Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Một số giải pháp thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu mặt hàng kính xây dựng và gốm sứ thuỷ tinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.34 KB, 65 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời mở đầu
Việt Nam đang trên đà phát triển và hướng tới mục tiêu trở thành
nước công nghiệp trong năm 2020. Vì vậy, các ngành công nghiệp phải là
ngành đi tiên phong trong công cuộc đổi mới này. Ngành công nghiệp kính
xây dựng là một ngành còn non trẻ, nhưng đang giữ một vị trí quan trọng
trong quá trình đổi mới. Trong thời gian tới, ngành có xu hướng phát triển
nhanh. Tuy nhiên, ngành kính xây dựng đang vấp phải những khó khăn
thách thức, vì là một ngành mới, nên một mặt chưa có kinh nghiệm, một
mặt còn yếu về nguồn lực nên khó có thể cạnh tranh được với hàng nhập
khẩu từ bên ngoàI với giá thành rẻ và chất lượng cao. Vì vậy, ngành kính
xây dựng của Việt Nam và đặc biệt là công ty kinh doanh và xuất nhập
khẩu cần phảI có chiến lược thích hợp để có thể cạnh tranh với hàng nhập
khẩu. Mặt khác, công ty cũng đề nghị nhà nước có những chính sách để
bảo hộ cho ngành kính xây dựng khắc phục khó khăn để phát triển đi lên.
Đồng thời nhà nước cần có biện pháp ngăn chặn những hành vi nhập lậu
hàng hoá và chống hàng giả để giúp ngành kính xây dựng phát triển. Qua
thực trạng phát triển của ngành kính xây dựng và của công ty, tôi đã chọn
đề tài “Một số giải pháp thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu mặt hàng kính xây
dựng và gốm sứ thuỷ tinh”. Qua đó, em hy vọng ý kiến của mình sẽ góp
phần khắc phục được những khó khăn của công ty đang gặp phải.
Trong quá trình thực tập và viết chuyên đề này, em luôn nhận
được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo TS. Nguyễn Tiến Dũng và toàn thể
các cô, chú, của công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera. Qua đây
em chúc thầy và các cô chú trong công ty mạnh khoẻ và công tác tốt.
Em xin chân thành cảm ơn!
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương I
Những lý luận về xuất khẩu hàng hoá
I. Cơ sở lý luận của hoạt động ngoại thương.


1. lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adamsmith
1.1. Nội dung
Theo lý thuyết về lợi thế tuyệt đối, Adamsmith đã khẳng định vai trò
của cá nhân và hệ thống kinh doanh. Ông cho rằng: “chỉ có cá nhân mới
thẩm định những hành vi của mình và tư lợi không tương tranh nhau mà
hoà nhập vào nhau theo một trật tự tự nhiên”. Theo ông, mỗi người khi làm
công việc gì chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân nhưng nếu anh ta làm tốt công
việc của mình thì điều đó có lợi cho một tập thể, một xã hội, một quốc gia.
Như vậy sẽ có một bàn tay vô hình đã dẫn dắt mỗi cá nhân đến lợi ích
chung ngoài ý muốn của cá nhân đó. Từ quan điểm này của Adamsmith thì
chính quyền mỗi quốc gia không cần can thiệp vào cá nhân và các doanh
nghiệp, cứ để họ tự do hoạt động. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình “
Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân giàu có của mỗi quốc gia” ông đã
khẳng định “ sự giàu có của mỗi quốc gia đạt được không phải do những
quy định chặt chẽ mà do bởi tự do kinh doanh”
Adamsmith khẳng định nguyên tắc phân công lao động để tạo ra nhiều
lợi nhuận làm cơ sở cho sự ra đời của lý thuyết lợi thế tuyệt đối. Lợi thế
tuyệt đối chính là chi phí sản xuất thấp hơn. Theo ông, hai quốc gia khi
tham gia mậu dịch thì phảI dựa trên nguyên tắc hai bên phảI tự nguyện và
cùng có lợi. Giả sử quốc gia gia I có lợi thế tuyệt đối về sản phẩm A,
nhưng không có lợi thế tuyệt đối về hàng hoá B; trong khi đó quốc gia II có
lợi thế tuyệt đối về hàng hoá B, nhưng không có lợi thế tuyệt đối về hàng
hoá A. Khi đó hai quốc gia có thể tham gia mậu dịch, trao đổi hàng hoá cho
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhau. Quốc gia I sẽ sản xuất hàng hoá A để đổi lấy hàng hoá B từ quốc gia
II và ngược lại.
Chúng ta có thể minh hoạ cụ thể lợi thế tuyệt đối qua ví dụ sau:
Giả sử trên thế giới có 2 quốc gia là Mỹ và Anh. Hai quốc gia này đều
sản xuất hai hàng hoá đó là lúa mì và vải. Ta có bảng chi phí sản xuất của 2

quốc gia này như sau:
Bảng 1: Chi phí sản xuất của Anh và Mỹ
Sản phẩm
Mỹ
Anh
Lúa
Mì(giạ/người/năm)
6 1
Vải(mét/người/năm
)
4 5
Theo lý thuyết tuyệt đối của Adamsmith thì Mỹ sẽ sản xuất lúa mì có
hiệu quả hơn Anh, còn Anh thì sản xuất vảI có hiệu quả hơn Mỹ. Như vậy,
Mỹ sẽ chuyên môn hoá sản xuất lúa mì, Anh chuyên môn hoá sản xuất vải
và khi đó Anh và Mỹ sẽ mang sản phẩm của mình đi trao đổi thì cả hai
quốc gia này đều có lợi.
Nếu Mỹ đổi 6 giạ lúa mì với Anh để lấy 6m vải thì Mỹ sẽ có lợi 2m vải
hay sẽ tiết kiệm được 1/2 giờ vì mỗi giờ ở Mỹ sản xuất được 4m vải.
Tương tự như vậy, nếu Anh nhận được từ Mỹ 6 giạ lúa mì tức là Anh
không mất 6 giờ để sản xuất lúa mì ở trong nước. Với thời gian này, Anh sẽ
tập chung vào sản xuất vải thì sẽ được 30m vải. Trong đó 6m vải đem đi
trao đổi với Mỹ, còn 24m vải để lại tiêu dùng, hay nói cách khác Anh đã
tiết kiệm được 5 giờ lao động.
1.2. Khả năng áp dụng
Ngày nay, lý thuyết lợi thế tuyệt đối vẫn còn có ý nghĩa, đặc biệt là với
các nước đang phát triển. Hầu hết các nước đang phát triển là những nước
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú; nguồn lao động dồi dào, giá
lao động rẻ. Những nước này không đủ khả năng để sản xuất ra máy móc

