăn ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến tình hoạt động và báo cáo tài chính của
tổ chức.
Thứ bảy: một số chỉ tiêu chủ yếu về tình hình hoạt động trong năm được kiểm

toán và một số năm trước đó (theo số báo cáo của đơn vị). Phải chi tiết theo từng
loại hình đơn vị, ví dụ như:
Đối với đơn vị được kiểm toán là các tổ chức ngân hàng:
Tổng nguồn vốn, trong đó có chi tiết nguồn vốn huy động; tổng dư nợ cho vay,
trong đó có chi tiết phân loại nợ, nợ xấu; nguyên giá tài sản cố định; tổng doanh
thu, thu nhập; tổng chi phí; tổng lợi nhuận trước thuế; các khoản phải nộp ngân
sách nhà nước; số lao động bình quân; thu nhập bình quân…

-

10
-
Đối với các tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm:
Tổng nguồn vốn kinh doanh, trong đó chi tiết nguồn vốn nhà nước, nguồn vốn
khác; nguyên giá tài sản cố định; thu phí bảo hiểm gốc, trong đó chi tiết phí bảo
hiểm gốc giữ lại; doanh thu hoạt động tài chính, doanh thu khác; chi phí bồi
thường, chi phí hoạt động môi giới; chi phí quản lý, bán hàng; chi phí hoạt động
tài chính; chi phí về trích lập dự phòng…

 Các thông tin về hệ thống kiểm soát nội bộ
Các thông tin cần thu thập bao gồm:
Thứ nhất: các nhân tố kiểm soát chung như là môi trường luật pháp quy định
đối với tổ chức được kiểm toán, các chính sách, quy chế, cơ chế quản lý kinh
doanh, quản lý tài chính - kế toán và tín dụng; các quy định về quy trình nghiệp
vụ mà đơn vị đang thực hiện. Ngoài ra, cần thu thập các văn bản có liên quan và
nghiên cứu kỹ từng văn bản để xác định những nội dung cơ bản, đặc thù của mỗi
văn bản.
Thứ hai: bộ máy kiểm soát nội bộ. Đó là về cơ cấu tổ chức bộ máy và tổ chức
kinh doanh, hoạt động, chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận. Kiểm toán viên cần
nghiên cứu điều lệ tổ chức hoạt động và các văn bản phân cấp trong nội bộ của

đơn vị được kiểm toán để xác định được đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ
phận, từ đó có kế hoạch, phương pháp, biện pháp chỉ đạo đoàn kiểm toán kiểm tra,
đánh giá việc thực hiện chức trách nhiệm vụ của từng bộ phận (tốt, chưa tốt, không
tốt, không đúng thẩm quyền: vượt hoặc chưa hết trách nhiệm…), đánh giá tính phù
hợp, hiệu lực, hiệu quả của các quy chế nội bộ.
Thứ ba: hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin, công nghệ ứng dụng trong việc xử
lý, quản lý các dịch vụ, hoạt động. Kiểm toán viên cần tìm hiểu các hệ thống thông
tin, cơ sở dữ liệu hoạt động và tạo lập báo cáo tài chính bao gồm: quá trình tạo lập,
kiểm soát, phê duyệt, chia sẻ, lưu trữ, tiếp cận… thông tin của tổ chức (hoạt động

-

11
-
của các tổ chức tài chính ngân hàng có mức độ ứng dụng công nghệ thông tin rất
rộng rãi, đặc biệt là các cơ sở dữ liệu giao dịch, khách hàng…).
Thứ tư: tổ chức và hoạt động của bộ máy kiểm toán nội bộ (nếu có bộ phận
kiểm toán nội bộ). Cần thu thập các thông tin sau: các quy định về tổ chức, nhân
sự, các quy định, quy chế, quy trình, hướng dẫn, thủ tục (cẩm nang) hoạt động của
kiểm toán nội bộ; các kết quả (báo cáo, biên bản, phát hiện…) của kiểm toán nội
bộ trong niên độ được kiểm toán và những năm gần nhất. Kiểm toán viên cần
nghiên cứu các văn bản này để xác định vai trò, vị trí của kiểm toán nội bộ trong
cơ cấu tổ chức của đơn vị; đánh giá sự quan tâm của người đứng đầu đơn vị đối
với bộ phận kiểm toán nội bộ; xác định tính độc lập, khách quan của kiểm toán nội
bộ; chức năng, nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ.
1.2.1.2. Phương pháp thu thập thông tin
Để có thể thu thập được các thông tin trên, kiểm toán viên sẽ sử dụng các cách
thức sau: nghiên cứu các hồ sơ kiểm toán trước đó (các năm trước); trực tiếp tiếp
xúc, phỏng vấn, trao đổi với các nhà quản lý, các cán bộ có trách nhiệm của tổ
chức đơn vị; trực tiếp đến quan sát quá trình hoạt động kinh doanh tại hội sở chính

và một số đơn vị, chi nhánh trực thuộc; thông qua các cơ quan quản lý Nhà nước
chuyên ngành, hiệp hội nghề nghiệp ; thông qua các kênh thông tin khác như
mạng Internet, báo chí
Trong quá trình thu thập thông tin, kiểm toán viên cần lưu ý các vấn đề sau: các
phát hiện chủ yếu của kiểm toán và thanh tra kiểm tra từ bên ngoài; vấn đề đã
được thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng trong năm tài chính gần nhất;
những vấn đề cần chú ý trong hoạt động và quản lý tài chính, kế toán của tổ chức
thông qua các thông tin khác (báo chí, tố cáo ).
1.2.2. Đánh giá ban đầu về hệ thống kiểm soát nội bộ
Sau khi đã phân loại thông tin thu thập được, tiến hành nhận xét, đánh giá sơ bộ
và rút ra các ý kiến về mức độ tin cậy của hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm các
nội dung sau: tính đầy đủ và hiệu lực của bộ máy kiểm soát nội bộ; tính đầy đủ và

