Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh lý ở gà Ai Cập mắc bệnh Cầu trùng (Coccidiosis) và đề xuất biện pháp phòng, trị bệnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.29 MB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA THÚ Y

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài
“ NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM BỆNH LÝ Ở
GÀ AI CẬP MẮC BỆNH CẦU TRÙNG
(COCCIDIOSIS) VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP PHÒNG,
TRỊ BỆNH.”
Người thực hiện : ĐỖ HUYỀN TRANG
Lớp : TYC –K52
Khoa: Thú y
Người hướng dẫn : TS. BÙI TRẦN ANH ĐÀO
Bộ môn : BỆNH LÝ THÚ Y
HÀ NỘI - 2012
2
LỜI CÁM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường Đại học Nông
Nghiệp Hà Nội, nhờ sự dạy dỗ của các thầy cô giáo, đặc biệt là các thầy cô
trong khoa Thú Y, tôi đã được trang bị những kiến thức cơ bản về chuyên môn
nghề nghiệp và tư cách đạo đức của một người cán bộ khoa học kỹ thuật
tương lai. Với những kiến thức tích luỹ được, cùng với sự hướng dẫn tận tình
của TS. Bùi Trần Anh Đào, tôi đã hoàn thành đề tài tốt nghiệp của mình.
Tôi xin gửi lời cám ơn chân thành nhất tới:
TS. Bùi Trần Anh Đào – Cán bộ giảng dạy bộ môn Bệnh lý khoa Thú
Y, trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội, thầy đã luôn quan tâm, hướng dẫn và
chỉ bảo tận tình cho tôi trong suốt quá trình thực tập, giúp tôi hoàn thành tốt
đề tài của mình.
Các thầy cô trong bộ môn Bệnh lý – khoa Thú Y, trường Đại học Nông
Nghiệp Hà Nội đã tạo những điều kiện tốt nhất để tôi tiến hành nghiên cứu,
thực hiện đề tài.


Bác Đào Xuân Hải – chủ trang trại Hải Đồi – Kim Long – Tam Dương
– Vĩnh Phúc đã nhiệt tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập tại trại,
giúp tôi tích luỹ thêm những kiến thức thực tế hữu ích.
Hà Nội, ngày 30 tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Đỗ Huyền Trang

i
MỤC LỤC
LỜI CÁM ƠN i
MỤC LỤC ii
DANH MỤC BẢNG v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ vi
DANH MỤC HÌNH vii
PHẦN I
MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục đích của đề tài 2
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ BỆNH CẦU TRÙNG Ở GÀ 3
2.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 3
2.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 5
2.2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA CẦU TRÙNG 7
2.2.1. Cấu trúc của Oocyst cầu trùng 7
2.2.2. Các loài cầu trùng ký sinh ở gà 7
2.2.3. Vòng đời của Cầu trùng 9
2.2.4. Tính chuyên biệt của Cầu trùng 12
2.2.5. Dịch tễ học bệnh Cầu trùng 13
2.2.6. Miễn dịch học bệnh Cầu trùng gà 14

2.2.7. Sinh bệnh học 16
2.2.8. Triệu chứng và bệnh tích của gà mắc bệnh Cầu trùng 17
2.2.9. Các phương pháp chẩn đoán bệnh Cầu trùng gà 19
PHẦN III
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26
3.1. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU 26
3.1.1. Địa điểm nghiên cứu 26
3.1.2. Thời gian nghiên cứu 26
3.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 26
3.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 26
3.3.1. Theo dõi tình hình bệnh Cầu trùng trên đàn gà Ai Cập tại trại gia
cầm Hải Đồi 26
3.3.2. Theo dõi triệu chứng lâm sàng và bệnh tích gà Ai Cập mắc bệnh
Cầu trùng 26
ii
3.3.3. Xác định tỷ lệ nhiễm, cường độ nhiễm và một số loài Cầu trùng
gây bệnh phổ biến trên đàn gà Ai Cập 27
3.3.4. Xây dựng quy trình phòng và điều trị bệnh Cầu trùng cho đàn gà
27
3.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 27
3.4.1. Tìm hiểu tình hình chăn nuôi và điều tra dịch tễ học bệnh Cầu
trùng trên giống gà Ai Cập tại xã Kim Long – huyện Tam Dương 27
3.4.2. Theo dõi, quan sát biểu hiện triệu chứng lâm sàng ở gà Ai Cập
mắc bệnh Cầu trùng 27
3.4.3. Quan sát bệnh tích gà Ai Cập mắc bệnh Cầu trùng 27
3.4.4. Xác định tỷ lệ nhiễm, cường độ nhiễm và các loài Cầu trùng gây
bệnh phổ biến trên 3 đàn gà bằng phương pháp xét nghiệm phân tìm
noãn nang Cầu trùng 27
3.4.5. Làm tiêu bản vi thể kiểm tra mức độ tổn thương tổ chức của gà

