Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

luận văn quản trị kinh doanh Giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh tại công ty Cổ phần kinh doanh khí hóa lỏng miền Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 86 trang )

Luận văn tốt nghiệp
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực tập tại công ty Cổ phần kinh doanh Khí
hóa lỏng miền Bắc, em đã nhận được sự hướng dẫn rất nhiệt tình và
chi tiết của giảng viên trực tiếp hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Văn
Tuấn, cũng như sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của các cơ chú, anh
chị nhân viên tại công ty đã hỗ trợ em hoàn thành tốt luận văn tốt
nghiệp này.
Em xin chân thành cám ơn.
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
Luận văn tốt nghiệp
LỜI CAM ĐOAN
Em tên là : Nguyễn Thị Thanh Huyền
Sinh viên lớp : Thương mại C
Em xin cam kết luận văn tốt nghiệp này được hoàn thành bởi sự nỗ lực
của bản thân dưới sự hướng dẫn tận tình của giảng viên PGS.TS. Nguyễn Văn
Tuấn và sự giúp đỡ của phía công ty Cổ phần kinh doanh Khí hóa lỏng miền
Bắc. Em không sao chép từ các luận văn khác.
Em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam kết của mình.
Hà Nội, ngày 25 tháng 05 năm 2009
Sinh viên
Nguyễn Thị Thanh Huyền
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
Luận văn tốt nghiệp
MỤC LỤC
3.1.1 Số lượng người lao động trong Công ty 28
3.1.2 Chính sách đào tạo, lương thưởng, trợ cấp 29
1. Tình hình nghiên cứu và phát triển thị trường 49
5. Hoạt động marketing 51
6. Nhãn hiệu thương mại của Công ty 52
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C


Luận văn tốt nghiệp
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
3.1.1 Số lượng người lao động trong Công ty 28
3.1.2 Chính sách đào tạo, lương thưởng, trợ cấp 29
1. Tình hình nghiên cứu và phát triển thị trường 49
5. Hoạt động marketing 51
6. Nhãn hiệu thương mại của Công ty 52
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Nghành kinh doanh khí hóa lỏng mới thực sự phát triển ở Việt Nam
trong một vài năm trở lại đây. Khí đốt hóa lỏng là nguồn nhiên liệu mới,
thuận tiện trong vận chuyển, tiện nghi trong sử dụng, tính an toàn cao, thân
thiện với môi trường. Khí đốt hóa lỏng ngày càng được sử dụng rộng rãi trong
nhiều lĩnh vực ở các quốc gia do đó cùng với sự phát triển của nền kinh tế các
nước, ngành kinh doanh khí đốt hóa lỏng cũng ngày càng phát triển trở thành
một ngành kinh tế mũi nhọn của mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam, góp
phần vào sự phát triển của công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Được công ty cổ phần kinh doanh khí hóa lỏng miền Bắc tạo điều kiện
cho em thực tập là một thuận lợi lớn để tìm hiểu sâu hơn về ngành kinh doanh
khí đốt hóa lỏng ở nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động
kinh doanh khí hóa lỏng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, đặc
biệt là trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập với nền kinh tế
thế giới ngày càng sâu rộng, em đã chọn đề tài: “Giải pháp thúc đẩy hoạt
động kinh doanh tại công ty Cổ phần kinh doanh khí hóa lỏng miền Bắc”.
Luận văn có kết cấu bao gồm 3 chương:
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH DOANH CỦA CÔNG TY
CỔ PHẦN KINH DOANH KHÍ HÓA LỎNG MIỀN BẮC
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN KINH DOANH KHÍ HÓA LỎNG MIỀN BẮC

CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN KINH DOANH
KHÍ HÓA LỎNG MIỀN BẮC
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
1
Luận văn tốt nghiệp
Do trình độ của bản thân và thời gian nghiên cứu còn hạn chế, nên luận
văn của em không thể tránh khỏi những sai sót, khiếm khuyết. Vì vậy, em
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên
khác để luận văn tốt nghiệp của em đạt được kết quả tốt hơn. Em xin chân
thành cảm ơn.
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
2
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH DOANH CỦA CÔNG TY
CỔ PHẦN KINH DOANH KHÍ HÓA LỎNG MIỀN BẮC
I. KHÁI NIỆM VỀ KINH DOANH VÀ KINH DOANH THƯƠNG MẠI
1. Kinh doanh
Theo luật doanh nghiệp năm 2005, được áp dụng cho tất cả các loại hình
doanh nghiệp ở Việt Nam: “Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất
cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”. Tiến hành bất kỳ
hoạt động kinh doanh nào đều có nghĩa là tập hợp các phương tiện, con
người… và đưa họ vào hoạt động để sinh lợi cho doanh nghiệp.
Như vậy kinh doanh là một hoạt động có thể là sản xuất ra sản phẩm để
bán, mua hàng hóa để bán, thực hiện cung ứng các dịch vụ…và các chủ thể
của hoạt động này đều nhằm mục tiêu cuối cùng là sinh lợi.
Có thể phân biệt hoạt động kinh doanh với các hoạt động kinh tế khác
thông qua các đặc tính chủ yếu sau:

- Kinh doanh phải do một chủ thể thực hiện gọi là chủ thể kinh doanh.
Chủ thể kinh doanh có thể là cá nhân, hộ gia đình hay tổ chức kinh tế.
- Kinh doanh phải gắn liền với thị trường, chịu sự chi phối của các quy
luật thị trường.
- Kinh doanh phải gắn liền với sự vận động của vốn. Chủ thể kinh doanh
sử dụng nguồn vốn đó để đầu tư mua sắm tư liệu sản xuất hay hàng hóa nhằm
sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận.
Chủ thể kinh doanh sử dụng vốn dưới hình thức tiền tệ (T) để mua hàng
(H). Hàng hóa ở đây có thể là tư liệu sản xuất và sức lao động được dựng để
sản xuất ra sản phẩm mới. Đối với các nhà thương mại, hàng hóa ở đây là sản
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
3
Luận văn tốt nghiệp
phẩm của nhà sản xuất, và đưa vào lưu thông nhằm thu được số tiền (T’) lớn
hơn số tiền bỏ ra ban đầu (T). Tiếp theo chủ thể kinh doanh tiếp tục dựng tiền
(T’) để mua hàng hóa (H’), cứ như vậy chu trình chuyển hóa giữa tiền và
hàng diễn ra liên tục.
Mục đích chủ yếu của kinh doanh là thu được lợi nhuận. Do đó các
doanh nghiệp thương mại luôn nỗ lực tìm kiếm và tạo nguồn hàng đáp ứng
nhu cầu thị trường với chi phí bỏ ra thấp nhất nhưng có thể mang lại lợi nhuận
tối ưu đạt được trong suốt kỳ kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Kinh doanh thương mại
Kinh doanh thương mại là việc đầu tư tiền của, công sức, tài năng … vào
việc buôn bán hàng hóa và thực hiện các hoạt động dịch vụ phục vụ khách
hàng nhằm mục đích kiếm lời.
Kinh doanh thương mại được xem xét theo những góc độ khác nhau có
thể phân thành các loại hình khác nhau. Như xét theo chủ thể kinh doanh
thương mại có thể chia ra là kinh doanh thương mại của một cá nhân hay một
tổ chức. Xét theo loại hình kinh doanh thương mại, có thể phân thành kinh
doanh thương mại chuyên doanh, kinh doanh thương mại tổng hợp và kinh

doanh thương mại đa dạng hóa (hỗn hợp). Xét theo hình thức bán hàng, có thể
phân thành kinh doanh thương mại bán buôn, kinh doanh thương mại bán lẻ
hoặc kinh doanh thương mại cả bán buôn lẫn bán lẻ… Với bất kỳ loại hình
kinh doanh nào là kinh doanh thương mại đều có bốn đặc trưng cơ bản sau:
- Thứ nhất, kinh doanh thương mại cần phải có vốn kinh doanh. Vốn
kinh doanh là các khoản vốn bằng tiền (tiền Việt Nam, vàng, bạc, đá quý,
ngoại tệ) và bằng các tài sản có khác như nhà cửa, kho tàng, cửa hàng… Phải
có vốn mới thực hiện được chức năng lưu thông hàng hóa. Đó chính là T – H
– T’, trong đó T’ = T + ∆t.
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
4
Luận văn tốt nghiệp
- Thứ hai, kinh doanh thương mại đòi hỏi phải thực hiện hành vi mua để
bán (buôn bán). Xét trên toàn bộ các hoạt động và cả quá trình thì hoạt động
kinh doanh thương mại phải thực hiện hành vi mua hàng, nhưng mua hàng
không phải để mình dựng mà mua hàng là để bán cho người khác. Mua ở nơi
này bán ở nơi khác. Mua thời gian này bán thời gian khác. Đó là hoạt động
buôn bán.
- Thứ ba, kinh doanh thương mại hàng hóa phải hiểu hàng hóa và quản
lý hàng hóa, mặc dù doanh nghiệp kinh doanh không phải là người sản xuất ra
hàng hóa, nhưng việc lưu thông hàng hóa đến đúng nơi có nhu cầu, đúng thời
gian và khách hàng có nhu cầu, cũng như việc dự trữ, bảo quản tốt hàng
hóa… là các hoạt động dịch vụ cần thiết cho sản xuất và đời sống xã hội.
- Thứ tư, kinh doanh thương mại dựng vốn (tiền của, công sức, tài năng)
vào hoạt động kinh doanh cũng đòi hỏi sau mỗi chu kỳ kinh doanh phải bảo
toàn được vốn và có lãi. Vì vậy kinh doanh thương mại phải nghiên cứu thị
trường và chú ý đến luật pháp, cơ chế quản lý, đến những nguy cơ rủi ro có
thể xảy ra… Có lợi nhuận mới có thể mở rộng và phát triển kinh doanh.
Ngược lại, chi phí cao, nhiều rào cản, rủi ro có thể dẫn tới doanh nghiệp phải
phá sản.

2.1 Mục đích của kinh doanh thương mại
Ba mục đích căn bản của kinh doanh thương mại mà các doanh nghiệp
kinh doanh thương mại cần quan tâm đó là lợi nhuận, vị thế và an toàn. Tùy
thuộc vào điều kiện cụ thể, mục tiêu chiến lược định hướng kinh doanh của
từng doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định cần xác
định mục tiêu nào là quan trọng nhất, từ đó giúp doanh nghiệp huy động hợp
lý nguồn lực để đạt được mục tiêu đề ra.
- Mục đích lợi nhuận là mục tiêu trước mắt, lâu dài và thường xuyên của
kinh doanh thương mại cũng như các hoạt động kinh doanh khác và nó cũng
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
5
Luận văn tốt nghiệp
là nguồn động lực của người hoạt động kinh doanh. Lợi nhuận là khoản dôi ra
khi so sánh giữa doanh thu và chi phí kinh doanh. Muốn có lợi nhuận thì
doanh thu bán hàng và dịch vụ phải lớn hơn chi phí kinh doanh. Muốn có
doanh thu bán hàng và dịch vụ lớn thì phải có thị trường, phải chiếm được
khách hàng, phải bán được nhiều và nhanh hàng hóa và dịch vụ, và phải giảm
được các khoản chi phí kinh doanh có thể và không cần thiết. Trong điều kiện
thị trường cạnh tranh, có nhiều doanh nghiệp bán hàng hóa cùng loại thì việc
thu hút khách hàng đòi hỏi doanh nghiệp thương mại phải kinh doanh loại
hàng hóa phù hợp với nhu cầu của khách hàng, hàng hóa được đưa đến đúng
nơi, đúng thời gian khách hàng có nhu cầu và có dịch vụ thuận tiện, văn minh,
được khách hàng chấp nhận. Mức độ đạt được về lợi nhuận và kỳ vọng về lợi
nhuận phụ thuộc vào chất lượng của loại hàng hóa, khối lượng và giá cả hàng
hóa bán được, lượng cung cầu của loại hàng hóa đó trên thị trường, chi phí
kinh doanh và tốc độ tăng giảm của chi phí kinh doanh, tài kinh doanh, trường
vốn kinh doanh của người quản trị doanh nghiệp và điều kiện của môi trường
kinh doanh. Mức độ đạt được về lợi nhuận và kỳ vọng về lợi nhuận còn phụ
thuộc vào sự độc đáo của mặt hàng kinh doanh, vị thế của doanh nghiệp trên
thị trường và sự mạo hiểm trong các thương vụ.