thiết bị vì thiếu vốn và kỹ thuật. Vì vậy các nước đang phát triển mang tàI
nguyên và sức lao động của mình đem ra trao đổi lấy máy móc thiết bị và
kỹ thuật của các nước phát triển.
Khi tiến hành nhập tư liệu sản xuất, công nhân trong nước bắt đầu học
cách sử dụng máy móc thiết bị mà trước đây họ chưa biết và sau đó học
cách sản xuất ra chúng. Như vậy, hoạt động ngoại thương đã giúp các nước
phát triển và đang phát triển bù đắp được sự yếu kém của mình.
2. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo
Lợi thế so sánh là khả năng nâng cao mức sống và thu nhập thực tế của
một nước thông qua việc mua bán trao đổi hàng hoá với nước khác trên cơ
sở chi phí so sánh để sản xuất ra những hàng hoá đó.
Dưới góc độ phân tích chi phí so sánh đã khắc phục được hạn chế của
lợi thế tuyệt đối. Theo lý thuyết tuyệt đối của Adamsmith những quốc gia
có chi phí sản xuất thấp mới có thể trao đổi hàng hoá với nước khác. Như
vậy, nếu quốc gia I sản xuất hai hàng hoá có chi phí sản xuất đều cao hơn
chi phí sản xuất của quốc gia II thì quốc gia I không tham gia trao đổi với
quốc gia II vì sẽ không có lợi gì. Nhưng nếu nhìn từ chi phí so sánh thì
quốc gia I vẫn có thể tham gia trao đổi với quốc gia II và cả hai bên đều có
lợi. Ta xét ví dụ sau:
Giả sử trên thế giới có hai quốc gia là Nga và Việt Nam, cả hai cùng
sản xuất 2 loại hàng hoá và thép và quần áo.
Bảng 2: Chi phí sản xuất của Việt Nam và Nga
Sản phẩm
Chi phí sản xuất (ngày công lao động)
Việt Nam Nga
Thép(1 đơn vị) 25 16
Quần áo(1 đơn vị) 5 4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nếu theo chi phí sản xuất thì Việt Nam sản xuất thép và quần áo có chi

phí cao hơn Nga. Theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối thì Việt Nam không có
khả năng xuất khẩu sản phẩm nào sang Nga. Nhưng nếu xét theo chi phí so
sánh ta sẽ thấy.
Bảng 3: Chi phí so sánh giữa hai loại hàng hoácủa Việt Nam và Nga
Sản phẩm
Chi phí so sánh
Việt Nam Nga
Thép(1 đơn vị) 5 4
Quần áo(1 đơn vị) 1/5 1/4
Theo chi phí so sánh thì thấy rằng: chi phí sản xuất thép của Việt Nam
cao hơn Nga: để sản xuất 1 đơn vị thép Việt Nam cần 5 đơn vị quần áo,
trong khi ở Nga chỉ cần 4 đơn vị. Nhưng chi phí để sản xuất 1đơn vị quần
áo của Việt Nam thấp hơn Nga: để sản xuất 1 đơn vị quần áo Việt Nam cần
1/5 đơn vị thép trong khi đó ở Nga cần 1/4 đơn vị thép. Điều này chỉ ra
rằng, Việt Nam và Nga có thể trao đổi sản phẩm cho nhau. Nga sẽ xuất
khẩu thép sang Việt Nam và Việt Nam sẽ xuất khẩu quần áo sang Nga, việc
trao đổi này sẽ mang lại lợi ích cho cả hai nước Nga và Việt Nam.
Trước khi có ngoại thương, Nga sản xuất 1 đơn vị thép đổi lấy 4 đơn
vị quần áo. Khi có hoạt động ngoại thương thì Nga sản xuất 1 đơn vị thép
sẽ đổi được 5 đơn vị quần áo. Như vậy sau khi có hoạt động ngoại thương
thì Nga sẽ được lợi thêm 1 đơn vị quần áo.
Đối với Việt Nam, trước khi có ngoại thương, Việt Nam sản xuất 5 đơn
vị quần áo thì đổi được 1 đơn vị thép. Khi có hoạt động ngoại thương thì
Việt Nam chỉ cần 4 đơn vị quần áo đã đổi được 1 đơn vị thép. Như vậy,
Việt Nam đã tiết kiệm được 1 đơn vị quần áo
Như vậy nhờ có hoạt động ngoại thương mà lợi ích của 2 quốc gia đều
tăng lên trong khi đó vẫn đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước. Hay
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nói cách khác đã làm nâng cao mức sống và thu nhập thực tế của một quốc

gia
3. Lý thuyết của Heckscher- Ohlin
3.1. Các giả thiết của Heckscher- Ohlin
- Thế giới chỉ có 2 quốc gia, chỉ có 2 loại hàng hoá( X,Y) và chỉ có 2
yếu tố đầu vào là lao động và tư bản
- Hai quốc gia sử dụng công nghệ sản xuất hàng hoá giống nhau và thị
hiếu của các dân tộc là như nhau
- Hàng hoá X chứa nhiều lao động còn hàng hoá Y chứa nhiều tư bản
- Tỉ lệ giữa đầu tư và sản lượng của cả hai loại hàng hoá trong 2 quốc
gia là một hằng số. Cả hai quốc gia đều chuyên môn hoá sản xuất ở mức
không hoàn toàn.
- Cạnh tranh hoàn hảo trong thị trường hàng hoá và thị trường các yếu
tố đầu vào ở cả hai quốc gia
- Các yếu tố đầu vào tự do di chuyển trong từng quốc gia nhưng bị cản
trở trong phạm vi quốc tế.
- Không có chi phí vận tảI, không có hàng rào thuế quan và cảc trở ngại
khác trong thương mại giữa hai nước.
3.2. Nội dung
Giả sử có hai loại hàng hoá Y và X. Hàng hoá Y là hàng hoá chứa
nhiều tư bản nếu tỉ số tư bản/ lao động được sử dụng để sản xuất hàng hóa
Y lớn hơn hàng hoá X trong cả hai quốc gia. Theo định lý của Heckscher-
Ohlin quốc gia nào có nhiều tư bản thì nên sản xuất nhiều hàng hoá Y.
Quốc gia nào có nhiều lao động thì nên sản xuất nhiều hàng hoá X. Hay nói
cách khác, quốc gia nào dồi dào về yếu tố sản xuất nào thì nên sản xuất
nhiều hàng hoá chứa yếu tố sản xuất đó. Heckscher- Ohlin cho rằng do sở
thích và phân phối thu nhập của các nước là như nhau, điều này dẫn đến
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhu cầu giống nhau về hàng hoá cuối cùng và yếu tố sản xuất của các quốc
gia. Do đó, việc cung cấp các yếu tố sản xuất của các nước khác nhau là