mắc Cầu trùng 29
PHẦN IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 33
4.1. TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI GÀ TẠI TRẠI GIA CẦM HẢI ĐỒI – KIM
LONG – TAM DƯƠNG – VĨNH PHÚC 33
4.2. TÌNH HÌNH BỆNH CẦU TRÙNG TRÊN GÀ AI CẬP TẠI TRẠI GIA
CẦM HẢI ĐỒI – KIM LONG – TAM DƯƠNG – VĨNH PHÚC 33
4.2.1. Tỷ lệ nhiễm và tỷ lệ chết do bệnh Cầu trùng trên gà Ai Cập 34
4.2.2. Cường độ nhiễm Cầu trùng trên gà Ai Cập 35
4.2.3. Các loài Cầu trùng gây bệnh ở gà Ai Cập từ 1 – 90 ngày tuổi 37
4.3. MỘT SỐ TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG VÀ BỆNH TÍCH CỦA GÀ
MẮC BỆNH CẦU TRÙNG 40
4.3.1. Một số triệu chứng lâm sàng chủ yếu ở gà mắc bệnh Cầu trùng. .40
4.3.2. Bệnh tích đại thể của gà Ai Cập mắc bệnh Cầu trùng 40
4.3.3. Bệnh tích vi thể chủ yếu ở gà mắc bệnh Cầu trùng 46
4.4. ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH CẦU TRÙNG CHO
GÀ AI CẬP 49
4.4.1. Biện pháp phòng bệnh Cầu trùng 49
4.4.2. Biện pháp trị bệnh Cầu trùng 49
4.4.3. Đánh giá hiệu lực của thuốc điều trị Cầu trùng 50
PHẦN V
KẾT LUẬN – ĐỀ NGHỊ 53
5.1. KẾT LUẬN 53
5.2. ĐỀ NGHỊ 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 55
iii
iv
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Một số loại thuốc điều trị Cầu trùng đang lưu hành ở Việt
Nam 25

Bảng 4.1. Cơ cấu đàn gà tại trại gia cầm Hải Đồi 33
Bảng 4.2: Tỷ lệ nhiễm và tỷ lệ chết do bệnh Cầu trùng
trên gà Ai Cập từ 1 – 90 ngày tuổi 34
Bảng 4.3: Cường độ nhiễm Cầu trùng trên gà Ai Cập từ 1 – 90 ngày
tuổi 36
Bảng 4.4: Các loài Cầu trùng gây bệnh trên đàn gà tại trại Hải Đồi
38
Bảng 4.5: Tỷ lệ nhiễm 5 loài Cầu trùng trên gà Ai Cập 38
Bảng 4.6: Tỷ lệ biểu hiện bệnh tích đại thể trên gà Ai Cập
mắc Cầu trùng 41
Bảng 4.7. Một số phác đồ điều trị Cầu trùng gà tại trại 50
Bảng 4.8. Tỷ lệ xuất hiện noãn nang Cầu trùng trong phân
sau khi sử dụng thuốc điều trị 51
v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 4.1. Tỷ lệ nhiễm và tỷ lệ chết do bệnh Cầu trùng
trên gà Ai Cập từ 1 – 90 ngày tuổi 35
Biểu đồ 4.2. Cường độ nhiễm Cầu trùng trên gà Ai Cập
từ 1 – 90 ngày tuổi 37
Biểu đồ 4.3. Tỷ lệ nhiễm 5 loài Cầu trùng trên gà Ai Cập tại trại
39
Bảng 4.4. Tỷ lệ bệnh tích đại thể trên gà Ai Cập mắc Cầu trùng 44
vi
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Vòng đời phát triển của Cầu trùng 11
Hình 4.1. Một số triệu chứng lâm sàng và bệnh tích đại thể
trên gà Ai Cập mắc Cầu trùng 45
Hình 4.2. Hình ảnh bệnh tích vi thể trên gà Ai Cập mắc Cầu
trùng 48
vii

PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Chăn nuôi gia cầm là nghề chăn nuôi truyền thống ở nước ta. Sản phẩm
gia cầm như thịt, trứng với giá trị dinh dưỡng cao đã trở thành những loại
thực phẩm thiết yếu trong mỗi bữa ăn của gia đình Việt. Để đáp ứng nhu cầu
tiêu thụ ngày càng cao trên thị trường, ngành chăn nuôi gia cầm đang ngày
càng phát triển mạnh mẽ cả về số lượng cũng như chất lượng, đem lại thu
nhập đáng kể cho người chăn nuôi, đóng góp một phần không nhỏ cho sự
phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng và xây dựng đất nước nói chung.
Người chăn nuôi hiện nay đang đặc biệt chú trọng đầu tư cho chăn nuôi
gà với nhiều giống gà và hướng chuyên dụng khác nhau, quy mô và hình thức
chăn nuôi cũng rất phong phú. Gà Ai Cập là một trong những giống gà hướng
trứng đang được nuôi phố biến trong những năm gần đây do cho năng suất
trứng cao và chất lượng trứng tốt. Gà Ai cập được nhập vào nước ta tháng
4/1997, có năng suất trứng đạt 200 – 220 quả/năm, tỷ lệ lòng đỏ cao, mùi vị
thơm ngon. Gà Ai Cập có tầm vóc nhỏ, nhanh nhẹn, thịt chắc, chân cao, tiết
diện hình nêm thể hiện rõ hướng chuyên dụng trứng.
Chăn nuôi với số lượng đàn càng lớn, người chăn nuôi càng cần chú
trọng tới khâu phòng và điều trị bệnh để tránh gây ra những thiệt hại về kinh
tế. Do đó, nắm rõ quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng chống bệnh cho
đàn gà, chăn nuôi sẽ đạt được hiệu quả cao nhất.
Tình hình dịch bệnh luôn diễn biến rất phức tạp. Ngoài những bệnh
truyền nhiễm nguy hiểm, bệnh kí sinh trùng cũng tác động một phần không
nhỏ tới chất lượng cũng như hiệu quả chăn nuôi. Đặc biệt nguy hiểm là bệnh
1
cầu trùng gà (Coccidiosis) do tính chất lây lan nhanh, mạnh, tỷ lệ chết rất cao
nếu không được phát hiện và can thiệp kịp thời.
Bệnh cầu trùng gà do ký sinh trùng đơn bào gây ra, chúng phát triển
trong đường ruột và gây ra những tổn thương mô, ảnh hưởng tới việc ăn, tiêu