- Vị thế cũng là một mục đích của kinh doanh thương mại. Doanh nghiệp
kinh doanh thương mại trên thị trường đều theo đuổi mục tiêu phát triển
doanh nghiệp từ nhỏ lên vừa và lên lớn, từ kinh doanh ở thị trường địa
phương tiến tới kinh doanh ra thị trường cả nước và quốc tế hoặc doanh
nghiệp tăng được thị phần hàng hóa của mình trên thị trường. Tỷ trọng thị
phần của doanh nghiệp trên thị trường càng cao gắn với quy mô của doanh
nghiệp và phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp, xác định vị thế của doanh
nghiệp trên thị trường. Mục đích vị thế thực chất là mục tiêu phát triển kinh
doanh của doanh nghiệp thương mại. Từ chỗ chen được vào thị trường, tiến
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
6
Luận văn tốt nghiệp
tới chiếm lĩnh thị trường và làm chủ được thị trường, đó chính là quá trình
tăng cường vị thế của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh. Kỳ vọng về
vị thế của doanh nghiệp trong kinh doanh phụ thuộc vào nguồn lực và tăng
trưởng nguồn lực của doanh nghiệp, phụ thuộc vào chiến lược và sự phát triển
kinh doanh của doanh nghiệp, phụ thuộc vào tài năng và trình độ quản lý của
người lãnh đạo doanh nghiệp và phụ thuộc vào cơ chế quản lý kinh tế -
thương mại của Nhà nước trong từng giai đoạn.
- An toàn cũng là một mục đích của kinh doanh thương mại. Trong thị
trường cạnh tranh, đặc biệt là ngày nay khi nền kinh tế các nước đang ngày
càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, môi trường kinh doanh luôn
có những biến động to lớn và nhanh chóng mà nhiều dự đoán lạc quan nhất
cũng không tính đến. Tất cả những biến động gây bất lợi cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp khi mới đầu tư vào một thị
trường để kinh doanh, đang tiếp tục kinh doanh và phát triển kinh doanh phải
đặt ra mục tiêu an toàn trong kinh doanh. An toàn trong kinh doanh đòi hỏi
doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường, lựa chọn thị trường có khả năng ít
xảy ra những thay đổi bất lợi cho doanh nghiệp, thị trường có khả năng và
tiềm năng phát triển, cũng như có thể dự báo được những xu hướng phát triển

của nó. Để bảo đảm an toàn trong kinh doanh, doanh nghiệp thương mại
thường phải lập quỹ dự phòng tổn thất để tự bù đắp, phải bỏ chi phí để mua
bảo hiểm của các công ty bảo hiểm, phải đa dạng hóa kinh doanh « Trứng
không bỏ hết vào một giỏ ».
Ba mục đích trên là mục đích căn bản, xuyên suốt quản trị hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp thương mại xét tới cùng. Trong thực tiễn hoạt
động , ngồi ba mục đích trên, mỗi doanh nghiệp khác nhau, tại mỗi thời điểm
khác nhau, có thể có những mục đích kinh doanh khác nữa kể cả mục đích
trước mắt hoặc lâu dài, tùy theo khả năng của từng doanh nghiệp. Có thể ví
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
7
Luận văn tốt nghiệp
mục tiêu trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như cây mục tiêu. Có
mục tiêu trước mắt, mục tiêu lâu dài, mục tiêu thường xuyên.
2.2 Vai trò của kinh doanh thương mại
Kinh doanh thương mại là ngành hoạt động chuyên nghiệp trong lưu
thông hàng hóa, vì vậy nó có vị trí trung gian cần thiết giữa sản xuất và tiêu
dùng. Nó vừa là khâu hậu cần của sản xuất, vừa là tiền đề của sản xuất và là
khâu không thể thiếu được trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Kinh doanh thương mại có tác dụng nhiều mặt đối với lĩnh vực sản xuất vật
chất và lĩnh vực tiêu dùng của xã hội.
Trước hết, kinh doanh thương mại là khâu trung gian giữa một bên là sản
xuất, phân phối, một bên là tiêu dùng. Sản xuất sáng tạo ra sản phẩm thích
hợp với nhu cầu, phân phối phân chia các sản phẩm theo các quy luật xã hội,
trao đổi một lần nữa lại phân phối hàng hóa theo các nhu cầu riêng và tiêu
dùng sản phẩm đưa lại cho sản phẩm một sự hoàn thiện cuối cùng. Sản phẩm
trở thành sản phẩm thực sự khi nó phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng. Tiêu dùng
sản xuất thì sản phẩm quay trở lại quá trình sản xuất, còn tiêu dùng cá nhân
thì thoát khỏi quá trình sản xuất, phục vụ cho tái sản xuất sức lao động xã
hội. Kinh doanh thương mại cung ứng những vật tư, hàng hóa cần thiết cho