-

12
-
hiệu lực của những quy trình kiểm soát nội bộ cụ thể; hoạt động của bộ máy kiểm
soát nội bộ; những hạn chế của hệ thống kiểm soát nội bộ.
1.2.3. Xác định trọng yếu và rủi ro kiểm toán
Nếu ở các bước trên, kiểm toán viên mới chỉ thu thập được thông tin mang tính
khách quan về khách hàng thì ở bước này kiểm toán viên sẽ căn cứ vào các thông
tin thu thập được để đánh giá, nhận xét nhằm đưa ra một chiến lược, kế hoạch
kiểm toán phù hợp.
 Đánh giá tính trọng yếu
Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ và bản chất của các sai phạm (kể cả bỏ sót)
của các thông tin tài chính hoặc là đơn lẻ, hoặc là từng nhóm mà trong bối cảnh cụ
thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì không thể chính xác hoặc là sẽ
rút ra những kết luận sai lầm. Kiểm toán viên cần phải đánh giá mức độ trọng yếu
để ước tính mức độ sai sót của báo cáo tài chính có thể chấp nhận được, xác định

phạm vi của cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh hưởng của các sai phạm lên báo cáo
tài chính để từ đó xác định bản chất, thời gian và phạm vi các khảo sát kiểm toán.
Ở đây kiểm toán viên cần đánh giá mức độ trọng yếu cho toàn bộ báo cáo tài chính
và phân bổ mức đánh giá đó cho từng khoản mục trên báo cáo tài chính.
 Đánh giá rủi ro kiểm toán
Trên cơ sở mức trọng yếu được xác định cho toàn bộ báo cáo tài chính và phân
bổ cho từng khoản mục, kiểm toán viên cần đánh giá khả năng xảy ra sai sót trọng
yếu ở mức toàn bộ báo cáo tài chính cũng như là đối với từng khoản mục để phục
vụ cho việc thiết kế chương trình kiểm toán. Công việc này gọi là đánh giá rủi ro
kiểm toán.
Để đánh giá rủi ro kiểm toán (DAR), kiểm toán viên cần đánh giá ba loại rủi ro
là: rủi ro tiềm tàng (IR), rủi ro kiểm soát (CR) và rủi ro phát hiện (DR). Khi đó rủi
ro kiểm toán sẽ được xác định thông qua công thức: DAR = IR x CR x DR. Các

-

13
-
loại rủi ro này có thể được đánh giá cụ thể bằng các con số theo tỷ lệ phần trăm
hoặc đánh giá khái quát theo ba mức: thấp, trung bình, cao.
1.2.4. Lập kế hoạch kiểm toán tổng thể
Sau khi đã thu thập thông tin về đơn vị được kiểm toán, đánh giá hệ thống kiểm
soát nội bộ, đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán, kiểm toán viên sẽ tiến hành lập
kế hoạch kiểm toán tổng thể. Việc lập kế hoạch kiểm toán tổng thể này được thực
hiện chủ yếu qua cụ thể hóa mục tiêu kiểm toán và phạm vi kiểm toán. Việc cụ thể
hóa này trước hết ở nên xác định những công việc cụ thể phải làm và trên cơ sở đó
lượng hóa quy mô từng việc và xác định thời gian kiểm toán tương ứng. Để thực
hiện được cả hai quá trình đó, cần thiết không chỉ cụ thể hóa và chính thức hóa
mục tiêu và phạm vi kiểm toán mà còn cần thiết xác định các nguồn thông tin có
thể có.

Mục tiêu kiểm toán là đích cần đạt tới đồng thời là thước đo kết quả kiểm toán
cho mỗi cuộc kiểm toán cụ thể. Mục tiêu kiểm toán có mục tiêu chung và mục tiêu
chung khác. Mục tiêu chung của kiểm toán cần phải gắn chặt với mục tiêu, yêu cầu
quản lý. Vì vậy, trước hết mục tiêu của kiểm toán phải tùy thuộc vào quan hệ giữa
chủ thể và khách thể kiểm toán, tùy thuộc vào loại hình kiểm toán.
Phạm vi kiểm toán là sự giới hạn về không gian và thời gian của đối tượng
kiểm toán. Phạm vi kiểm toán thường được xác định đồng thời với mục tiêu kiểm
toán và là một hướng cụ thể hóa mục tiêu này. Với một khách thể kiểm toán cần
xác định rõ đối tượng cụ thể của kiểm toán: bảng cân đối tài sản hay toàn bộ các
bảng khai tài chính, tất cả các loại nghiệp vụ hay là chỉ nghiệp vụ về kho, về két,
thậm chí phải chỉ rõ két nào, khi nào, hoặc thanh toán lương ở đơn vị cụ thể nào?
Cùng với việc cụ thể hóa về đối tượng, phải cụ thể hóa về khoảng thời gian thuộc
phạm vi kiểm toán (tháng, quý, năm). Trong điều kiện kiểm toán năm nay đầu tiên
phải xét phạm vi kiểm toán trong cả quan hệ với thời kỳ trước có liên quan do
thông tin tài chính của kỳ trước có ảnh hưởng đến số dư đầu kỳ này.