hóa và hấp thu dưỡng chất, sự khử nước, mất máu và làm tăng tính mẫn cảm
với các tác nhân gây bệnh khác. Bên cạnh đó bệnh còn làm giảm sức đề
kháng của đàn gà, mở đường cho các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khác xâm
nhập và bùng phát như Gumboro, Newcastle, E.coli…
Do tính chất nguy hiểm của bệnh nên đã có rất nhiều nghiên cứu khoa học
trên thế giới cũng như ở Việt Nam để chế tạo vaccine phòng bệnh cầu trùng
và cũng có nhiều loại vaccine được sản xuất, lưu hành. Tuy nhiên hiệu lực
phòng bệnh chưa cao, chưa đem lại kết quả như mong đợi. Do đó, việc phòng
và điều trị bệnh bằng thuốc vẫn giữ vị trí quan trọng, hạn chế đáng kể thiệt hại
của bệnh trong quá trình chăn nuôi.
Xuất phát từ các vấn đề trên, đồng thời để hiểu rõ hơn ảnh hưởng của
tác nhân gây bệnh đến cơ thể ký chủ và tìm ra biện pháp hiệu quả để phòng
chống bệnh, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“ Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh lý ở gà Ai Cập mắc bệnh Cầu trùng
(Coccidiosis) và đề xuất biện pháp phòng, trị bệnh.”
1.2. Mục đích của đề tài
Xác định các đặc điểm bệnh lý chủ yếu (lâm sàng, đại thể, vi thể) ở gà
Ai Cập mắc bệnh Cầu trùng làm cơ sở cho việc chẩn đoán, phòng và điều trị
bệnh.
2
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ BỆNH CẦU TRÙNG Ở GÀ
2.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Năm 1863, Rivolta phát hiện ra một loại ký sinh trùng có trong phân
gà. Năm 1864, Eimeria đã xác đinh được đó là loài nguyên sinh động vật sinh
sản theo bào tử thuộc lớp Sprotozoa, bộ Coccidie, họ Eimeriadae.
Năm 1875, người ta đã xác định kết quả nghiên cứu của Eimeria và
đặt tên cho loại ký sinh trùng này là Eimeria. Ngày nay, nhiều loài cầu
trùng được phát hiện trên các loài động vật khác nhau. Sự ký sinh của cầu

trùng có tính chất chuyên biệt trên mỗi ký chủ, thậm chí trên các cơ quan,
mô bào nhất định.
Những loài thuộc giống Eimeria thường gây tổn thương ở đường ruột,
niêm mạc bị viêm, xuất huyết. Bệnh làm cho gà tăng trưởng kém, còi cọc,
chậm lớn, suy yếu và tiêu tốn thức ăn cao. Hàng năm, chi phí cho thuốc
phòng ngừa bệnh lên đến 90 triệu USD tại Mỹ, ở Ý là 20 triệu Lia, ở Hungary
là 15 triệu Forin …
Levine at al (1980) ( dẫn theo Lương Văn Huấn và cộng sự, 1997 ) đã
phân loại cầu trùng ký sinh ở gà như sau:
Ngành nguyên sinh động vật Protozoa
Phân ngành Apicomplexa
Phân lớp Coccidiasina
Bộ Eucoccidiorida
Phân bộ Eimeriorina
Họ Eimeriidea
Giống Eimeria Schneider, 1875.
3
Cho tới nay, thế giới đã xác định được 12 loài Eimeria. Theo Schrieider
(1881), có 9 loại cầu trùng gây nhiễm cho gà đã được xác định rõ tên, kích
thước, mầu sắc. Đó là:
Eimeria tenella ( Railliet và Lucet, 1891)
Eimeria acervulina, Eimeria maxima, Eimeria mitis (Tyzzer, 1929)
Eimeria necatrix, Eimeria praecox ( Jonhson, 1930)
Eimeria hagani ( Levine, 1938)
Eimeria brunetti ( Levine, 1942)
Eimeria mivati (Edgar và Siebol, 1969)
Một số tác giả ở Trung Âu và Liên Xô như Yakimoff, Kotlan đã đưa ra
một số công bố về 3 loài: Eimeria beachi, Eimeria tyzzeri, Eimeria Johnsoni.
Sau những năm 1990, các nhà khoa học như J.Eckert, R.Brawn,
M.W.Shirley và P.Coudert đã viết những hướng dẫn nghiên cứu về cầu trùng