sản xuất một cách đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, đúng số lượng, chất lượng,
chính xác với quy mô ngày càng mở rộng. Đối với lĩnh vực tiêu dùng, các cá
nhân có thể dễ dàng thỏa mãn nhu cầu về hàng hóa tiêu dùng trên thị trường
một cách đầy đủ, kịp thời, thuận lợi và văn minh nhờ hàng loạt các quầy
hàng, cửa hàng, siêu thị, trung tâm thương mại cung ứng hàng hóa thuận lợi
cho mọi người, mọi gia đình và nhu cầu của các tầng lớp dân cư, lứa tuổi,
nghề nghiệp.
Thứ hai, kinh doanh thương mại có tác dụng lớn thúc đẩy việc áp dụng
tiến bộ khoa học – công nghệ mới trong sản xuất, đồng thời thúc đẩy nhu cầu,
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
8
Luận văn tốt nghiệp
gợi mở nhu cầu tiêu dùng theo hướng văn minh, hiện đại.
Thứ ba, kinh doanh thương mại thực hiện việc dự trữ các hàng hóa tư
liệu sản xuất và hàng tiêu dùng trong khâu lưu thông có tác dụng to lớn trong
việc bảo đảm cung ứng các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp sản xuất và
người tiêu dùng một cách thường xuyên, liên tục và kịp thời. Dự trữ hàng hóa
ở khâu lưu thông tăng lên có tác dụng to lớn giảm bớt dự trữ ở doanh nghiệp
sản xuất (dự trữ sản xuất), giảm bớt dự trữ ở khâu tiêu dùng. Dự trữ hàng hóa
ở khâu lưu thông được lưu chuyển nhanh, linh hoạt, một đơn vị kinh doanh
thương mại (quầy hàng, cửa hàng, siêu thị, trung tâm thương mại…) có thể
bảo đảm cung ứng hàng hóa thường xuyên cho nhiều doanh nghiệp sản xuất
cũng như nhiều người tiêu dùng. Vì vậy tránh được ứ đọng ở các khâu dự trữ
«chết », góp phần tăng nhanh tốc độ của tái sản xuất xã hội.
Thứ tư, kinh doanh thương mại có tác dụng to lớn trong việc điều hòa
cung – cầu hàng hóa. Thông qua việc thu mua hàng hóa và cung ứng hàng
hóa, kinh doanh thương mại làm đắt hàng ở những nơi có nguồn hàng rẻ,
nhiều, phong phú và làm rẻ các hàng hóa ở những nơi hàng hóa đắt, ít,
nghèo nàn.
Thứ năm, kinh doanh thương mại là một lĩnh vực dịch vụ quan trọng của

sản xuất và đời sống xã hội. Phát triển lĩnh vực này có tác dụng to lớn trong
việc tạo ra nhiều hoạt động dịch vụ phục vụ cho quá trình sản xuất và đời
sống xã hội. Kinh doanh thương mại hàng hóa tư liệu sản xuất là khâu bảo
đảm các loại máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phụ tùng…cho sản
xuất, một điều kiện không thể thiết được các yếu tố đầu vào của quá trình sản
xuất. Phát triển kinh doanh thương mại tư liệu sản xuất có tác dụng to lớn
trong việc bảo đảm cung ứng đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, đúng số lượng, chất
lượng và chính xác các đối tượng lao động và một phần tư liệu lao động để
các doanh nghiệp sản xuất tiến hành liên tục. Kinh doanh thương mại tư liệu
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
9
Luận văn tốt nghiệp
sản xuất còn góp phần bảo đảm cho sản xuất ngày càng nhiều những hàng hóa
tư liệu sản xuất tốt, hiện đại, văn minh và với các dịch vụ thuận lợi, kịp thời.
Kinh doanh thương mại còn là thị trường và điều kiện không thể thiếu được
để tiêu thụ các sản phẩm được các doanh nghiệp sản xuất chế tạo ra.
Thứ sáu, kinh doanh thương mại phát triển ra ngoài phạm vi quốc gia,
tức là phát triển hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa (thương mại
quốc tế) có tác dụng to lớn, tiếp thu nguồn lực từ bên ngoài và mở rộng thị
trường cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước, xuất khẩu hàng hóa ra
nước ngoài đòi hỏi phải nâng cao chất lượng, hạ giá thành, hàng hóa phải có
mẫu mã đa dạng, phong phú, đạt tiêu chuẩn quốc tế, có nguồn hàng lớn và
phải giao hàng đúng hạn cũng như phải nghiên cứu áp dụng các tiêu chuẩn
chất lượng phù hợp với thông lệ quốc tế.
2.3 Chức năng của kinh doanh thương mại
Kinh doanh thương mại thực hiện chức năng lưu thông hàng hóa từ
nguồn hàng đến lĩnh vực tiêu dùng. Sản xuất ra sản phẩm là khâu đầu tiên,
những sản phẩm mới chỉ là sản phẩm ở trạng thái khả năng, chỉ khi nào sản
phẩm được đưa vào quá trình sử dụng (trong sản xuất hoặc tiêu dùng cá
nhân) thì sản phẩm mới thực sự trở thành sản phẩm và quá trình sản xuất

mới hoàn thành.
Chức năng tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông. Chức năng
này nhằm hoàn thiện sản phẩm ở dạng tốt nhất để sản phẩm thích hợp với nhu
cầu của người tiêu dùng. Với chức năng này đòi hỏi các doanh nghiệp thương
mại cũng phải hiểu biết tính chất kỹ thuật của sản phẩm, phải hiểu lĩnh vực
sản xuất (nguồn hàng) và phải hiểu được công dụng của sản phẩm và nhu cầu
của lĩnh vực tiêu dùng.
Chức năng dự trữ hàng hóa và điều hòa cung - cầu. Chức năng của kinh
doanh thương mại là mua hàng hóa vào để cung ứng đầy đủ, kịp thời, đồng
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
10
Luận văn tốt nghiệp
bộ, đúng chất lượng, số lượng, ở những nơi thuận tiện cho khách hàng. Nhờ
có hàng hóa dự trữ mà doanh nghiệp thương mại có thể thỏa mãn đầy đủ, kịp
thời nhu cầu về hàng hóa của khách hàng. Nhờ có hệ thống mạng lưới rộng
(kho trạm, cửa hàng, quầy hàng, siêu thị, đại lý…) mà doanh nghiệp thương
mại có thể bảo đảm thuận lợi cho khách hàng mua những hàng hóa cần thiết,
vừa tiết kiệm được thời gian, vừa không phải đi quá xa. Để thỏa mãn nhu cầu
của khách hàng và khả năng của khách hàng, doanh nghiệp thương mại phải
mua những mặt hàng có chất lượng tốt, đúng yêu cầu của khách hàng, nhưng
lại phải ở nơi có nguồn hàng phong phú, nhiều, rẻ sau khi cộng với chi phí lưu
thông đưa đến thị trường bán, khách hàng vẫn có thể chấp nhận được. Điều
này một cách tự nhiên, kinh doanh thương mại thực hiện việc điều hòa cung
cầu từ nơi có mặt hàng nhiều phong phú, rẻ đến nơi mặt hàng đó ít, khan
hiếm, đắt, hoặc mua hàng khi thời vụ và bán hàng quanh năm, cung – cầu
hàng hóa được điều hòa.
2.4 Nhiệm vụ của kinh doanh thương mại
Nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng cách thỏa mãn đầy đủ, kịp thời và
thuận lợi các nhu cầu hàng hóa – dịch vụ cho sản xuất và tiêu dùng. Chỉ có
nâng cao hiệu quả kinh doanh thì doanh nghiệp thương mại mới có điều kiện