-

14
-
Có thể mục tiêu và phạm vi kiểm toán đã được xác định trước trong kế hoạch
kiểm toán hàng năm hoặc trong thư mời kiểm toán song trước khi thực thi một
cuộc kiểm toán, mục tiêu kiểm toán và phạm vi kiểm toán vẫn cần xác định rõ
ràng chuẩn xác.
Trên cơ sở xem xét mục tiêu và phạm vi kiểm toán, cần xác định số người,
kiểm tra phương tiện và xác định thời hạn thực hiện công tác kiểm toán. Số người
tham gia kiểm toán cần được xem xét cả về tổng số và cơ cấu. Tổng số người phải
tương xứng với quy mô kiểm toán. Cơ cấu của nhóm công tác phải thích ứng với
từng công việc cụ thể đã chính xác hóa mục tiêu, phạm vi ở trên. Chẳng hạn, công
việc kiểm tra chứng từ cần cân đối với số kiểm toán viên có kinh nghiệm nhất định

tương xứng với mức độ đầy đủ và tính phức tạp của nguồn tài liệu đã có; công việc
kiểm kê cần có đủ người hiểu biết các đối tượng cụ thể của kiểm kê như lương
thực, thực phẩm, xăng dầu, vải sợi… Tất nhiên, các thiết bị đo lường đã được
chuẩn bị cần được kiểm tra về chất lượng và cân đối lại về số lượng và chủng loại.
Do đó, nhiệm vụ của xây dựng kế hoạch kế hoạch kiểm toán là xác định số lượng,
cơ cấu, chất lượng về người và phương tiện tương ứng với khối lượng nhiệm vụ
kiểm toán.
Cũng tương tự, thời hạn thực hiện công tác kiểm toán cần ấn định cụ thể cả về
thời hạn chung cũng như thời hạn cần thiết và thời điểm thực hiện từng công việc
cụ thể đã phân công cho từng người theo quan điểm lôgic giữa các công việc cụ
thể.
Trên cơ sở tính toán cụ thể số người, phương tiện, thời gian kiểm toán cần xác
định kinh phí cần thiết cho từng cuộc kiểm toán. Công việc này đặc biệt chú ý đối
với kiểm toán độc lập trong quan hệ với khách hàng. Trình tự lập kế hoạch kiểm
toán cũng phải được thực hiện trên cơ sở trình tự lập kế hoạch nói chung từ xác
định cụ thể mục tiêu, phạm vi dự tính nhu cầu, cân đối sơ bộ, điều chỉnh theo
hướng tích cực. Kế hoạch sau khi dự kiến cần được thảo luận thu thập ý kiến của
các chuyên gia, của những người điều hành và trực tiếp thực hiện kế hoạch.

-

15
-
1.2.5. Lập chương trình kiểm toán
Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán tổng thể, kiểm toán viên sẽ xây dựng chương
trình kiểm toán cụ thể cho từng phần hành kiểm toán (kiểm toán chi tiết). Do mỗi
phần hành kiểm toán có đặc điểm, vị trí khác nhau nên phạm vi, loại hình kiểm
toán cũng khác nhau dẫn đến số lượng và thứ tự các bước kiểm toán khác nhau.
Kiểm toán viên cần xác nhận lại các thủ tục, trắc nghiệm cho các phần hành này.
 Thiết kế các trắc nghiệm công việc

Việc thiết kế các thủ tục kiểm toán của trắc nghiệm công việc thường tuân theo
phương pháp luận với 4 bước sau:
Bước 1: cụ thể hoá các mục tiêu kiểm soát nội bộ cho các khoản mục đang
được khảo sát.
Bước 2: nhận diện các quá trình kiểm soát đặc thù mà có tác dụng làm giảm rủi
ro kiểm soát của từng mục tiêu kiểm soát nội bộ.
Bước 3: thiết kế các thử nghiệm kiểm soát đối với từng quá trình kiểm soát đặc
thù nói trên.
Bước 4: thiết kế các trắc nghiệm công việc theo từng mục tiêu kiểm soát nội bộ
có xét đến nhược điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ và kết quả ước tính của thử
nghiệm kiểm soát.
Qui mô mẫu chọn: trong trắc nghiệm công việc để xác minh qui mô mẫu chọn
người ta thường dùng phương pháp chọn mẫu thuộc tính được sử dụng để ước tính
tỷ lệ của phần tử trong một tổng thể có chứa một đặc điểm hoặc thuộc tính được
quan tâm.
Khoản mục được chọn: sau khi xác định qui mô mẫu chọn, kiểm toán viên phải
xác định các phần tử cá biệt mang tính đại diện cao cho tổng thể.
Thời gian thực hiện: các trắc nghiệm công việc thường được tiến hành vào thời
điểm kết thúc năm. Các trắc nghiệm giữa năm được thực hiện để giúp kết thúc