và bệnh cầu trùng gà.
Nghiên cứu tính miễn dịch của Cầu trùng, Tyzzer (1929) cho biết: miễn
dịch được tạo ra tương đối bền vững với loài phát triển sâu trong mô bào,
miễn dịch kém bền vững với loài Cầu trùng chỉ phát triển trong lớp biểu bì
niêm mạc.
Năm 1962, Rose M.E và cộng sự đã chứng minh được tính miễn dịch
đặc hiệu theo loài rất nghiêm ngặt ở Eimeria bằng phương pháp kết tủa.
Singh.U.M (1996, 1997) đã nghiên cứu chế tạo vaccine cầu trùng mới
bao gồm: E.maxima, E. acervulina, E.necatrix, E. tennella đã được sử dụng
thử nghiệm tại Trung Quốc.
Nyberg và Knapp (1976) qua kính hiển vi điện tử cho thấy, lớp ngoài cùng
có thể khử bằng dung dịch Sodium Hypocloride 2 – 3% trong vòng 15 phút.
Pernard (1925) đã chứng minh noãn nang tiếp tục sinh bào tử sau nhiều
ngày tiếp xúc với nhiều loại hóa chất, chất sát trùng nhưng lại không có khả
năng phát triển trong điều kiện khô và nhiệt độ cao.
4
Long P.L và cs (1979) cho rằng Oocyst có thể tồn tại qua mùa đông giá
lạnh nhưng không chịu được nhiệt độ cao và ánh nắng chiếu trực tiếp.
Glullough.N (1952) cho biết, ở nhiệt độ cao Oocyst có khả năng đề
kháng như nhau. Chúng đều bị tiêu diệt ở 40
0
C/ 96 giờ, ở 45
0
C/ 3 giờ và ở
50
0
C/ 30 phút. Khi Oocyst theo phân ra ngoài môi trường, ẩm độ có vai trò
quan trọng ảnh hưởng đến thời gian hình thành bào tử và khả năng tồn tại của
Oocyst Cầu trùng.
Ellis C.C (1986) cho biết, khi nhiệt độ không thay đổi, Oocyst sẽ bị

chết khi ẩm độ giảm. Nhiệt độ từ 18 – 40
0
C, ẩm độ 21 – 30% thì Oocyst dễ bị
chết sau 4 – 5 ngày.
Horton Smith (1963) đã nghiên cứu và cho thấy, Cầu trùng sống ở sân
chơi ngoài trời 14 tuần và tồn tại lâu trong đất ở độ sâu 5 – 7 cm. Ở trong đất,
Oocyst duy trì sức sống từ 4 – 9 tháng, ở sân chơi râm mát từ 15 – 18 tháng.
Theo nghiên cứu của Fish (1932) trong phòng thí nghiệm cho thấy,
Oocyst bị tiêu diệt khi chiếu tia tử ngoại vừa phải.
2.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, bệnh cầu trùng được đi sâu nghiên cứu từ những năm đầu
thập kỷ 70, khi mà chăn nuôi gà theo hướng công nghiệp phát triển mạnh.
Theo Dương Công Thuận (1973), có 4 loại cầu trùng gậy bệnh ở các
trại gà: E. tenella, E. maxima, E. mitis, E. necatrix.
Đào Hữu Thanh (1975) đã nghiên cứu về bệnh cầu trùng gà ở các trang
trại nuôi tập trung công nghiệp và đưa ra một số kết quả về tình hình dịch tễ
của bệnh cầu trùng gà.
Hồ Thị Thuận (1985) cho biết, gà nuôi công nghiệp ở một số trại gà
phía Nam nhiễm 5 loại cầu trùng: E. tenella, E. maxima, E. mitis, E. necatrix,
E. brunetti.
5
Phạm Văn Chức và cs (1991) đã tìm thấy 4 loài: E. tenella, E. maxima,
E. mitis, E. necatrix và đã thử nghiệm sản xuất vaccine phòng bệnh cầu trùng
bằng phương pháp chiếu xạ gamma với 4 loại này.
Lê Tuyết Minh (1994) đã nghiên cứu về tình hình nhiễm Eimeria và
bệnh cầu trùng gà ở một số trại gà tại một vài vùng của Hà Nội đã xác định có
4 loại cầu trùng trên gà thịt là E. tenella, E. maxima, E. mitis, E. necatrix.
Hoàng Thạch (1999) xác định rằng, có 6 loại cầu trùng ký sinh ở gà tại
TP. Hồ Chí Minh và một số vùng phụ cận, đó là các loài: E. tenella, E.
maxima, E. mitis, E. necatrix, E. brunetti, E. acervulina.

Lê Văn Năm (2003) cho biết, nhiệt độ thích hợp cho quá trình phát
triển bào tử nang ngoài cơ thể là 15 – 35
0
C, bào tử nang sẽ chết ở nhiệt độ
lạnh – 15
0
C và nóng > 40
0
C. Môi trường ẩm ướt, nhiệt độ vừa phải trong
khoảng 22 – 23
0
là điều kiện thuận lợi cho Cầu trùng phát triển, ở nhiệt độ
này chỉ mất 16 – 18 giờ để Cầu trùng phát triển thành bào tử nang, khi đã hình
thành bào tử nang, chúng tồn tại rất lâu trong môi trường thiên nhiên, hàng
năm hoặc lâu hơn, chúng chịu được tất cả các chất khử trùng, tiêu độc, các tác
động lý hóa …
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và Trần Thu Nga (2005), tỷ lệ và cường độ
nhiễm cầu trùng có sự khác nhau theo tình trạng vệ sinh thú y trong chăn
nuôi. Gà nuôi trong điều kiện vệ sinh kém có tỷ lễ nhiễm cao nhất.
Bệnh Cầu trùng thường xảy ra vào muà hè và mùa xuân. Tuy nhiên,
vào mùa thu và mùa đông bệnh vẫn có thể xảy ra ở các trại chăn nuôi lớn, có
mật độ đông và chăm sóc vệ sinh kém. Theo trung tâm nghiên cứu gia cầm
Trung ương, mùa xuân có tỷ lệ nhiễm là 30,6%, mùa hè là 12,14%, mùa đông
là 7,25%.
6
2.2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA CẦU TRÙNG
2.2.1. Cấu trúc của Oocyst cầu trùng
Oocyst (noãn nang) cầu trùng có nhiều hình dạng khác nhau: hình cầu,
gần tròn, hình trứng hay hình ovan, có khi có hình quả lê, … kích thước cũng
khác nhau thay đổi theo từng loài. Tuy nhiên, phần lớn Oocyst cầu trùng có