để mở rộng và phát triển kinh doanh, để có thể đứng vững trên thị trường.
Cung ứng những hàng hóa có chất lượng tốt, đáp ứng các yêu cầu về
chất lượng sản phẩm, về vệ sinh và về xã hội môi trường, phù hợp với xu thế
của tiêu dùng hiện đại, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng xã hội phát triển, thúc
đẩy tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất với giá cả thích hợp.
Phát triển các hoạt động dịch vụ khách hàng đầy đủ, kịp thời, thuận lợi
và văn minh. Thực chất đây là phát triển các dịch vụ của dịch vụ trong mua
bán hàng hóa hoặc từ dịch vụ mua bán hàng hóa cần phải có hàng loạt các
dịch vụ bổ sung để thỏa mãn các nhu cầu và yêu cầu đa dạng về hàng hóa của
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
11
Luận văn tốt nghiệp
khách hàng. Ngày nay, trong hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ
khách hàng là lĩnh vực cạnh tranh. Doanh nghiệp thương mại có phát triển và
mở rộng được thị trường hay không, có thu hút được khách hàng tiềm năng
hay không, có giữ được khách hàng truyền thống hay không, một phần quan
trọng phụ thuộc vào các hoạt động dịch vụ khách hàng có kịp thời, thuận tiện,
linh hoạt và văn minh hay không.
Giảm chi phí kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh, tuân thủ
luật pháp và chính sách xã hội. Giảm chi phí kinh doanh là giảm các khoản
chi phí có thể và cần thiết phải giảm như : chi phí do mua hàng giá quá cao,
các khoản chi phí lưu thông phải giảm như hao hụt trên định mức, tiền cước
phí vận chuyển loanh quanh…Muốn tăng hiệu quả kinh doanh, tăng lợi nhuận
thì đi đôi với việc tăng nhanh doanh số bán hàng và dịch vụ, mở rộng thị
trường, tìm được nhiều khách hàng lớn, ổn định, cần phải giảm các khoản chi
phí kinh doanh không cần thiết, các khoản chi tiêu lãng phí và các khoản chi
có khả năng giảm bớt. Trong mối quan hệ giữa lợi nhuận, doanh thu và chi
phí, muốn tối đa hóa lợi nhuận phải tối đa hóa doanh thu và tối thiểu hóa chi
phí. Bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh là nhiệm vụ thường xuyên của
kinh doanh thương mại. Do vốn kinh doanh, đặc biệt là vốn lưu động, là

phạm trù giá trị nên chịu ảnh hưởng lớn của tỷ lệ lạm phát, quan hệ tỷ giá với
các đồng tiền chuyển đổi và tỷ lệ lãi suất tiền vay, tiền gửi của các ngân hàng.
Kinh doanh thương mại trong cơ chế thị trường phải tuân thủ luật pháp của
Nhà nước. Luật pháp trong cơ chế thị trường có vai trò to lớn trong các hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể thực hiện hoạt
động của mình trong khuôn khổ luật pháp cho phép
3 Đặc điểm kinh doanh thương mại trong điều kiện hội nhập
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
12
Luận văn tốt nghiệp
Trong thời đại toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, nền kinh tế các nước
đang ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế toàn cu , trong đó có
Việt Nam, thì các doanh nghiệp kinh doanh thương mại cần phải quan tâm tới
những thay đổi của kinh doanh thương mại trong điều kiện hội nhập, từ đó có
mục tiêu phương hướng chiến lược kinh doanh phù hợp giúp doanh nghiệp
tồn tại và phát triển bền vữg , hội nhập thành côn
- Kinh doanh trong điều kiện hội nhập cạnh tranh gay gắt và quyết liệt
hơn. Có nhiều phương tiện cạnh tranh với nhau mà mỗi doanh nghiệp có thể
sử dụng như: cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, giá cả, thủ tục giao dịch
thanh toán, hoặc sử dụng các công cụ của hoạt động xúc tiến thương mại…
Tùy vào từng điều kiện cụ thể của mỗi doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể
lựa chọn một hoặc một số phương tiện cạnh tranh phù hợp với khả năng để có
thể cạnh tranh có hiệu quả, tồn tại và phát triển bền vững.
- Khách hàng là người quyết định thị trường. Hay nói chính xác hơn nhu
cầu của khách hàng là thượng đế. Kinh doanh thương mại trong điều kiện hội
nhập, dưới môi trường cạnh tranh khốc liệt, bình đẳng, minh bạch, doanh
nghiệp cần phải đặc biệt chú trọng tới nhu cầu của khách hàng, làm tốt công
tác nghiên cứu nhu cầu khách hàng để xây dựng căn cứ trong quá trình sản
xuất kinh doanh, phải lấy việc thỏa mãn nhu cầu khách hàng là mục tiêu phấn
đấu của toàn doanh nghiệp. Nhu cầu của khách hàng thì luôn luôn biến đổi