nguyên nhân dẫn đến giá tương đối của các hàng hoá khác nhau, và từ đó
dẫn đến thương mại giữa các nước.
II. Các chiến lược phát triển ngoại thương của một số nước trên thế
giới
1. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô
Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô được hầu hết các nước đang sử
dụng. Đó là chiến lược dựa vào việc sử dụng các sản phẩm sẵn có của đất
nước. Sản phẩm thô là những sản phẩm nông nghiệp và các sản phẩm khai
khoáng vì thế nó phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên và thời tiết ở
quốc gia đó.
Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô được các nước đang phát triển sử
dụng vì các quốc gia này giàu có tài nguyên thiên nhiên. Nhưng về mặt
khoa học công nghệ thì rất kém, vì vậy việc xuất khẩu sản phẩm thô là một
hình thức phù hợp. Mặt khác, chiến lược này sẽ tạo động lực cho phát triển
kinh tế. Ban đầu nền kinh tế sẽ phát triển theo chiều rộng nghĩa là các quốc
gia bán tàI nguyên của mình để thu ngoại tệ về cho đất nước. Hoặc dùng
chính sách thu hút đầu tư nước ngoàI vào công nghiệp khai khoáng và công
nghiệp sản xuất sản phẩm nhiệt đới. Sự phát triển này sẽ làm cho tăng
nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tăng khả năng tích luỹ của nền kinh tế, đồng
thời giải quyết việc làm cho người lao động.
Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô cũng tạo ra những biến đổi cơ cấu
kinh tế. Ban đầu là sự phát triển công nghiệp khai khoáng và ngành công
nghiệp chăn nuôi, trồng cây lương thực và cây công nghiệp có khả năng
xuất khẩu, đồng thời với những ngành này là sự phát triển của công nghiệp
chế biến, tạo ra các sản phẩm sơ chế như: gạo, cà phê, cao su….Sự phát
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
triển của công nghiệp chế biến sẽ tạo cơ hội cho việc gia tăng các sản phẩm
xuất khẩu. Mặt khác nó lại có tác động ngược lại với các ngành cung ứng
nguyên liệu, tạo ra mối liên hệ ngược.

Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô góp phần tạo nguồn vốn ban đầu
cho công nghiệp hoá. Vì quá trình công nghiệp hoá là một quá trình tích
luỹ vốn lâu dàI và đặc biệt khó khăn trong giai đoạn đầu tiên. Vì vậy những
nước có nguồn tàI nguyên thiên nhiên dồi dào và phong phú sẽ có điều kiện
để tích luỹ nguồn vốn bằng cách khai thác nguồn tài nguyên của mình.
Ngoài những tác động tích cực của chiến lược xuất khẩu sản phẩm
thô, thì nó còn có những trở ngại trong việc thực hiện chiến lược, đó là:
Thứ nhất, việc cung cấp sản phẩm thô không ổn định, các sản phẩm
chủ yếu là sản phẩm của ngành khai khoáng và nông nghiệp chưa qua sơ
chế. Vì vậy, việc cung cấp các sản phẩm này phụ thuộc nhiều vào điều kiện
tự nhiên và khí hậu.
Thứ hai, cầu sản phẩm thô luôn biến động, chủ yếu là do hai nguyên
nhân:
- Theo quy luật tiêu dùng sản phẩm của E. Engel, các sản phẩm lương
thực, thực phẩm về cơ bản sẽ tăng chậm hơn mức tăng thu nhập. Quy luật
này làm cho sản phẩm thô co xu hướng giảm.
- Do sự phát triển của khoa học công nghệ: sự thay đổi trong công
nghiệp chế biến làm cho lượng tiêu hao về nguyên vật liệu có xu hướng
giảm. Vì máy móc kỹ thuật ngày càng hiên đại, làm giảm lãng phí nguyên
vật liệu đầu vào, tăng tối đa sản phẩm, làm giảm tối thiểu lượng phế thải.
Mặt khác khoa học công nghệ cho ra đời nhiều loại nguyên vật liệu nhân
tạo như: nilon, cao su, nhựa, giả da,… để thay thế cho những sản phẩm
truyền thống.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thứ ba, do giá cả của sản phẩm thô có xu hướng giảm so với hàng công
nghệ. Để so sánh tương quan giữa giá cả sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm
nhập khẩu các nhà kinh tế sử dụng “ hệ số trao đổi hàng hoá”.
In = Px/Pm
Trong đó: In hệ số trao đổi hàng hóa

Pm là giá bình quân hàng nhập khẩu
Hệ số này phản ánh sức mua hàng nhập khẩu khi xuất khẩu 1 đơn vị
hàng hoá khác. ở các nước đang phát triển thường xuất khẩu sản phẩm thô
để có ngoại tệ nhập khẩu hàng công nghệ. Xu thế của thế giới hiện nay là
giá của sản phẩm thô ngày càng giảm so với hàng công nghệ. Theo như
nghiên cứu của 2 nhà kinh tế học Grilli và Yang đã chứng minh rằng giá
của sản phẩm thô giảm bình quân là 0,65%/ năm so với hàng công nghệ
Thứ tư, do thu nhập của sản phẩm thô biến động. Nguyên nhân của
sự biến động này là do cung và cầu của sản phẩm thô luôn biến động, nó sẽ
tác động đến thu nhập của sản phẩm thô. Do đặc điểm của sản phẩm thô là
độ co giãn của đường cầu sản phẩm thô là rất thấp, trong khi đó cung của
sản phẩm thô có độ co giãn rất cao. Các nhà kinh tế học đã chỉ ra rằng
doanh thu của sản phẩm thô sẽ giảm mạnh hoặc có tăng thì rất ít cho dù
được mùa hay mất mùa.
2. Chiến lược thay thế hàng nhập khẩu
Chiến lược thay thế sản phẩm nhập khẩu nhằm đẩy mạnh sự phát triển
các ngành công nghiệp trong nước mà trước hết là các ngành công nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng, sau đó là các ngành công nghiệp khác nhằm sản
xuất sản phẩm nội địa thay thế các sản phẩm nhập khẩu. Để thực hiện chiến
lược này đòi hỏi phải có những điệu kiện sau:
Thứ nhất, tạo điều kiện để cho các ngành sản xuất trong nước có được
thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng rãi. Do vậy chiến lược này chỉ có thể
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phát huy hiệu quả đối với những nước có dân số tương đối đông.
Thứ hai, các ngành công nghiệp trong nước ban đầu có thể còn nhỏ
bé nhưng phải tạo ra được những yếu tố đảm bảo khả năng phát triển.
Những yếu tố này đòi hỏi phải thu hút vốn và công nghệ của các nhà đầu tư
trong và ngoài nước.
Thứ ba, chính phủ phải có những chính sách thích hợp. Vì ban đầu khi