đặc điểm cấu tạo như sau:
Oocyst màu sáng hoặc không màu, màu vàng nhạt hoặc nâu nhạt. Lớp
vỏ ngoài thường nhẵn, có loài xù xì (E. spinosa). Vỏ được chia thành 2 lớp:
Vỏ ngoài dày, vỏ trong mỏng. Vỏ ngoài và vỏ trong có thể tách rời nhau bằng
cách làm nóng Oocyst ở trong nước hoặc xử lý bằng acid sulfuric.
Vỏ ngoài là lớp quinonon protein, vỏ trong là lớp Lipid kết hợp với Protein để
tạo nên khúc xạ kép (Lipoprotein). Lớp trong của vỏ Oocyst chiếm 80% gồm:
Một lớp Glycoprotein (dày 90µm), được bao bọc bởi một lớp Lipid dày
10µm. Lớp Lipid chủ yếu là Phospho lipid, chính lớp này bảo vệ Oocyst cầu
trùng chống lại sự tấn công về mặt hóa học.
Một số loại cầu trùng ở phía đầu nhọn có một cái nắp khúc xạ được gọi
là Micropyle cap. Micropyle là vị trí có khe hở của màng bao quanh
Macrogamete khi thụ tinh. Sau khi thụ tinh thì khe hở đóng lại và vì vậy
nhiều loài cầu trùng không thấy Micropyle nữa.
2.2.2. Các loài cầu trùng ký sinh ở gà
Cầu trùng được phân loại dựa vào các đặc điểm sau:
1. Vùng tổn thương gây ra ở ruột
2. Tổng thể sự xuất hiện các tổn thương
3. Hình thái của Oocyst cầu trùng
4. Thời gian tối thiểu để hình thành bào tử
5. Thời gian ngủ tối thiểu
6. Kích thước và vị trí phát triển của Schizont
7. Vùng ký sinh ở biểu mô vật chủ
7
8. Kiểm tra sự miễn dịch chéo
Trong 12 loài Eimeria, 9 loài đã được xác định hình thái, cấu trúc, màu sắc,
kích thước như sau:
1. Eimeria tenella ( Raillet và Sucet, 1891)
Là loài cầu trùng phổ biến nhất, có độc lực cao, noãn nang hình trứng, vỏ bọc
màu xám trắng hoặc xanh nhạt, kích thước 14,2 – 31,2 x 9,5 – 24,8 µm.,

không có lỗ noãn. Thời gian hình thành bào tử nang kéo dài 24 – 48h. Phát
triển nội sinh ở manh tràng và có thể ở các phần ruột khác, phá hủy màng
niêm mạc gây chảy máu.
2. Eimeria praecox (Johnson, 1930)
Là loài cầu trùng có độc lực yếu, noãn nang hình bầu dục, không màu, kích
thước 10,6 – 27,7 x 14,8 – 19,4 µm, không có lỗ noãn. Thời gian hình thành
bào tử từ 24 – 36h. Phát triển nội sinh tại tế bào biểu bì lớp niêm mạc phần
đầu ruột non.
3. Eimeria necatrix (Johnson, 1930)
Là loài Cầu trùng có độc lực cao, song mức phổ biến và khả năng gây bệnh
của nó thấp hơn Eimeria tenella. Noãn nang có hình tròn hoặc Ovan, nhân
phân hạt, kích thước 13,0 – 22,7 x 11,3 – 18,3 µm, vỏ cứng. Bào tử nang hình
thành trong 48h. Cầu trùng ký sinh chủ yếu ở ruột non ngay sau tá tràng. Gà
con từ 2 – 5 tuần tuổi cảm thụ mạnh nhất với loài cầu trùng này.
4. Eimeria mitis (Tyzzer, 1929)
Là loài Cầu trùng có độc lực yếu. Noãn nang có hình tròn hoặc gần tròn, vỏ
bọc không màu, kích thước 11,0 – 19,0 x 10,0 – 17,1 µm. Thời gian hình
thành bào nang trong môi trường bên ngoài là 48h. Chúng ký sinh ở phần đầu
của ruột non: Tá tràng và phần dưới tá tràng.
5. Eimeria maxima (Tyzzer, 1929)
Là loài có độc lực gây bệnh nhẹ và trung bình. Noãn nang hình trứng hoặc
hình Ovan, vỏ bọc xù xì, màu vàng nhạt, kích thước 21,4 – 42,5 x 16,5 – 29,8
8
µm. Thời gian sinh bào tử là 30 – 18 giờ. Cầu trùng ký sinh trong các tế bào
biểu mô bề mặt và các lớp sâu của cơ ruột non, ký sinh ở phần giữa ruột non
là chủ yếu.
6. Eimeria brunetti (Levine, 1942)
Là loài có độc lực cao gần như E. tenella và E. necatrix. Noãn nang có hình
bầu dục, không màu, kích thước 20,7 – 30,3 x 18,1 – 24,2 µm. Thời gian sản
sinh bào tử là 24h. Trong nang trứng có một cực hay một số hạt cực, trong