theo thời gian, không gian và theo địa điểm, do vậy doanh nghiệp cần phải
không ngừng hoàn thiện sản phẩm của mình.
- Kinh doanh thương mại trong điều kiện hội nhập cần phải quan tâm tới
lợi ích của khách hàng. Hiện nay khách hàng không chỉ đòi hỏi được thỏa
mãn về lợi ích vật chất (lợi ích có thể cân đong đo đếm được, thể hiện bằng
hiện vật) mà còn cần phải được thỏa mãn cả lợi ích tinh thần (lợi ích khó cân
đong đo đếm, thường không có một tiêu chuẩn cụ thể nào để đánh giá) như sự
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
13
Luận văn tốt nghiệp
đồng cảm, sự quan tâm của người bán đối với người mua… Muốn lôi kéo
được khách hàng thì doanh nghiệp phải kết hợp hài hòa cả lợi ích vật chất và
lợi ích tinh thần.
- Phát triển hoạt động dịch vụ để nâng cao trình độ thỏa mãn nhu cầu
khách hàng. Đây là phương tiện để cạnh tranh không có giới hạn, doanh
nghiệp phải không ngừng hoàn thiện các hoạt động dịch vụ bổ trợ để có thể
thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu khách hàng.
- Kinh doanh thương mại trong điều kiện hội nhập phải tuân theo luật
pháp và thông lệ quốc tế. Hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam cũng
đã và đang tham gia ngày càng nhiều vào các tổ chức kinh tế thế giới lớn, đặc
biệt là tháng 11 năm 2006 đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ
chức thương mại thế giới WTO, vì thế các doanh nghiệp kinh doanh không
chỉ phải tuân theo luật pháp trong nước mà còn phải tuân thủ nghiêm ngặt
những thông lệ quốc tế mà trong đó Việt Nam là thành viên.
4. Ý nghĩa của hoạt động kinh doanh khí hóa lỏng
Hiện nay trên thế giới, khí đốt hóa lỏng (Liquefied Petroleum Gas – viết
tắt là LPG) được sử dụng phổ biến trong dân dụng và thương mại, là nguyên
liệu đầu vào của ngành công nghiệp hóa chất, sử dụng trong lĩnh vực công
nghiệp, sử dụng trong giao thông vận tải thay cho nhiên liệu truyền thống
xăng/dầu. Trong vòng 20 năm qua, nhu cầu tiêu thụ LPG trên thế giới đã vượt

quá nhu cầu tiêu thụ xăng dầu.
Tại Việt Nam, ngành kinh doanh LPG cũng đã có những bước phát triển
vượt bậc trong thời gian qua, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đóng góp cho
sự phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước. Hiện nay LPG được
sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực sau:
- Dùng làm chất đốt sạch, thuận tiện, hiệu quả thay cho các chất đốt
thông dụng như than, củi, dầu hỏa, điện… trong các hộ gia đình, công sở.
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
14
Luận văn tốt nghiệp
- Làm nhiên liệu (thay thế cho những loại nhiên liệu truyền thống như
than, mazut, diesel) và nguyên liệu trong công nghiệp.
- Trong giao thông vận tải, LPG thay xăng dầu làm nhiên liệu đốt cho
động cơ…
Theo thống kê, trên 86.5 triệu dân Việt Nam trong đó 70% sống tại vùng
nông thôn, đang chuyển dần từ nguyên liệu đốt truyền thống sang sử dụng
LPG trong sinh hoạt nhằm được sạch và thuận tiện hơn. Quá trình chuyển đổi
này góp phần giảm thiểu đáng kể tệ nạn phá rừng (lấy củi và làm than), bảo
vệ môi trường và nhằm bổ sung nguồn điện cho nông thôn. Việc phát triển
công nghiệp cũng làm gia tăng nhu cầu về tiêu thụ LPG, trong lĩnh vực
thương mại du lịch, y tế nhu cầu sử dụng LPG cũng tăng lên, tốc độ đô thị
hóa cũng làm tăng đáng kể nhu cầu tiêu thụ LPG. Như vậy, việc sử dụng LPG
gắn liền với mức phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới, trong đó có
Việt Nam.
II.NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA KINH DOANH THƯƠNG MẠI
1. Nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường
Trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải nghiên
cứu thị trường và xác định nhóm loại mặt hàng để lựa chọn kinh doanh.
Doanh nghiệp thương mại phải nghiên cứu xác định nhu cầu của khách hàng
cho khu vực thị trường mình định kinh doanh và sự đáp ứng cho các nhu cầu

về mặt hàng đó hiện nay. Doanh nghiệp thương mại cũng cần phải xem xét
các nguồn cung ứng các sản phẩm đó. Nghiên cứu thị trường và xác định nhu
cầu thị trường về mặt hàng doanh nghiệp sẽ kinh doanh phải trên cơ sở doanh
nghiệp có đủ trình độ chuyên môn về mặt hàng và doanh nghiệp nắm được
khả năng nguồn hàng đã biết và có khả năng khai thác, đặt hàng, mua hàng để
đáp ứng cho nhu cầu của khách hàng tốt hơn cách đáp ứng nhu cầu hiện tại.
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
15
Luận văn tốt nghiệp
Từ đó doanh nghiệp chuẩn bị cơ sở vật chất, chuẩn bị mặt hàng, chuẩn bị các
điều kiện để đưa vào hoạt động kinh doanh. Việc nghiên cứu thị trường và
xác định nhu cầu của khách hàng về loại hàng hóa doanh nghiệp lựa chọn
kinh doanh không phải chỉ làm một lần mà trong quá trình tồn tại và phát triển
kinh doanh, doanh nghiệp thương mại luôn phải nghiên cứu nhu cầu của thị
trường về mặt hàng để đưa vào kinh doanh những mặt hàng cùng loại, mặt
hàng mới, tiên tiến, hiện đại có nhu cầu trên thị trường, cũng như cách đáp ứng
cho các nhu cầu của khách hàng sao cho kịp thời, thuận tiện và văn minh hơn.
2. Huy động và sử dụng hợp lý các nguồn lực đưa vào kinh doanh
Bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào cũng phải huy động được các
nguồn vốn, tài sản, con người và công nghệ… đưa chúng vào hoạt động để
tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ thỏa mãn nhu cầu của xã hội và thu được lợi
nhuận cho doanh nghiệp.
Kinh doanh thương mại cũng phải huy động các nguồn lực để tiến hành
các hoạt động kinh doanh. Các nguồn lực mà doanh nghiệp thương mại phải
huy động để đưa vào hoạt động kinh doanh là: Vốn hữu hình như tiền VND,
vàng, bạc, nhà cửa, kho tàng, cửa hàng…Vốn vô hình như sự nổi tiếng của
nhãn hiệu hàng hóa, sự tín nhiệm của khách hàng,… và con người với tài
năng, học vấn, kinh nghiệm, nghề nghiệp được đào tạo… huy động vào kinh
doanh, đây là nguồn tài sản quý hiếm của doanh nghiệp. Tuy nhiên, dự người
quản trị doanh nghiệp có tài huy động đến mức nào thì nguồn tài sản của