công nghiệp trong nước còn non trẻ, giá thành sản xuất thường cao hơn so
với thị trường thế giới. Chính phủ cần phải xây dựng hàng rào bảo hộ bằng
các hình thức như: trợ cấp, thuế quan, hạn ngạch để hỗ trợ cho các ngành
sản xuất trong nước để tăng khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước và
đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường thế giới.
Tuy nhiên, chiến lược thay thế còn có những hạn chế:
Thứ nhất, làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nước. Bởi vì một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến tỉ
suất lợi nhuận của nhà sản xuất là thuế quan và hạn ngạch do chính phủ đặt
ra. Do được sự bảo hộ của chính phủ nên các doanh nghiệp trong nước sẽ
có được nguyên liệu đầu vào giá rẻ, làm giảm chi phí sản xuất, các doanh
nghiệp yên tâm với sự bảo hộ của nhà nước. Nếu chi phí sản xuất tăng hay
sức cạnh tranh của mặt hàng nhập khẩu giảm thì các doanh nghiệp lại
chông chờ sự bảo hộ của chính phủ do đó đáng lẽ bảo hộ sẽ giảm dần theo
thời gian thì các nhà sản xuất lại chông chờ bảo hộ tăng lên.
Thứ hai, chiến lược thay thế sản phẩm nhập khẩu làm nảy sinh nhiều
tiêu cực, bảo hộ bằng thuế dẫn đến tình trạng chốn lậu thuế, hối lộ đội ngũ
thuế quan. Bảo hộ bằng hạn ngạch thì dẫn đến tình trạng hối lộ các quan
chức phụ trách phân phối hạn ngạch
Thứ ba, chiến lược này còn hạn chế xu hướng công nghiệp hoá của đất
nước. Chiến lược này thường bắt đầu từ công nghiệp hàng tiêu dùng, sau
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đó lại tiếp tục tạo thị trường cho các ngành sản xuất sản phẩm trung gian.
Nhưng vì thị trường đối với sản phẩm trung gian như: hoá chất, luyện kim
thường nhỏ hơn thị trường hàng tiêu dùng nên có trở ngại đối với vấn đề
này. Do vậy, cũng lại chông chờ vào sự bảo hộ, sự bảo hộ này lại làm tăng
giá đầu vào đối với các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Để
đảm bảo lợi nhuận các ngành công nghiệp lại tiếp tục phụ thuộc vào
nguyên liệu nhập khẩu làm cho các ngành công nghiệp sản xuất nguyên vật

liệu không có khả năng phát triển, hạn chế sự hình thành cơ cấu công
nghiệp đa dạng ở đất nước.
Thứ tư là, chiến lược này làm tăng nợ nước ngoàI của các nước đang
phát triển. Do được bảo hộ nên các sản phẩm của sản xuất trong nước
không có khả năng cạnh tranh và khả năng tiêu thụ trên thị trường quốc tế,
trong khi vẫn phải nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu từ ngoài
làm cho tình trạng nhập siêu của những nước này tăng lên.
3. Chiến lược phát triển hướng ngoại
Trong suốt những năm 50, 60 của thế kỷ trước hầu hết các nước đang
phát triển gặp phải những khó khăn do theo đuổi chiến lược hướng nội.
Đặc biệt là khoản nợ nước ngoài ngày càng gia tăng, nền kinh tế tăng
trưởng chậm, cơ cấu kinh tế mất cân đối. Do vậy, đầu những năm 60 một
số nước đã chuyển hướng chiến lược, đi đầu trong các nước đang phát triển
là những nước NICs. Họ đã thành công trong việc thực hiện chiến lược
hướng ngoại, họ nhận thấy rằng để khắc phục vấn đề nợ nước ngoài, nguồn
tài nguyên và thị trường nhỏ hẹp trong nước chỉ có cách là dựa vào thị
trường quốc tế.
Nội dung của chiến lược hướng ngoại của các nước NICs là sản xuất
những mặt hàng xuất khẩu sử dụng nhiều nhất những yếu tố có sẵn trong
nước, thực hiện nhất quán chính sách giá cả: giá hàng trong nước phải phản
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ánh sát với hàng trên thị trường quốc tế và phản ánh được sự khan hiếm
của các yếu tố trong nước. ở phần lớn các nước đang phát triển, nguồn lao
động dồi dào trong khi nguồn vốn lại khan hiếm. Chính sách của nhà nước
là tiền lương và các chi phí khác, về nhân công phải thấp và lãi suất phải
cao nhằm khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, như vậy
vừa mang lại lợi nhuận, vừa tạo ra công ăn việc làm, góp phần giải quyết
vấn đề thất nghiệp cho đất nước. Do vậy, đối với các nước NICs trong thời
kỳ đầu thực hiện chiến lược hướng ngoại thường tập chung vào sản xuất

hàng công nghiệp và dịch vụ sử dụng nhiều lao động làm cho chi phí sản
xuất sẽ tương đối thấp so với thị trường quốc tế.
Sau khi các nước NICs đã thành công trong công việc lựa chọn chiến
lược của mình thì một số nước đang phát triển khác và các nước ASEAN
cũng lần lượt chuyển sang chiến lược hướng ngoại để khắc phục tình trạng
khó khăn của mình. Nhưng điểm khác của các nước ASEAN so với các
nước NICs là:
Thứ nhất, phần lớn các nước ASEAN có dân số tương đối đông nên tạo
ra được thị trường tiêu thụ rộng lớn.
Thứ hai, các nước ASEAN đều có tài nguyên thiên nhiên đáng kể. Do
vây, nội dung của chiến lược hướng ngoại của các nước ASEAN có những
đặc điểm khác so với các nước NICs. Nội dung của chiến lược hướng ngoại
của các nước ASEAN là tận dụng lợi thế so sánh để sản xuất các mặt hàng
xuất khẩu, sử dụng nguồn tàI nguyên thiên nhiên để thúc đẩy quá trình tích
luỹ ban đầu của đất nước. Khuyến khích sản xuất các sản phẩm để đáp ứng
nhu cầu trong nước.
Chiến lược hướng ngoại đã tác động mạnh đến nền kinh tế của mỗi
quốc gia.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chiến lược hướng ngoại tạo khả năng xây dựng cơ cấu kinh tế mới,
năng động. Sự phát triển của các ngành công nghiệp trực tiếp xuất khẩu đã
tác động đến các ngành cung cấp đầu vào cho các ngành xuất khẩu tạo ra “
mối liên hệ ngược” thúc đẩy sự phát triển của những ngành này. Bên cạnh
đó, khi vốn tích luỹ của nền kinh tế được nâng cao thì sản phẩm thô sẽ tạo
ra “mối liên hệ xuôi” là nguyên liệu cung cấp đầu vào cho công nghiệp chế
biến và mối liên hệ xuôi này tiếp tục mở rộng. Sự phát triển của tất cả các
ngành này sẽ làm tăng thu nhập của người lao động, tạo ra mối liên hệ gián
tiếp cho sự phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và dịch vụ.
Chiến lược hướng ngoại tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước

ngày càng lớn mạnh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Chiến lược hướng ngoại tạo ra nguồn thu nhập đáng kể cho đất nước.
Nguồn thu nhập này vượt xa các nguồn thu nhập khác kể cả vốn vay và đầu
tư nước ngoài. Đối với nhiều nước đang phát triển, ngoại thương đã trở
thành nguồn tích luỹ vốn chủ yếu của giai đoạn đầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá. Đồng thời có ngoại tệ làm tăng khả năng nhập khẩu công nghệ,
máy móc thiết bị và nguyên liệu cần thiết cho sự phát triển của ngành công
nghiệp.
III. Các xu hướng phát triển của thương mại quốc tế có ảnh hưởng tới
xuất khẩu
1. Xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế vận động tất yếu của các nền
kinh tế trên thế giới trong điều kiện hiện nay, khi quá trình toàn cầu hoá
diễn ra hết sức nhanh chóng dưới sự tác động mạnh mẽ của khoa học công
nghệ. Đối với những nước đang phát triển và kém phát triển thì hội nhập
kinh tế quốc tế là con đường tốt để rút ngắn tụt hậu so với các nước khác và
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
có điều kiện để phát huy tối ưu hơn những lợi thế so sánh của mình trong
phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào
tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong mối quan hệ đó, giữa các
quốc gia thành viên có sự giàng buộc theo quy định chung của khối. Nói
cách kháI quát nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực
hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và
tàI chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại, đầu tư
vào các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm
giải quyết 6 vấn đề cơ bản:
+ Đàm phán cắt giảm thuế quan
+ Giảm, loại bỏ hàng rào phi thuế quan

+ Giảm bớt hạn chế đối với dịch vụ
+ Giảm bớt trở ngại đối với đầu tư quốc tế
+ Điều chỉnh chính sách thương mại
+ Triển khai các hoạt động văn hoá, giáo dục…
Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các nước tham
gia hoạt động thương mại với nhau. Các quốc gia được bình đẳng trong
quan hệ mua bán, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Các quốc gia trong
cùng một tổ chức hợp tác quốc tế sẽ được hưởng những lợi ích mà tổ chức
đó mang lại, xong các quốc gia này phảI chịu những giàng buộc mà tổ chức
kinh tế này đưa ra. Vì thế, đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức cho các
quốc gia. Nó buộc các doanh nghiệp trong nước phải đổi mới để nâng cao
sức cạnh tranh trên thương trường.
2. Sự phát triển của khoa học công nghệ
Ngày nay, khoa học công nghệ đã có những tiến bộ vượt bậc, máy móc
và trang thiết bị ngày càng tinh vi, hiện đại, độ chính xác cao. Nhờ đó,
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhiều loại sản phẩm mới được tạo ra với nhiều hình thức, mẫu mã, chất
lượng cao, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Việc đưa khoa
học công nghệ vào sản xuất đã làm cho năng suất lao động tăng cao, tiết
kiệm nguyên vật liệu, giảm giá thành tạo nên sức cạnh tranh cho các doanh
nghiệp. Đồng thời, khoa học công nghệ sẽ giúp cho các doanh nghiệp mở
rộng quy mô sản xuất, nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường.
3. Một số xu hướng phát triển khác của thương mại quốc tế
Bên cạnh xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng bảo hộ mậu
dịch. Xu hướng này đã tồn tại từ lâu nhằm bảo hộ cho các doanh nghiệp
trong nước. Cho đến nay vẫn còn nhiều lý do khác nhau để bảo vệ cho chế
độ bảo hộ mậu dịch:
Một là, chế độ bảo hộ mậu dịch để bảo vệ “ngành công nghiệp còn non
trẻ”

Hai là, lý lẽ tạo nên nguồn “tài chính công cộng”. Theo lý lẽ này, các
loại thuế nhập khẩu là cần thiết để đảm bảo nguồn thu cho chính phủ đáp
ứng các chi phí cho việc cung cấp các hàng hoá công cộng, để tiến hành
việc trả nợ và giải quyết các khoản chi phí khác. Trong các loại thuế khác
nhau đã được áp dụng như thuế doanh thu, thuế thu nhập hay thuế tiêu
dùng, thuế nhập khẩu vẫn ít gây ra méo mó trong hoạt động thương mại
hơn cả và việc thực thi sẽ có nhiều thuận lợi hơn do việc buôn bán quốc tế
được tập trung ở một số cửa khẩu.
Ba là, lý lẽ về khắc phục một phần “tình trạng thất nghiệp” thông qua
việc thực hiện chế độ thuế quan bảo hộ. Theo lý lẽ này, các loại thuế nhập
khẩu đánh vào các sản phẩm có thể thay thế nhập khẩu sẽ tạo điều kiện để
mở rộng thêm việc sản xuất các loại sản phẩm mới và tạo việc làm cho
người lao động trong nước.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bốn là, lý lẽ về việc thực hiện “ phân phối lại thu nhập” thông qua việc
áp dụng chế độ bảo hộ. Theo lý lẽ này thì, các loại thuế nhập khẩu sẽ làm
dịch chuyển một phần thu nhập của người tiêu dùng giàu có hơn sang cho
những người sản xuất các loại hàng hoá được sản xuất trong nước tương
ứng các hàng hoá nhập khẩu. Điều đó sẽ có lợi về mặt xã hội.
Nhưng chúng ta cần phải hạn chế dần xu hướng này vì nó có thể làm
cho các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào sự bảo hộ của nhà nước, làm
giảm động lực phát triển của các doanh nghiệp.
IV. Hoạt động về xuất khẩu hàng hoá
1. Khái niệm về xuất khẩu hàng hoá
Xuất khẩu hàng hoá là quá trình trao đổi hàng hoá qua cửa khẩu của 2
quốc gia và ngoại tệ được dùng làm phương tiện thanh toán.
Đối tượng tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu bao gồm tất cả các
doanh nghiệp, các khu công nghiệp tập trung, các khu chế xuất. Riêng khu
công nghiệp có đặc điểm riêng biệt, nó bao gồm khu chế xuất và khu công