thời kỳ nội sinh phát triển chủ yếu trong ruột già, phần cuối ruột non, trực
tràng, lỗ huyệt cũng có thể bị nhiễm.
7. Eimeria acervulina (Tyzzer, 1929)
Là loài có độc lực yếu. Noãn nang hình trứng hoặc hình Ovan, vỏ bọc nhẵn,
kích thước 17,7 – 20,2 x 13,7 – 16,3 µm. Thời gian hình thành bào tử nang ở
bên ngoài là 24 giờ. Chúng ký sinh chủ yếu ở tá tràng gây ra viêm cấp tính.
8. Eimeria mivati (Levine, 1938)
Là loài có độc lực yếu. Noãn nang hình trứng hoặc hình bầu dục, khồng màu,
một trong hai đầu có lỗ noãn, kích thước 10,7 – 20,0 x 10,1 – 15,3 µm. Thời
gian sản sinh bào tử là 18 – 24 giờ. Thời kỳ phát triển nội sinh của Cầu trùng
gây tổn thương tế bào biểu mô nhung mao, tạo những khe, hốc trên ruột non.
9. Eimeria hagani (Levine, 1938)
Là loài có độc lực yếu, nang trứng hình bầu dục, lớp vỏ nhẵn, không màu,
không có lỗ noãn, có hạt cực, kích thước 15,8 – 20,5 x 14,3 – 19,5 µm, phát
triển nội sinh chủ yếu trong tá tràng. Thời gian sản sinh bào tử là 24 – 48 giờ.
Ký sinh ở phần đầu ruột non.
2.2.3. Vòng đời của Cầu trùng
Coccidae là một loại nội ký sinh trong tế bào vật chủ nhưng lại có quá
trình sinh trưởng, phát triển hết sức phức tạp.
Vòng đời phát triển của Cầu trùng Eimeria gồm 3 giai đoạn:
9
Giai đoạn 1 : Sinh sản vô tính (Schizogonie)
Giai đoạn 2 : Sinh sản hữu tính (Gametogonie)
Giai đoạn 3: Hình thành bào tử từ noãn nang (Sporogonie)
Giai đoan 1 và 2 xảy ra trong tế bào biểu mô vật chủ. Giai đoạn 3 xảy ra ở
môi trường bên ngoài cơ thể.
Giai đoạn 1:
Khi các bào tử nang Cầu trùng xâm nhập vào cơ thể gà qua đường tiêu hóa,
dưới tác dụng của dịch tiêu hóa, vỏ nang bị phá hủy, giải phóng các bào tử
thể. Các bào tử thể nhanh chóng xâm nhập vào trong các tế bào biểu mô ruột,

thận, mật,… đôi khi vào mô bào dưới niêm mạc. Tại đây, cùng với sự phân
chia của hạt nhân, các bào tử thể lớn lên nhanh chóng, có hình tròn, hình ovan
hoặc hình elip với nhiều nhân gọi là thể phân lập thuộc thế hệ 1 (Schizont 1).
Schizont 1 tiến hành phân chia nguyên sinh chất tạo ra nhiều tế bào có hình
elip dài được gọi là Merozoite. Các Merozoite sinh trưởng rất nhanh làm tan
vỡ tế bào biểu mô vật chủ. Khi các tế bào biểu mô nơi cư trú bị phá hủy, các
Merozoite lập tức tấn công sang các tế bào biểu mô mới và quá trình phát
triển này được lặp lại như cũ. Đến đây, các ký sinh này thuộc thế hệ thứ 2 và
được goại là Schizont 2. Tùy theo chủng Cầu trùng và loại vật chủ mà có thể
hình thành tiếp các thế hệ Schizont 3, Schizont 4, … một cách ồ ạt theo cấp số
nhân kiểu dây chuyền nguyên tử làm cho hàng loạt tế bào biểu mô của vật chủ
bị phá vỡ, gây tổn thương nặng nề cho niêm mạc nơi bị phơi nhiễm.
Giai đoạn 2:
Khi các Schizont thuộc thế hệ cuối cùng được hình thành thì chúng bắt đầu
định hướng phát triển thành giao tử đực (Microgamete) và giao tử cái
(Macrogamete). Giao tử đực hình quả lê, kích thước nhỏ, một đầu có vòi sinh
dục. Giao tử cái có kích thước lớn hơn, ít chuyển động hơn, có một lỗ sinh
dục gọi là Micropyle. Giao tử đực chui qua lỗ Micropyle vào giao tử cái để
10
hình thành hợp tử. Sau đó hợp tử rơi vào lòng ruột biến thành một noãn nang
chưa chín gọi là Oocyst.
Giai đoạn 3:
Noãn nang (Oocyst) sau khi được bài xuất theo phân ra ngoài môi trường sẽ
hình thành bào tử. Do tác động của các yếu tố môi trường, các noãn nang hình
thành một lớp vỏ bọc cứng giúp cho chúng có thể tồn tại lâu trong tự nhiên.
Mỗi noãn nang hình thành 4 bào tử nguyên bào, trong mỗi bào tử nguyên bào
lại có 2 bào tử thể. Noãn nang khi có đủ 8 bào tử thể hoàn chỉnh sẽ có khả
năng gây nhiễm bệnh cho gà.
Hình 2.1. Vòng đời phát triển của Cầu trùng
11