-

16
-
cuộc kiểm toán ngay sau ngày lập Bảng cân đối kế toán vì đó cũng là mong muốn
của khách hàng và để giúp Công ty kiểm toán dàn đều công việc suốt trong năm.
Với các trắc nghiệm thực hiện vào giữa năm, các khảo sát bổ sung sẽ được thực
hiện ngay sau đó đối với các nghiệp vụ từ ngày giữa năm đến ngày kết thúc năm.
 Thiết kế các trắc nghiệm phân tính
Các trắc nghiệm phân tích được thiết kế để đánh giá tính hợp lý chung của các

số dư tài khoản đang được kiểm toán. Trên cơ sở kết quả của việc thực hiện các
trắc nghiệm phân tích đó, kiểm toán viên sẽ quyết định mở rộng hay thu hẹp các
trắc nghiệm trực tiếp số dư. Trong giai đoạn thực hiện kế hoạch kiểm toán, thủ tục
phân tích còn bao hàm những thủ tục phân tích chi tiết đối với số dư các tài khoản
và được thực hiện qua các bước sau:
Bước 1: xác định số dư tài khoản và sai sót tiềm tàng cần được kiểm tra.
Bước 2: tính toán giá trị ước tính của tài khoản cần được kiểm tra.
Bước 3: xác định giá trị chênh lệch có thể chấp nhận được.
Bước 4: xác định số chênh lệch trọng yếu cần được kiểm tra.
Bước 5: kiểm tra số chênh lệch trọng yếu.
Bước 6: đánh giá kết quả kiểm tra.
 Thiết kế các trắc nghiệm trực tiếp số dư
Việc thiết kế các trắc nghiệm trực tiếp số dư cho từng khoản mục trên báo cáo
tài chính được tiến hành theo phương pháp sau:
Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro đối với khoản mục đang kiểm toán.
Thông qua việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu và phân bổ mức ước
lượng này cho từng khoản mục trên báo cáo tài chính, kiểm toán viên sẽ xác định
mức sai số chấp nhận được cho từng khoản mục. Sai số chấp nhận được của mỗi
khoản mục càng thấp thì đòi hỏi số lượng bằng chứng kiểm toán thu thập càng

-

17
-
nhiều và do đó các trắc nghiệm trực tiếp số dư và nghiệp vụ sẽ được mở rộng và
ngựơc lại. Rủi ro tiềm tàng cho từng khoản mục càng cao thì số lượng bằng chứng
kiểm toán phải thu thập càng nhiều và do đó các trắc nghiệm trực tiếp số dư sẽ
được mở rộng và ngược lại.
Đánh giá rủi ro kiểm soát với chu trình kiểm toán được thực hiện.
Quá trình kiểm soát hiệu quả sẽ làm rủi ro kiểm soát đối với chu trình, do đó số

lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập trong các trắc nghiệm trực tiếp số dư và
nghiệp vụ sẽ giảm xuống, theo đó chi phí kiểm toán giảm xuống và ngược lại.
Thiết kế và dự đoán kết quả trắc nghiệm công việc và trắc nghiệm phân tích.
Thiết kế các trắc nghiệm trực tiếp số dư để thoả mãn các mục tiêu kiểm toán
đặc thù của khoản mục đang xem xét.
Các trắc nghiệm trực tiếp số dư được thiết kế dựa trên kết quả ước tính của trắc
nghiệm kiểm toán trước đó và chúng được thiết kế làm các phần: thủ tục kiểm
toán, qui mô chọn mẫu và thời gian thực hiện.
Các thủ tục kiểm toán: đây là phần khó nhất của toàn bộ quá trình lập chương
trình kiểm toán. Việc thiết kế các thủ tục này đòi hỏi những phán xét nghề nghiệp
quan trọng. Các thủ tục kiểm toán được thiết kế dựa trên các kỹ thuật thu thập
bằng chứng kiểm toán.
Qui mô mẫu: qui mô mẫu chọn dùng cho các trắc nghiệm chi tiết số dư được
xác định theo các phương pháp chọn mẫu thông dụng để ước tính sai số bằng tiền
trong tổng thể đang được kiểm toán từ đó chọn ra qui mô mẫu thích hợp.
Khoản mục được chọn: sau khi đã xác định được dung lượng mẫu, các kiểm
toán viên thường chọn mẫu ngẫu nhiên bằng bảng số ngẫu nhiên, chương trình
máy tính hoặc dùng phương pháp chọn mẫu hệ thống để xác định các phần tử đại
diện. Trong những trường hợp cụ thể, kiểm toán viên có thể sử dụng phương pháp
chọn mẫu phi xác suất để xác định các phần tử đại diện với chi phí thấp hơn cho
cuộc kiểm toán.