doanh nghiệp cũng chỉ là có hạn. Doanh nghiệp cần kết hợp các nguồn lực vật
chất với con người cụ thể như thế nào để doanh nghiệp có thể tiến hành một
cách nhanh chóng, thuận lợi và rút ngắn được thời gian chuẩn bị, có kết quả
kinh doanh ngay và phát triển kinh doanh cả bề rộng lẫn bề sâu. Việc huy
động nguồn lực là điều kiện không thể thiếu được của hoạt động kinh doanh
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
16
Luận văn tốt nghiệp
nhưng việc sử dụng nguồn lực một cách hợp lý, có kết quả và hiệu quả mới là
hoạt động quyết định của kinh doanh.
3. Tổ chức các hoạt động nghiệp vụ mua bán, dự trữ, bảo quản, vận
chuyển, xúc tiến thương mại và các hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng
Hoạt động kinh doanh cơ bản của doanh nghiệp thương mại là hoạt động
mua hàng để bán (buôn bán hàng hóa). Tổ chức tạo nguồn hàng, khai thác, gia
công, đặt hàng, ký kết các hợp đồng mua hàng để đảm bảo nguồn hàng cho
doanh nghiệp là khâu nghiệp vụ quan trọng để doanh nghiệp có hàng hóa để
đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Tổ chức mạng lưới bán hàng và phân phối
hàng hóa cho mạng lưới bán hàng cơ hữu và đại lý bán hàng là nghiệp vụ
kinh doanh quan trọng bậc nhất bởi vì chỉ có bán được hàng doanh nghiệp
mới thu hồi được vốn, mới có nguồn trang trải chi phí lưu thông và mới có lãi
để tái đầu tư mở rộng và phát triển kinh doanh. Doanh nghiệp thương mại
cũng phải dự trữ hàng hóa để bảo đảm cung ứng đầy đủ, kịp thời, đồng bộ và
ổn định cho khách hàng. Để thực hiện tốt nghiệp vụ mua bán hàng hóa, doanh
nghiệp phải tổ chức các kho hàng để dự trữ hàng hóa và phải bảo quản, bảo
vệ tối đa số lượng và chất lượng hàng hóa dự trữ. Doanh nghiệp thương mại
còn phải tổ chức tốt hệ thống thu mua , đặt hàng, khai thác để có nguồn hàng
hóa phong phú, ổn định, chất lượng tốt. Tổ chức tốt hệ thống các quầy hàng
(lưu động và cố định), cửa hàng, các siêu thị, trung tâm thương mại… để bán
hàng cho khách hàng một cách thuận lợi và kịp thời. Để giảm chi phí kinh
doanh, đặc biệt chi phí lưu thông, doanh nghiệp thương mại cần tổ chức hợp

lý nghiệp vụ giao nhận, vận chuyển, bốc dỡ hàng hóa ở các ga, cảng đầu mối
tiếp nhận hàng hóa. Và đặc biệt trong môi trường kinh doanh hiện nay các
doanh nghiệp kinh doanh thương mại cần quan tâm hơn đến hoạt động xúc
tiến thương mại. Xúc tiến thương mại là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy
cơ hội mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ thương mại.
4. Quản trị vốn, phí, hàng hóa và nhân sự trong hoạt động kinh doanh
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
17
Luận văn tốt nghiệp
Quản trị doanh nghiệp thương mại cũng phải quản trị các yếu tố cơ bản
của kinh doanh.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại là thể hiện bằng tiền của
tài sản cố định và tài sản lưu động của doanh nghiệp. Quản trị vốn kinh doanh
của doanh nghiệp có chiến lược và kế hoạch sử dụng vốn hợp lý, cũng như
bảo đảm huy động vốn kịp thời cho các nhu cầu kinh doanh hàng hóa - dịch
vụ của doanh nghiệp, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, bảo toàn và
phát triển được vốn qua mỗi chu kỳ kinh doanh, chấp hành đầy đủ các nguyên
tắc và kỷ luật, sử dụng vốn tiết kiệm.
Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp thương mại là biểu hiện bằng tiền
của các chi phí về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp đã bỏ
ra để đạt được kết quả kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý,
năm). Quản lý chi phí kinh doanh là phải có kế hoạch và mục tiêu chi phí, có
quy định rõ mức độ quyền hạn của các cấp trong doanh nghiệp được duyệt chi
và chi phí như thế nào là hợp lý, hợp lệ, tiết kiệm. Quản lý chi phí kinh doanh
là nắm bắt được nội dung của các khoản chi, nắm bắt được các nguyên tắc,
chế độ chi trả, thanh toán và mức độ (tỷ lệ) của các khoản chi trong doanh
thu, lợi nhuận, cũng như các yêu cầu khác như kế hoạch, mục đích, tiết kiệm,
hợp lý và hợp lệ, giảm các tổn thất.
Quản lý hàng hóa trong kinh doanh thương mại đòi hỏi người quản trị
kinh doanh và các bộ phận có liên quan đến giao nhận, bốc dỡ, vận chuyển,