2.2.4. Tính chuyên biệt của Cầu trùng
Theo Dougald L.M và Reid W.M (1986), bệnh Cầu trùng khác với các
bệnh do vi khuẩn và virus về bản chất tự giới hạn trong quá trình sinh trưởng
và phát triển của nó. Điều đó có được là do tính chuyên biệt của Cầu trùng.
Tính chuyên biệt của Cầu trùng là sự thích nghi phức tạp và lâu dài của
Cầu trùng với cơ thể ký chủ hoặc cụ thể hơn đối với các cơ quan, mô bào hay
tế bào nhất định phù hợp cho sự tồn tại và phát triển của chúng (Lê Văn Năm
(2003) )
Thời gian gần đây, có nhiều dẫn chứng chứng tỏ rằng : Giống Cầu
trùng Eimeria có tính chuyên biệt nghiêm ngặt và chỉ có thể nhiễm vào loại
ký chủ mà chúng đã thích nghi trong quá trình tiến hóa. Ví dụ như các loài
Cầu trùng cừu không thể nhiễm sang trâu, bò và các loài gia súc khác được.
Cầu trùng thỏ chỉ ký sinh ở thỏ mà không gây bệnh cho các loài khác. Cầu
trùng gà không gây bệnh cho gà tây và ngược lại.
Theo N.A.Kolapxki và cs (1980), tính chuyên biệt của Cầu trùng giống
Eimeria biểu hiện không chỉ đối với ký chủ của chúng mà còn đối với nơi
chúng ký sinh trong cơ thể gia súc. Ví dụ : E.tenella chỉ sống trong màng
niêm mạc manh tràng gà, còn E.acervulina trong tá tràng của gà,
E.bukidnonensis ký sinh ở niêm mạc ruột non bò trong khi E.cylindrica cũng
ở ký sinh trong đường tiêu hóa của bò nhưng lại ký sinh ở niêm mạc ruột già.
Tính chuyên biệt của Cầu trùng biểu hiện rõ rệt ở giống Eimeria, tính
chuyên biệt đó được hình thành trong quá trình thích ứng lâu dài của ký sinh
trùng đối với một ký chủ nhất định cũng như đối với từng cơ quan, mô bào
riêng biệt.
Như vậy, tùy theo loại Cầu trùng mà chúng có thể sống ở trên vật chủ
này hay vật chủ khác, hoặc các vị trí ký sinh khác nhau trên cùng một cơ thể.
Điều này có ý nghĩa quan trọng giúp phân loại Cầu trùng được chính xác.
12
2.2.5. Dịch tễ học bệnh Cầu trùng
Tuổi mắc bệnh: Bệnh thường xảy ra ở những đàn nằm trong độ tuổi 10

– 90 ngày, nhưng nặng nhất là ở gà con từ 18 – 45 ngày tuổi.
Bệnh Cầu trùng gà rất phổ biến, hầu như không có đàn gà nào không bị nhiễm
một trong các loài thuộc giống Eimeria. Bệnh chủ yếu xảy ra đối với gà con,
gà dò, gà mới trưởng thành.
Thời gian ủ bệnh ngắn từ 4 – 7 ngày phụ thuộc vào chủng loại Cầu trùng, nơi
khu trú và mức độ nhiễm bệnh, số lượng căn nguyên xâm nhập vào cơ thể và
tình trạng sức khỏe của đàn gà.
Đường truyền lây:
- Lây nhiễm trực tiếp: Gà nhiễm Cầu trùng do nuốt phải noãn nang Cầu trùng
có sức gây nhiễm. Những noãn nang này có từ phân gà nhiễm và phân bố
nhiều ở nền chuồng, sân chơi, dụng cụ chăn nuôi.
Gà ốm và gà khỏi bệnh mang trùng là nguồn bệnh tiềm tàng lâu dài, nguy
hiểm nhất.
- Lây nhiễm gián tiếp: Vật môi giới trung gian truyền bệnh như chuột,
chó, mèo, chim sẻ và một số côn trùng có thể mang mầm bệnh từ đàn này
sang đàn khác hoặc qua các dụng cụ chăn nuôi, người chăn nuôi, giầy dép,
phương tiện vẫn chuyển, …đã mang noãn nang Cầu trùng từ bên ngoài khu
vực chuồng nuôi vào.
Các yếu tố vệ sinh thú y, chăm sóc nuôi dưỡng kém, thiếu các Vitamin,
các nguyên tố vi lượng, đặc biệt là việc nuôi chung gà con với gà lớn sẽ thúc
đẩy bệnh ngày càng nặng nề, bệnh bùng nổ triền miên và kéo dài.
Gà nuôi nền, nhất là những chuồng đã nuôi nhiều lứa, bệnh Cầu trùng
rất dễ xảy ra. Theo Bạch Mạnh Điều (2001) khi nghiên cứu về tỷ lệ nhiễm
Cầu trùng của gà trong điều kiện nuôi trên sàn lưới và nuôi trên nền có sử
dụng chất độn chuồng cho thấy: Gà nuôi trên sàn lưới - tỷ lệ nhiếm bệnh là
13
12,14%, gà nuôi trên nền có sử dụng chất độn chuồng - tỷ lệ nhiễm trung bình
là 23,93%.
Sức đề kháng: Ở ngoài môi trường thiên nhiên, noãn nang Cầu trùng
tồn tại rất lâu. Theo Kogan (1959), chúng có thể giữ được khả năng gây bệnh