-

18
-
Thời gian thực hiện: phần lớn các trắc nghiệm trực tiếp số dư được thực hiện
vào thời điểm cuối kỳ. Tuy nhiên đối với các khách hàng muốn công bố các báo
cáo tài chính sớm ngay sau ngày lập Bảng cân đối tài sản, thì trắc nghiệm trực tiếp
số dư tốn nhiều thời gian sẽ được làm từ giữa kỳ và kiểm toán viên sẽ thực hiện

thực hiện các thủ tục kiểm toán bổ sung vào cuối năm để cập nhật các số dư đã
kiểm toán giữa kỳ thành số dư cuối kỳ.
1.3. CHƯƠNG TRÌNH KIỂM TOÁN MẪU
Để xây dựng được một chương trình kiểm toán kiểm toán viên cần thực hiện
qua các bước công việc như ở trên đã trình bày. Tuy nhiên trong thực tế khi xây
dựng chương trình kiểm toán cho một cuộc kiểm toán, kiểm toán viên phụ thuộc
rất nhiều vào chương trình kiểm toán mẫu của công ty kiểm toán.
Chương trình kiểm toán mẫu là một bộ mẫu các chương trình kiểm toán cho
các chu trình hoặc khoản mục được thiết kế sẵn để các kiểm toán viên tham khảo
và áp dụng cho việc lập chương trình kiểm toán cho cuộc kiểm toán của mình.
Chương trình kiểm toán mẫu có thể được thiết kế theo từng loại hình kiểm toán,
loại hình doanh nghiệp khách thể kiểm toán (như là doanh nghiệp sản xuất, dịch
vụ, thương mại…), hay là theo từng phần hành kiểm toán.
Thông thường các công ty kiểm toán đều có các bộ chương trình kiểm toán
mẫu cho riêng mình. Có thể là do tự xây dựng qua kinh nghiệm làm việc của các
kiểm toán viên trong công ty. Hoặc có thể là áp dụng chương trình kiểm toán của
đơn vị khác.
Ưu điểm của chương trình kiểm toán mẫu đó là hỗ trợ rất nhiều cho kiểm toán
viên trong quá trình lập chương trình kiểm toán cụ thể, giúp kiểm toán viên tiết
kiệm thời gian và chi phí. Bởi vì đó là sự đúc kết của các kiểm toán viên qua nhiều
năm làm việc. Tuy nhiên kiểm toán viên cũng không nên áp dụng máy móc các
chương trình kiểm toán mẫu này. Bởi vì đối với mỗi doanh nghiệp khác nhau thì
các yếu tố ảnh hưởng tới cuộc kiểm toán cũng khác nhau. Kiểm toán viên vẫn cần
thực hiện các bước xây dựng chương trình kiểm toán như trình bày ở trên, đồng

-

19
-
thời kết hợp với chương trình kiểm toán mẫu để đưa ra một chương trình kiểm

toán hiệu quả nhất.
Chương trình kiểm toán mẫu kiểm toán Vốn chủ sở hữu của Hội kiểm toán viên
hành nghề Việt Nam:
A. MỤC TIÊU
Đảm bảo rằng vốn chủ sở hữu, các quỹ, lợi nhuận chưa phân phối là có thực;
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp; đã được hạch toán chính xác, đầy đủ và
được trình bày phù hợp với các chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán hiện hành.
B. RỦI RO SAI SÓT TRỌNG YẾU CỦA KHOẢN MỤC

Các rủi ro trọng
yếu
Thủ tục kiểm toán
Người
thực
hiện
Tham
chiếu


C. THỦ TỤC KIỂM TOÁN

STT

Thủ tục
Người
thực
hiện
Tham
chiếu
I. Thủ tục chung

1
Kiểm tra các nguyên tắc kế toán áp dụng nhất quán với
năm trước và phù hợp với quy định của chuẩn mực và chế
độ kế toán hiện hành.

2
Lập bảng số liệu tổng hợp có so sánh với số dư cuối năm
trước. Đối chiếu các số dư trên bảng số liệu tổng hợp với
Bảng CĐPS và giấy tờ làm việc của kiểm toán năm trước
(nếu có).

II. Kiểm tra phân tích

-

20
-
1
So sánh, phân tích biến động của vốn chủ sở hữu, các quỹ
và lợi nhuận chưa phân phối năm nay so với năm trước.


2
Xác định tỉ lệ vốn đã góp so với vốn đăng ký trong giấy
chứng nhận đầu tư, đăng ký kinh doanh và tỷ trọng vốn
kinh doanh so với tổng tài sản, giải thích các biến động
(nếu có).


III. Kiểm tra chi tiết

1
Thu thập bảng tổng hợp tình hình tăng, giảm của tài khoản
vốn chủ sở hữu, các quỹ và lợi nhuận chưa phân phối trong
năm, đối chiếu với Sổ Cái.


2
Vốn chủ sở hữu:


2.1 Đối chiếu số phát sinh tăng/giảm vốn với các chứng từ, tài
liệu pháp lý có liên quan. Trong trường hợp góp vốn bằng
tài sản, kiểm tra các biên bản bàn giao tài sản, biên bản
đánh giá lại tài sản của các nhà đầu tư, hồ sơ mua tài sản
liên quan hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Lưu
ý kiểm tra tỷ giá áp dụng trong trường hợp góp vốn bằng
ngoại tệ.


2.2 Gửi thư xác nhận vốn đã góp tới các nhà đầu tư.
3
Chênh lệch tỷ giá: Kiểm tra cách tính toán và phân bổ
chênh lệch tỷ giá hối đoái tại ngày khóa sổ trên cơ sở các
chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành, đánh giá tính hợp
lý của chính sách ghi nhận và phân bổ chênh lệch tỷ giá
trong năm.


4
Chênh lệch đánh giá lại tài sản: Đối chiếu các bút toán

ghi tăng, giảm chênh lệch đánh giá lại tài sản với các biên
bản đánh giá lại tài sản và đánh giá tính hợp lý của các
quyết định điều chỉnh này.