nghiệp tập trung.
Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và cho các hoạt động xuất
khẩu. Nó bao gồm nhiều doanh nghiệp hoạt động có ranh giới với mặt địa
lý xác định do chính phủ quyết định thành lập, thường được ngăn cách
bằng tường rào kiên cố để phân biệt với phần nội địa.
Khu công nghiệp tập trung là một khu vực được xây dựng cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Như vậy, hoạt động xuất khẩu không nhất thiết phải diễn ra ở đường
biên giới giữa hai quốc gia.
Hoạt động xuất nhập khẩu có thị trường rất lớn và khó kiểm soát, thành
phần trung gian trong hoạt động xuất nhập chiếm tỷ trọng khá lớn, hàng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hoá phải vân chuyển qua cửa khẩu. Vì thế các quốc gia khi tham gia vào
hoạt động xuất nhập khẩu thì phải thông qua những thông lệ quốc tế cũng
như những quy định ở địa phương mà quốc gia đó mang hàng hoá đến.
Đồng tiền thanh toán là những ngoại tệ mạnh. Hoạt động xuất nhập khẩu ở
nước ta là một trong những vấn đề được coi trọng hàng đầu. Do đó Đảng
và nhà nước đã có chủ trương mở rộng, phát triển kinh tế đối ngoại trong
đó chú trọng đến vấn đề vật tư và thương mại hàng hoá dịch vụ.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá
2.1. Nhân tố kinh tế
Các doanh nghiệp hoạt động đều vì mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận càng
cao thì động cơ làm việc của doanh nghiệp càng lớn. Vì vậy, yếu tố kinh tế
tác động trực tiếp và quyết định hoạt động của các doanh nghiệp. Đối với
doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu thì 2 yếu tố kinh tế có tác động
mạnh mẽ đến doanh nghiệp là thuế và tỷ giá hối đoái.
Thuế tăng sẽ làm cho doanh thu của doanh nghiệp giảm, lợi nhuận của
doanh nghiệp giảm và ngược lại. Vì thế, nếu thuế tăng sẽ làm giảm động cơ

làm việc của doanh nghiệp.
Nếu tỷ giá hối đoái tăng lên nghĩa là giá trị của đồng nội tệ giảm xuống
như vậy sẽ khuyến khích xuất khẩu vì cùng với một lượng ngoại tệ thu
được do xuất khẩu có thể đổi được nhiều đồng nội tệ hơn, hàng xuất khẩu
rẻ hơn, dễ cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Và ngược lại, nếu tỷ giá hối
đoái giảm sẽ làm hạn chế xuất khẩu.
2.2. Nhân tố văn hoá- xã hội
Mỗi quốc gia đều có một nền văn hoá khác nhau. Vì vậy, các doanh
nghiệp khi tham gia hoạt động xuất khẩu thì cần phải tìm hiểu văn hoá của
quốc gia đó, tìm hiểu thị hiễu của quốc gia đó. Vì thị trường sẽ quyết định
doanh nghiệp nên sản xuất sản phẩm gì và không nên sản xuất gì. Nếu
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
không, doanh nghiệp sẽ đi đến tình trạng hàng hoá ứ đọng không tiêu thụ
được và dẫn đến phá sản.
2.3. Nhân tố môi trường chính trị- pháp luật
Một quốc gia có thể phát triển được thì trước hết phải có một môi
trường ổn định. Sự ổn định chính trị có thể coi là một nhân tố đánh giá sự
rủi ro của nhà đầu tư. Nếu chính trị ổn định tức là độ rủi ro ít, các nhà đầu
tư sẽ mạnh dạn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Nhưng chỉ có chính trị thôI
thì cũng chưa đủ, nếu pháp lụât liên tục có sự thay đổi thì các doanh nghiệp
sẽ không thể thích ứng được với sự thay đổi đó khiến cho nhà đầu tư sẽ gặp
phảI rủi ro cao, nên không khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào sản
xuất. Vì vậy, một trong những điều kiện mà các nhà sản xuất quyết định
tham gia đầu tư sản xuất là sự ổn định về chính trị và pháp luật phải ổn
định, rõ ràng.
2.4. Nhân tố cạnh tranh
Trên thị trường hàng hoá tồn tại rất nhiều nhà doanh nghiệp cùng tham
gia sản xuất. Do vây, các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau để có thể
tồn tại và đứng vững trên thị trường. Trong cơ chế thị trường, ngày càng

xuất hiện nhiều công ty tư nhân. Vì thế, cuộc cạnh tranh ngày càng khốc
liệt hơn. Đây là cuộc cạnh tranh nội bộ của mỗi ngành, mỗi công ty đều có
những chiến lược khác nhau để thu hút khách hàng và chiếm lĩnh thị
trường. Vì thế, các doanh nghiệp cũng rất cẩn thận trong việc lựa chọn mặt
hàng để sản xuất, rào cản ra nhập ngành càng lớn thì càng hấp dẫn các
doanh nghiệp.
3. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với phát triển kinh tế
3.1. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá với tăng trưởng kinh tế
Trong công thức tính GDP ta có:
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
GDP = I + C + G + XK - NK
Trong đó: I là đầu tư
C là chi tiêu dùng
G là chi tiêu của chính phủ
XK là xuất khẩu
NK là nhập khẩu
Ta thấy, xuất khẩu là một thành tố quan trọng trong GDP. Ngày nay với
xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò của ngoại thương càng trở nên
quan trọng. Xuất khẩu tạo nên nguồn vốn quan trọng để nhập khẩu máy
móc thiết bị, nguyên liệu, vật tư, xăng dầu, tiêu dùng phục vụ sản xuất và
đời sống. Ngoại tệ có được từ xuất khẩu hiện nay đã đóng góp trên 80%
hàng hoá nhập khẩu.
Nước ta chủ yếu là xuất khẩu sản phẩm thô, sản phẩm có lợi thế về lao
động nên xuất khẩu đã đóng góp rất nhiều trong việc giảI quyết việc làm và
tăng thu nhập cho người dân.
3.2. Xuất khẩu hàng hoá với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Khi xuất khẩu hàng hoá tăng lên, nó sẽ thu hút được nhiều lao động và
các nhà doanh nghiệp. Từ đó, có sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế do một số
người thay vì sản xuất hàng hoá trước đây mà chuyển sang sản xuất kinh