dự trữ, bảo quản, thu mua, bán hàng phải nắm được tính chất vật lý, hóa học
của hàng hóa, phải biết cách sắp xếp, bao gói, bảo quản, giữ gìn hàng hóa sao
cho khỏi đổ vỡ, hư hỏng, biến chất, mất mát. Để dự trữ, bảo quản và bảo vệ
hàng hóa, doanh nghiệp thương mại cần phải có cơ sở vật chất kỹ thuật tương
ứng theo đòi hỏi kỹ thuật của mặt hàng. Trong kinh doanh thương mại, người
kinh doanh còn phải biết nhu cầu về hàng hóa của khách hàng. Khách hàng
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
18
Luận văn tốt nghiệp
nào có nhu cầu khối lượng, chất lượng, hàng hóa, nhu cầu đó ở địa bàn nào,
thời gian nào, người ta dựng hàng hóa để làm gì… chỉ có như vậy người kinh
doanh mới đưa hàng đến nơi và thời gian thích hợp nhất thỏa mãn nhu cầu
của khách hàng, mới tránh được tình trạng hàng hóa vận động loanh quanh, ứ
đọng, chậm luân chuyển, bảo quản không tốt làm hàng hóa hư hỏng, vỡ bẹp,
kém mất phẩm chất phải hủy bỏ, vừa lãng phí của cải vật chất của xã hội, vừa
phải tốn chi phí cho chính việc hủy bỏ ấy. Điều này chứng tỏ kinh doanh
thương mại là lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật. Hoạt động kinh doanh chỉ che lấp
mặt kỹ thuật đi thôi.
Quản trị nhân sự là quản trị những hoạt động liên quan đến nhân sự như:
việc tạo lập, duy trì, sử dụng và phát triển có hiệu quả yếu tố con người nhằm
thực hiện các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp một cách tốt nhất. Quản
trị nhân sự là một mặt của công tác quản trị doanh nghiệp thương mại, là quá
trình hoạch định, tuyển dụng, tổ chức sắp xếp, đào tạo và phát triển , đãi ngộ
nhân sự và phân quyền, giao quyền, tạo dựng ê kíp, cũng như đánh giá nhân
sự. Quản trị nhân sự là quản trị con người, đó là một nguồn lực quan trọng
nhất. Thành công của doanh nghiệp là thành công của việc sử dụng nhân sự.
Mọi quản trị suy cho cùng cũng là quản trị con người. Dự doanh nghiệp
thương mại có vốn vật chất, có vốn tài chính dồi dào, phong phú nhưng không
có nhân sự có đủ năng lực nghiệp vụ, kỹ thuật, tổ chức kinh tế, trình độ quản
lý và những tài năng sáng tạo thì doanh nghiệp không thể hoạt động kinh

doanh có hiệu quả cao, bởi chính con người mới thực sự là chủ thể của vốn
vật chất, vốn tài chính ấy. Vì vậy, sử dụng con người đúng đắn thì doanh
nghiệp thành công, còn sử dụng con người không đúng với năng lực, trình độ,
tài năng… thì doanh nghiệp sẽ không đạt được mục tiêu như mong muốn.
III. CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
19
Luận văn tốt nghiệp
Sau quá trình hoạt động kinh doanh thì các công ty sẽ tiến hành đánh giá
hoạt động kinh doanh của công ty mình, từ đó đánh giá được hiệu quả kinh doanh,
lãi, lỗ nhằm có những bước điều chỉnh phù hợp trong mục tiêu, chiến lược kinh
doanh, đưa ra được những quyết định kinh doanh đúng đắn. Các chỉ tiêu đánh giá
thông thường được sử dụng như: Doanh thu, chi phí, lợi nhuận, các chỉ tiêu tỷ
suất… Việc sử dụng các chỉ tiêu để đánh giá là quan trọng và cần thiết, giúp
doanh nghiệp nắm bắt được khá chính xác tình hình kinh doanh của công ty.
1. Doanh thu
Doanh thu của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh bao gồm doanh thu
từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và thu nhập từ các hoạt động khác.
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: Là toàn bộ tiền
bán sản phẩm, hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên thị trường sau khi đã trừ đi
các khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại. Cụ
thể gồm:
• Toàn bộ tiền bán sản phẩm, hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên thị trường
sau khi đã trừ đi:
- Chiết khấu bán hàng
- Giảm giá hàng bán (ghi rõ trên hóa đơn)
- Hàng bán bị trả lại (nếu có chứng từ hợp lệ) đã được khách hàng chấp
nhận thanh toán, không phân biệt đã thu hay chưa thu được tiền.
• Phần thu từ trợ giá của Nhà nước khi thực hiện cung ứng hàng hóa dịch

vụ theo yêu cầu của Nhà nước, gồm các khoản phí thu thêm ngoài giá bán, trợ
giá, phụ thu theo quy định của Nhà nước.
• Các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đem tặng, biếu, cho hoặc tiêu dùng
trong nội bộ doanh nghiệp thì tính theo giá thành sản xuất hoặc giá vốn.
Thu nhập từ các hoạt động khác bao gồm thu nhập từ hoạt động đầu tư
tài chính và các hoạt động bất thường khác.
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
20
Luận văn tốt nghiệp
2. Chi phí kinh doanh
Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp thương mại là tất cả các khoản chi
phí (bằng tiền) mà doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện các hoạt động kinh
doanh, từ khi mua hàng cho đến khi bán hàng và bảo hành hàng hóa cho
khách hàng trong một khoảng thời gian nhất định (tháng, quý, năm).
Toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp chi ra trong quá trình kinh doanh gồm
chi phí hoạt động kinh doanh và chi phí hoạt động khác.
• Chi phí kinh doanh bao gồm:
- Chi phí mua hàng (tiền thanh toán hàng mua vào).
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, động lực, bán thành phẩm,
dịch vụ mua ngoài (theo mức tiêu hao thực tế), chi phí phân bổ công cụ lao
động, sửa chữa tài sản cố định.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định (trừ TSCĐ thuộc công trình phúc lợi
công cộng, nhà ở).
- Chi phí tiền lương, tiền công, chi phí có tính chất lương phải trả cho
người lao động.
- Kinh phí bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn, bảo hiểm y tế cho người
lao động mà công ty phải nộp theo quy định.
- Chi phí bằng tiền khác gồm: Các khoản thuế tài nguyên, thuế đất, tiền
thuê đất, trợ cấp thôi việc, mất việc cho người lao động, đào tạo nâng cao
năng lực quản lý, tay nghề của người lao động, chi phí cho công tác Đảng,

đoàn thể tại công ty…
- Chi phí hoạt động tài chính
• Các chi phí khác bao gồm:
- Chi phí nhượng bán, thanh lý tài sản cố định gồm cả giá trị còn lại của
TSCĐ khi thanh lý, nhượng bán.
- Chi phí cho việc thu hồi các khoản nợ đã xóa sổ kế toán
Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp: Thương mại 47C
21

×