5
Lợi nhuận chưa phân phối:

5.1 Đối chiếu phần lợi nhuận tăng trong năm với báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh


5.2 Kiểm tra chi tiết các chứng từ liên quan đến các khoản
phân phối lợi nhuận để chi trả cổ tức cho các nhà đầu tư,
trích lập các quỹ, v.v như Biên bản họp HĐQT, Nghị
quyết của HĐQT, Điều lệ Công ty, v.v



-

21
-
6
Kiểm tra tính trình bày: Kiểm tra tính trình bày vốn chủ
sở hữu, chênh lệch tỷ giá, chênh lệch đánh giá lại tài sản,
các quỹ và lợi nhuận chưa phân phối trên BCTC.


IV. Thủ tục kiểm toán khác












D. KẾT LUẬN
Theo ý kiến của tôi, trên cơ sở các bằng chứng thu thập được từ việc thực hiện
các thủ tục ở trên, các mục tiêu kiểm toán trình bày ở phần đầu của chương trình
kiểm toán đã đạt được, ngoại trừ các vấn đề sau:





Chữ ký của người thực hiện:__________________
Kết luận khác của Thành viên BGĐ và/hoặc Chủ nhiệm kiểm toán (nếu có):




-

22
-

1.4. LẬP CHƯƠNG TRÌNH KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH TRONG CÁC
CÔNG TY KIỂM TOÁN TRÊN THẾ GIỚI
Trên thế giới, ngành kiểm toán đã xuất hiện từ khá lâu, còn khái niệm về kiểm
toán hiện đại đã xuất hiện từ những năm 50 của thế kỷ trước. Với một bề dày hoạt
động như vậy, ngành kiểm toán trên thế giới đã tương đối hoàn thiện về lý luận
cũng như thực tiễn. Đối với việc lập chương trình kiểm toán nói riêng và giai đoạn
chuẩn bị kiểm toán nói chung luôn là một giai đoạn quan trọng trong bất cứ một
cuộc kiểm toán nào.
Hiện nay, tại các công ty kiểm toán lớn ở nước ngoài việc ứng dụng các
chương trình kiểm toán mẫu là rất phổ biến. Do đã có nhiều năm hoạt động thực
tiễn nên các công ty kiểm toán nước ngoài đã tổng hợp lên rất nhiều các chương
trình kiểm toán cho rất nhiều các loại hình doanh nghiệp hay các chu trình kiểm
toán. Ngoài ra các công ty này còn xây dựng cho mình các phần mềm kiểm toán
để tạo ra và quản lý các chương trình kiểm toán đó, cũng như một số phần mềm
giúp ứng dụng chọn mẫu ngẫu nhiên, phân tích tỷ suất tài chính…

-

23
-
Chương II: Thực trạng về công tác lập chương trình kiểm toán trong
kiểm toán tài chính của các công ty kiểm toán tại Việt Nam
2.1. THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC LẬP CHƯƠNG TRÌNH KIỂM
TOÁN TRONG KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY KIỂM TOÁN
TẠI VIỆT NAM
Tại Việt Nam, ngành kiểm toán chỉ mới xuất hiện từ đầu những năm 90 của thế
kỷ trước. Trải qua gần 20 năm phát triển hiện nay tại Việt Nam đã có khoảng trên
160 công ty kiểm toán đang hoạt động với 8.000 người làm việc, 1.300 kiểm toán
viên hành nghề. Trong số các công ty này có thể chia thành 2 nhóm các công ty đó
là nhóm công ty kiểm toán lớn và nhóm công ty kiểm toán vừa và nhỏ. Đối với hai

nhóm công ty này có những cách thức lập chương trình kiểm toán cũng khác nhau.
 Đối với nhóm công ty kiểm toán lớn
Trong nhóm công ty kiểm toán lớn, nổi bật nhất chính là nhóm 4 công ty kiểm
toán lớn nhất thế giới có chi nhánh tại Việt Nam đó là: KPMG, Enrs & Young,
Deloitte, PWC. Ngoài ra còn có một số các công ty kiểm toán của Việt Nam như
là: AASC, A&C… Nhóm các công ty kiểm toán lớn chỉ chiếm một phần nhỏ trong
các công ty kiểm toán ở Việt Nam. Tại các công ty các quy định trong thực hiện
một cuộc kiểm toán là rất khắt khe. Họ có một đội ngũ nhân viên được đào tạo rất
chi tiết và cơ bản. Chính vì vậy mà trong quá trình lập chương trình kiểm toán họ
làm tương đối cẩn thận, tuân theo đầy đủ các bước công việc như đã trình bày ở
trên. Ngoài ra, tại các công ty kiểm toán lớn còn có thêm sự hỗ trợ từ các chương
trình kiểm toán mẫu và phần mềm kiểm toán do chính các công ty thiết kế sẵn. Do
có trình độ và kinh nghiệm nên việc áp dụng các chương trình kiểm toán mẫu là
rất linh hoạt, gắn với điều kiện thực tế tại doanh nghiệp được kiểm toán. Chính vì
vậy chương trình kiểm toán của họ luôn có chất lượng cao, bao phủ được rủi ro và
phạm vi kiểm toán.