doanh mặt hàng xuất khẩu nhằm tăng doanh thu và tăng thu nhập. Cũng từ
đó sẽ xuất hiện nhiều hàng hoá bổ xung nhằm cung cấp sản phẩm hàng hoá
và dịch vụ để ngày càng hoàn thiện hơn cho sản phẩm. Khi nền kinh tế phát
triển ổn định, nó sẽ kéo theo các ngành công nghiệp khác cùng phát triển.
Như vậy, cơ cấu của nền kinh tế sẽ thay đổi cùng với sự phát triển của xã
hội.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
3.3. Xuất khẩu hàng hoá đối với việc giải quyết việc làm
Hiện nay, số người chưa có việc làm của Việt Nam khá cao. Để giải
quyết việc làm cho những người còn thiếu việc làm và thất nghiệp là một
nhiệm vụ cấp bách trong thời gian tới nhằm ổn định tình hình xã hội. Một
trong những giải pháp được đưa ra là đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Đây
là cơ hội cho những lao động có trình độ thấp làm việc trong những công ty
có sản phẩm xuất khẩu là sản phẩm thô do những hoạt động này cần nhiều
lao động giản đơn. Các mặt hàng được thị trường nước ngoài chấp nhận
càng nhiều thì càng tạo nhiều việc làm cho người lao động trong nước. Do
đó khâu nghiên cứu thị trường để tìm hiểu về nhu cầu sản phẩm của họ là
vấn đề rất quan trọng. Hiện nay, nước ta có một số mặt hàng xuất khẩu mũi
nhọn như là dệt may, thuỷ sản…trong thời gian qua đã có mức tăng trưởng
khá cao và đã thu hút được nhiều lao động vào làm. Với một mức tăng
trưởng của xuất khẩu cao, doanh nghiệp sẽ mở rộng được quy mô sản xuất,
tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương II
Thực trạng hoạt động xuất khẩu
mặt hàng kính xây dựng
I. Quá trình hình thành và phát triển của ngành kính xây dựng ở Việt
Nam

1. Quá trình hình thành và phát triển
Ngành kính xây dựng ở Việt Nam là một ngành còn non trẻ so với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Công ty sản xuất kính đầu tiên ở Việt
Nam là công ty kính Đáp Cầu thuộc tổng công ty Viglacera, được thành lập
vào năm 1990 theo quyết định của Bộ xây dựng. Công ty kính Đáp Cầu đã
được nhà nước phong tặng “anh hùng lao động” và được tổ chức TUV
CERT (TUV anlagente) cấp chứng chỉ hệ thống quản lý đạt tiêu chuẩn ISO
9001 : 2000. Trong quá trình phát triển công ty không ngừng mở rộng quan
hệ với các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài, thực hiện liên
doanh liên kết đẩy mạnh sản xuất phát triển, đa dạng hoá phát triển các mặt
hàng. Công ty kính Đáp Cầu chuyên sản xuất các loại mặt hàng kính xây
dựng: kính tấm xây dựng, kính an toàn, kính bảo ôn, kính dán, kính cán và
kính kéo ngang, kính cắt mài,… Công ty kính Đáp Cầu sử dụng máy móc
thiết bị tiên tiến, hiện đại trên thế giới để phục vụ cho quá trình sản xuất
kính: máy khoan, máy cắt, máy mài,…
Kính tấm là loại kính phẳng trong suốt, được sản xuất theo phương
pháp Foucault cải tiến trên hệ thống thiết bị hiện đại của Nga và Hàn Quốc.
Kính tấm được sử dụng rộng rãi trong xây dựng và trang trí nội thất: cửa
sổ, cửa di, mặt bàn,…kính có chiều dày 2- 8mm đáp ứng tiêu chuẩn TC 08-
94 tương đương với tiêu chuẩn KSL 2001- 86 của Hàn Quốc.
Sản phẩm kính bảo ôn của công ty kính Đáp Cầu được sản xuất theo
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
công nghệ tiên tiến của hãng Z.Bavelloni ( Italia). Kính bảo ôn gồm có hai
lớp kính tấm chất lượng cao, liên kết với nhau bởi một khung nhôm định
hình, bên trong thanh nhôm có các hạt chống ẩm, bên ngoàI khung nhôm
có bơm keo Silicol để gắn các tấm kính với nhau, khoảng giữa hai tấm kính
tạo chân không hoặc khí trơ. Vì vậy kính có ưu điểm: khả năng ngăn cách
tiếng ồn, khả năng cách nhiệt tốt, có khả năng tiết kiệm được 30% năng
lượng, tính thẩm mỹ cao. Năng suất: 15- 50m

2
/h.
Sản phẩm kính dán theo công nghệ Glassrobots OY của Phần Lan. Sản
phẩm gồm các tấm kính được dán sơ bộ với nhau bằng lớp keo PVB ở
nhiệt độ từ 30- 70
0
C, được dán và ép chặt trong thiết bị nồi hấp có áp lực
15 bar, nhiệt độ 150
0
C . Năng suất dây truyền 50- 80 m
2
/h, sản phẩm đạt
tiêu chuẩn DIN EN ISO: 12543- 1998- CHLB Đức.
Sản phẩm kính an toàn được sản xuất theo phương pháp tôi nhiệt trên
hệ thống thiết bị hiện đại của CHLB Đức và Nhật Bản. Sản phẩm kính an
toàn có độ bền gấp 4- 5 lần so với kính thường, chịu những rung động lớn,
va đập mạnh, có độ bền nhiệt cao. Khi vỡ tạo thành những mảnh nhỏ
không sắc cạnh, không gây nguy hiểm cho người sử dụng. Vì vây, sản
phẩm kính an toàn được sử dụng rộng rãi cho các phương tiện giao thông
vận tải: kính ô tô, tàu hoả, tàu thuỷ, cửa sổ nhà cao tầng, kính quan sát
trong các lò công nghiệp…Kính an toàn có nhiều loại: kính cong, kính
phẳng, kính trắng, kính màu, có chiều dày từ 4- 8mm. Chất lượng sản phẩm
đạt tiêu chuẩn Nhật Bản và Châu Âu.
Sản phẩm kính cán và kính kéo ngang là loại kính mới được sản xuất.
Năm 2003, công ty kính Đáp Cầu đã đưa vào vận hành hai dây truyền sản
xuất kính tấm, kính kéo ngang với công suất 100 tấn/ ngày đêm với các
thông số kỹ thuật chủ yếu sau:
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Kính hoa văn trang trí trắng và màu được sản xuất trên dây truyền hiện

đại và đồng bộ của CHLB Đức có chiều dày từ 3- 10 mm, có 3 loại: xanh lá
cây, xanh da trời, màu trà, với nhiều loại hoa văn sắc nét: kính ô ly trơn
hoa, kính hoa hải đường, vân mây, kim cương…phù hợp với tiêu chuẩn
DIN EN 572- 1996 CHLB Đức. Kích thước tấm kính Max: 3048*1524mm.
Kính tấm kéo ngang trắng, màu có chiều dày từ 2- 10mm có 3 màu:
xanh lá cây, xanh da trời, màu trà phù hợp với tiêu chuẩn nhà nước Trung
Quốc GB 4871- 1995. Kích thước tấm kính Max: 3300*2500mm
Kính thép loại hoa văn và trơn có chiều dày 7mm phù hợp với tiêu
chuẩn Nhật Bản JIS R3204- 81. Kích thước tấm kính Max: 2500*1500mm
Cùng với sự đI lên của đất nước, ngành kính xây dựng cũng không
ngừng phát triển. Nhu cầu về mặt hàng kính xây dựng tăng lên nhanh
chóng. Tổng công ty Viglacera cũng không ngừng đẩy mạnh hoạt động sản
xuất của các công ty, tổng công ty đã đầu tư thêm máy móc thiết bị phục vụ
cho việc sản xuất sản phẩm kính xây dựng. Năm 2001 công ty kính nổi ra
đời, công ty sản xuất theo công nghệ kính nổi- là công nghệ hiện đại nhất
hiện nay. Dây truyền sản xuất của công ty kính nổi được đầu tư thiết bị
đồng bộ, hiện đại từ khâu phối liệu, lò nấu, tạo hình, ủ, cắt, bẻ đến khâu
phụ trợ sản xuất như: điện, nước, khí bảo vệ đều được tự động hoá, điều
khiển bằng hệ thống điều khiển tiên tiến PLC và DCS của Mỹ, Đức, ý, với
phần mềm điều khiển do hãng EMERSON của Mỹ cung cấp. Công suất
thiết kế của công ty kính nổi là 350 tấn thuỷ tinh/ ngày. Với các sản phẩm
kính đa dạng về chủng loại, chiều dày và kích thước. Dây truyền công nghệ
hiện đại của công ty có thể sản xuất ra kính trắng và kính màu các loại có
độ dày từ 2- 12mm, với kích thước tấm kính nhỏ nhất là 1500*1200mm,
kích thước tấm kính lớn nhất là 3300*5500mm. Chất lượng sản phẩm kính
đạt tiêu chuẩn Nhật Bản JIS R3202- 1996 được dùng cho mục đích xây
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dựng và các sản phẩm sau kính như gương chất lượng cao, kính ô tô, kính
dán, kính mài, kính mờ…

2. Vai trò của ngành kính xây dựng trong điều kiện hiện nay
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có sự phát triển khá và ổn
định, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn trên 7%, song song với đó là sự phát
triển của các ngành công nghiệp với tốc độ tăng trưởng khá cao trên 10%,
các ngành công nghiệp kéo nhau cùng phát triển thông qua các “mối liên hệ
ngược” và “mối liên hệ xuôi”.
Theo mục tiêu của Đại hội Đảng IX Việt Nam sẽ trở thành một nước
công nghiệp vào năm 2020. Vì thế cần phải đẩy nhanh công nghiệp hoá đất
nước, ngành công nghiệp phải chiếm tỷ trọng lớn nhất trong 3 ngành: công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Nên vai trò của ngành công nghiệp xây
dựng nói chung và ngành công nghiệp kính xây dựng nói riêng là rất quan
trọng. Nhu cầu về kính xây dựng ngày càng cao phù hợp với quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá. Những sản phẩm của ngành kính như:kính bảo ôn,
kính an toàn, kính cán,…cùng với kiến trúc hiện đại sẽ tạo ra những công
trình nguy nga tráng lệ, tạo nên một diện mạo mới cho đất nước. Không
những vậy nó còn bảo vệ ngăn cản tiếng ồn, tăng khả năng cách nhiệt, tiết
kiệm năng lượng, bảo vệ an toàn cho công trình và con người. Vì vậy, nhu
cầu về kính xây dựng ngày càng cao. Để phục vụ cho sự phát triển, sản
phẩm kính sẽ thay thế dần cho các nguyên liệu như gỗ. Đây là những yếu
tố thúc đẩy ngành sản xuất kính phát triển. Các công ty trong nước cần phải
nắm bắt được cơ hội này để mở rộng sản xuất và phục vụ thị trường trong
và ngoài nước.
II. Thực trạng xuất khẩu mặt hàng kính xây dựng và gốm sứ thuỷ tinh.
1. Các mặt hoạt động của công ty
1.1. Chiến lược Marketing
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong điều kiện hiện nay, khi khoa học kỹ thuật và công nghệ có
những bước phát triển nhanh chóng, cùng với sự bùng nổ của công nghệ
thông tin và sức ép gay gắt của cạnh tranh thị trường, sự tồn tại của doanh

nghiệp không chỉ phụ thuộc vào khả năng thích ứng với những đột biến của
thị trường mà còn phụ thuộc rất lớn vào việc hoạch định chiến lược dài hạn
của kinh doanh. Công ty đã đưa ra những chiến lược chung nhằm giúp
công ty phát triển vững chắc, thực hiện mục tiêu phát triển của mình. Nó
đảm bảo những định hướng phát triển lâu dài và ổn định. Trước hết chúng
ta phải đánh giá được đối thủ cạnh tranh của mình. Đối thủ lớn nhất của
chúng ta là Trung Quốc, các mặt hàng của Trung Quốc đã tràn vào Việt
Nam, chiếm lĩnh thị trường làm cho lượng tiêu thụ các mặt hàng của Việt
Nam giảm. Các mặt hàng của Trung Quốc thường rẻ hơn so vơí chúng ta
rất nhiều và đa dạng về chủng loại, vì vậy để cạnh trạnh với hàng hoá
Trung Quốc không còn cách nào khác là giảm giá thành sản phẩm để cạnh
tranh. Nhưng để làm được điều đó thì rất khó, do đó chúng ta có thể chọn
cách thứ hai là làm khác biệt hoá sản phẩm tạo ra cho sản phẩm một nét
đặc trưng riêng biệt và phục vụ cho những thị trường khác nhau. Nhận biết
được vai trò của chiến lược Marketinh công ty đã thực hiện chiến lược một
cách toàn diện để tăng khả năng tìm hiểu thị trường của công ty.
Chiến lược Marketinh bao gồm các chiến lược bộ phận :
Chiến lược sản phẩm: Mục tiêu của chiến lược sản phẩm là tạo ra
những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng đáp ứng nhu cầu của
khách hàng. Trong thời gian qua, công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu đã
kết hợp với các công ty sản xuất thuộc Tổng công ty Viglacera và các công
ty trong nước như VFG, VIFG, Công ty kính Đáp Cầu, công ty kính nổi
Bình Dương…đã không ngừng đẩy nhanh sản xuất và đa dạng hoá các loại
sản phẩm, đưa ra nhiệu loại mặt hàng mới ra thị trường với đủ các loại kích
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

×