-

24
-
 Đối với nhóm công ty kiểm toán vừa và nhỏ
Phần lớn các công ty kiểm toán ở Việt Nam đều có quy mô thuộc loại vừa và
nhỏ. Hiện nay, do nhu cầu phát triển của nền kinh tế đòi hỏi báo cáo tài chính của
các doanh nghiệp cần có ý kiến của kiểm toán viên nên các công ty kiểm toán
được thành lập khá nhiều trong những năm trở lại đây. Tại các công ty này do giới
hạn về trình độ nhân viên cũng như là thời gian, chi phí nên trong quá trình kiểm
toán còn nhiều bất cập. Trong công tác lập chương trình kiểm toán họ thường
không để ý tới quy trình lập như ở trên mà thường áp dụng các chương trình kiểm

toán mẫu của các công ty kiểm toán lớn. Tất nhiên, cũng có một số các công ty này
tự thiết kế cho mình những chương trình kiểm toán và phần mềm kiểm toán riêng.
Tuy nhiên quy mô và chất lượng các chương trình kiểm toán này rất khác nhau, do
vậy thường không phù hợp và khó áp dụng.
Xuất phát từ thực trạng trên, Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam
(VACPA) với sự tài trợ của Ngân hàng Thế giới (WB) đã thành lập Dự án "Tăng
cường năng lực Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam" để tiến hành xây dựng
bộ Chương trình kiểm toán mẫu với mục đích góp phần nâng cao chất lượng dịch
vụ của các công ty kiểm toán, tăng cường sự tuân thủ nhất quán các yêu cầu của
Chuẩn mực kiểm toán, đồng thời làm cơ sở cho việc đào tạo, cập nhật và kiểm tra
chất lượng dịch vụ hàng năm của hội viên VACPA.
2.2. CHƯƠNG TRÌNH KIỂM TOÁN MẪU CỦA HỘI KIỂM TOÁN
VIÊN HÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Một trong những sự kiện được các kiểm toán viên và công ty kiểm toán tại Việt
Nam rất quan tâm trong thời gian gần đây đó là sự ra đời của Chương trình kiểm
toán mẫu do Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam xây dựng. Chương trình
kiểm toán mẫu này đã được đào tạo và thảo luận với các công ty kiểm toán của
Việt Nam vào ngày 27, 28/10/2009 tại Hà Nội; đã hoàn thiện theo ý kiến tham gia
trong Hội thảo và bằng văn bản của hơn 20 Công ty kiểm toán và đã chính thức áp
dụng thử nghiệm cho mùa kiểm toán 2009/2010 tại 31 Công ty kiểm toán. Chương

-

25
-
trình kiểm toán mẫu đã tiếp tục được hoàn thiện theo ý kiến tham gia bằng văn bản
của 27 công ty đã thực hiện thí điểm và tại Hội thảo, đào tạo ngày 29, 30/6/2010
tại Đà Nẵng. Và cho đến thời điểm hiện tại có thể chương trình kiểm toán mẫu đã
hoàn chỉnh về mặt hình thức và nội dung, đang trong giai đoạn cuối cùng của quá
trình hoàn thiện để sẵn sàng cho các công ty kiểm toán có thể áp dụng cho các

cuộc kiểm toán từ năm 2011.
Trên cơ sở các quy định của Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam ban
hành từ năm 1999 đến năm 2005, các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đang trong
quá trình sửa đổi từ năm 2010 và các năm tiếp theo, cũng như cân nhắc các yêu
cầu bổ sung của Hệ thống các chuẩn mực kiểm toán quốc tế (ISAs) do Ủy ban
chuẩn mực kiểm toán quốc tế (IFAC) ban hành năm 2009 và có hiệu lực từ 15
tháng 12 năm 2009 với những mục tiêu cụ thể đưa ra theo từng chuẩn mực yêu,
cầu kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải thực hiện trong quá trình kiểm toán,
chương trình kiểm toán mẫu giải quyết tất cả các khía cạnh của công việc kiểm
toán, từ việc chấp thuận khách hàng, lập kế hoạch kiểm toán, kiểm tra hệ thống
kiểm soát nội bộ, các thủ tục kiểm toán chi tiết, các thủ tục hoàn thành và quản lý
chất lượng kiểm toán với một số ưu điểm chính sau đây:
Thứ nhất: với phương pháp tiếp cận kiểm toán dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro
(risk - based audit), chương trình kiểm toán mẫu cho phép kiểm toán viên tập trung
kiểm toán những khoản mục chính có thể xảy ra rủi ro có sai sót trọng yếu đến báo
cáo tài chính của đơn vị, đồng thời giảm thiểu thời gian kiểm toán các khoản mục
không có rủi ro có sai sót trọng yếu, vừa đảm bảo rủi ro kiểm toán được giảm
xuống ở mức độ thấp có thể chấp nhận được, vừa đảm bảo tính hiệu quả về chi
phí.
Thứ hai: chương trình kiểm toán mẫu giúp kiểm toán viên và công ty kiểm toán
cân bằng được tính đầy đủ và thích hợp của bằng chứng kiểm toán thu thập để
phục vụ cho việc đưa ra ý kiến kiểm toán phù hợp thông qua việc kết hợp hài hòa
bằng chứng kiểm toán thu thập từ 2 phương pháp thử nghiệm kiểm toán là thử
nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản.

-

26
-
Thứ ba: với sự nhấn mạnh vào việc tìm hiểu đơn vị được kiểm toán, môi trường

hoạt động và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị, chương trình kiểm toán mẫu sẽ
giúp kiểm toán viên xây dựng những đánh giá rủi ro phù hợp với từng loại hình
đơn vị được kiểm toán để xây dựng kế hoạch kiểm toán phù hợp, đồng thời tạo
nền tảng để kiểm toán viên có thể đưa ra những khuyến nghị nâng cao hiệu quả
của hệ thống kiểm soát nội bộ cả về mặt thiết kế và tính hiệu quả khi hoạt động, từ
đó góp phần tạo ra giá trị gia tăng cho dịch vụ kiểm toán.
Thứ tư: do đặc điểm hoạt động kinh doanh, hệ thống kiểm soát nội bộ, quy
trình kế toán ở từng đơn vị là khác nhau, nên chương trình kiểm toán mẫu cũng
cho phép kiểm toán viên và các công ty kiểm toán có thể linh hoạt bổ sung thêm
các thủ tục mà kiểm toán viên và các công ty kiểm toán cho là cần thiết theo xét
đoán chuyên môn của mình để đạt mục tiêu kiểm toán đã định.
Với những ưu điểm đó, chương trình kiểm toán mẫu có thể được áp dụng cho
tất cả các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính các doanh nghiệp sản xuất, thương mại
và dịch vụ, bao gồm cả việc kiểm toán cho các công ty niêm yết. Đối với những
đơn vị thuộc các lĩnh vực hoạt động đặc thù khác như xây lắp, chứng khoán, ngân
hàng, bảo hiểm, kiểm toán viên và công ty kiểm toán có thể vận dụng chương trình
kiểm toán mẫu để sửa đổi, bổ sung những thủ tục kiểm toán phù hợp, đặc biệt là
phần kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư.
Chương trình kiểm toán mẫu ở đây cần được hiểu là nên làm, nên áp dụng theo
nếu chương trình kiểm toán của công ty chưa phù hợp, chưa cập nhật. Do vậy đối
với các công ty kiểm toán trước đây đã xây dựng cho mình chương trình kiểm toán
mẫu thì có thể xem chương trình kiểm toán mẫu lần này của VACPA để cập nhật
những điều mới và hợp lý hơn. Còn đối với các công ty kiểm toán chưa xây dựng
chương trình kiểm toán mẫu thì nên áp dụng chương trình kiểm toán mẫu lần này
trong quá trình lập chương trình kiểm toán cho các cuộc kiểm toán của công ty
mình.

-

27

-
Do đó, để đảm bảo áp dụng chương trình kiểm toán mẫu một cách có hiệu quả,
phát huy tốt những ưu điểm trên, kiểm toán viên và các công ty kiểm toán, bên
cạnh VACPA, cần phải chuẩn bị để đáp ứng các điều kiện chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: Ban Giám đốc của công ty kiểm toán phải duy trì thái độ đúng đắn
đối với việc tuân thủ và áp dụng chương trình kiểm toán mẫu. Ban Giám đốc là bộ
phận thượng tầng trong hệ thống kiểm soát chất lượng kiểm toán của mỗi công ty.
Do đó, Ban Giám đốc cần thể hiện thái độ đúng đắn trong quá trình đặt vấn đề áp
dụng chương trình kiểm toán mẫu tại công ty, xem xét nhu cầu đào tạo cho các cấp
bậc nhân viên trong công ty trước khi áp dụng cũng như tham gia trực tiếp vào quá
trình lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán và giám sát, soát xét hồ sơ kiểm
toán.
Thứ hai:công ty kiểm toán cần tổ chức đào tạo và nội dung đào tạo phù hợp
cho nhân viên trước khi áp dụng chính thức chương trình kiểm toán mẫu. Những
thủ tục nêu trong bộ chương trình kiểm toán mẫu này là những thủ tục mà các
chuyên gia cho rằng đặc biệt quan trọng và khuyến nghị kiểm toán viên và công ty
kiểm toán nên thực hiện đầy đủ trong mỗi cuộc kiểm toán trên cơ sở các yêu cầu
cơ bản của các chuẩn mực kiểm toán liên quan. Do đó, kiểm toán viên cần cân
nhắc kỹ lưỡng và phải giải thích được cơ sở của việc không áp dụng bất kỳ thủ tục
nào trong số các thủ tục đã nêu trong bộ chương trình kiểm toán mẫu này. Tuy
nhiên, các thủ tục đã nêu chưa phải là toàn bộ các thủ tục cần áp dụng trong một
cuộc kiểm toán. Trong suốt quá trình lập kế hoạch và thực hiện cuộc kiểm toán,
kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải thường xuyên thực hiện những xét đoán
chuyên môn để đưa ra các thủ tục sửa đổi, bổ sung chương trình kiểm toán mẫu
này cho phù hợp với đặc điểm và yêu cầu của cuộc kiểm toán và đối tượng khách
hàng cụ thể. Do vậy, công tác đào tạo những kiến thức cơ bản về kiểm toán như:
lập kế hoạch, tìm hiểu khách hàng và hệ thống kiểm soát nội bộ, đánh giá rủi ro,
thử nghiệm kiểm soát, thử nghiệm cơ bản, kỹ năng soát xét hồ sơ kiểm toán, kỹ
năng phỏng vấn, v.v cần được các công ty chú trọng để tạo những nền tảng
chuyên môn cần thiết cho các cấp bậc nhân viên có thể hiểu và áp dụng các thủ tục

×