sau 5 tháng, đem thấy khô ở 40
0
C sau 4 ngày, giữ trong điều kiện thiếu không
khí được 30 ngày.
Ở châu Âu và châu Mỹ, bệnh mang tính thời vụ rõ rệt, thường xảy ra từ
tháng 5 đến tháng 8. Theo Lê Văn Năm (2003), ở Việt Nam, bệnh xảy ra
quanh năm, mang tính dịch cao, tỷ lệ mắc bệnh cao vào các tháng mùa xuân
mưa ẩm. Mức độ nhiễm Cầu trùng trong các mùa đều tương đối cao, tỷ lệ
nhiễm trung bình ở các mùa từ 25,82 – 26,83%. Do đó cần có biện pháp
phòng bệnh chu đáo cho đàn gà vào các mùa.
2.2.6. Miễn dịch học bệnh Cầu trùng gà
Nhiều nhà khoa học thấy rằng, miễn dịch đối với bệnh Cầu trùng là
miễn dịch mang trùng và do sự tái nhiễm thường xuyên đã đảm bảo cho sự ổn
đinh mầm bệnh trong cơ thể gà có miễn dịch.
Từ những năm 1929, Turo đã xác định rằng miến dịch được tạo ra
tương đối bền vững đối với các loài Cầu trùng khi các giai đoạn phát triển của
chúng tiến triển và xâm nhập sâu trong các mô bào và miễn dịch kém bền
vững khi các giai đoạn của chúng chỉ phát triển trong lớp biểu bì niêm mạc
ruột. Với những nghiên cứu của Turo (1929), lần đầu tiên đã chứng minh tính
đặc hiệu của miễn dịch trong bệnh Cầu trùng. Ông thấy rằng, những gà khỏi
bệnh với loại Cầu trùng này thì không miễn dịch với các loài Cầu trùng khác.
Long và Rose (1962) đã nghiên cứu chi tiết hơn tính đặc hiệu này bằng
phương pháp kết tủa trên thạch và đã chứng minh tính đặc hiệu theo loài rất
nghiêm ngặt ở các loài E.tenella, E.necatrix, E.acervulina và E.maxima, …
Kaplin đã phát hiện ra khả năng tạo ra miễn dịch thụ động khi tiêm huyết
thanh lấy từ máu gà con chưa có miến dịch, ở chúng xuất hiện miễn dịch yếu,
14
tăng cao tỷ lệ nuôi sống, ở những con gà này, số mầm bệnh loại thải ra ngoài
ít hơn so với số mầm bệnh Cầu trùng gây nhiễm cho chúng so với những con
gà đối chứng.

Theo Tyzzer (1929), bằng kỹ thuật gây bệnh thực nghiệm, ông đã
chứng minh được tính đặc hiệu của miễn dịch bệnh Cầu trùng. Nhưng ông
nhận thấy rằng, những gà khỏi bệnh với một loại Cầu trùng này thì không
miễn dịch với loài Cầu trùng khác. Ông còn chứng minh được rằng, cường độ
miễn dịch không đều phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: loài Cầu trùng, liều
Cầu trùng gây nhiễm, phương thức gây nhiễm.
Morehouse (1983), Oclop (1940), Watrendorfer (1958), Sackmann
(1963), và nhiều nhà khoa học khác thấy rằng, miễn dịch đối với bệnh Cầu
trùng gà là miễn dịch có trùng và do sự tái nhiễm thường xuyên đã đảm bảo
cho sự ổn định mầm bệnh trong cơ thể gà có miễn dịch. Trạng thái miễn dịch
trong bệnh Cầu trùng cũng như các bệnh nguyên sinh động vật khác gọi là
miễn dịch dự phòng hay miễn dịch có trùng. Cường độ miễn dịch trong bệnh
Cầu trùng không đồng đều và phụ thuộc vào loại Cầu trùng, trạng thái cơ thể
gà và nhiều yếu tố khác. Cường độ miễn dịch cũng phụ thuộc vào đặc điểm
phát triển các giai đoạn nội sinh của các loại Cầu trùng khác nhau.
Nghiên cứu về thời gian miễn dịch chống bệnh Cầu trùng, có nhiểu ý
kiến khác nhau. Theo Sacmen (1953), miễn dịch chống bệnh Cầu trùng có
thời gian miễn dịch ngắn và khi cơ thể gà thải hết mầm bệnh thì gà lại bắt đầu
cảm thụ bệnh.
Theo Song Hondon – Smith, Beatle, Long (1961), tính miễn dịch trong
bệnh Cầu trùng là tương đối dài và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là
phương thức tạo miễn dịch cho chúng như : Nếu tiêm cho gà một lượng lớn
nang trứng Cầu trùng thì tới ngày thứ 14 ở chúng có sức đề kháng và có thể tự
bảo vệ khi tiêm cho chúng một liều trên liều chết ngay cả khi tiêm liều Cầu
trùng được 3 tháng và gà còn được bảo vệ không bị tái nhiễm.
15
Hiện nay, có 3 hướng tạo miễn dịch cho gà được lựa chọn:
- Cho gà nhiếm Cầu trùng liều thấp để kích thích cơ thể sản sinh kháng
thể chống tái nhiễm.
- Cho gà nhiếm Cầu trùng rồi cho thuốc điều trị để con vật sản sinh

kháng thể chống tái nhiễm. Đây là hướng được coi là hiệu quả nhất và được
áp dụng nhiều nhất hiện nay.
- Cho gà nhiễm nang trứng đã sinh bào tử được giảm độc lực bằng các
yếu tố vật lý, hóa học để kích thích gà sản sinh kháng thể. Đây là hướng chủ
động có nhiều triển vọng nhằm sản xuất vaccine phòng bệnh Cầu trùng gà.
2.2.7. Sinh bệnh học
Theo Vandonin Berke (1957), quá trình sinh bệnh học trước hết là do
tác động trực tiếp của mầm bệnh qua các giai đoạn phát triển nội sinh trong
cơ thể gà. Cầu trùng ký sinh trong các tế bào biểu mô, quá trình sinh trưởng
và phát triển của chúng làm cho các tế bào biểu mô bị phá vỡ theo kiểu dây
chuyền hết sức nhanh chóng và đồng loạt gây tổn thương nghiêm trọng niêm
mạc nơi khu trú, các mạch quản, thần kinh bị hủy hoại, gây xuất huyết và tạo
điều kiện thuận lợi cho hệ vi sinh vật phát triển và gây bệnh thêm cho gà.
Do sự phá hủy hàng loạt các tế bào niêm mạc ruột gây ra các ổ hoại tử
lớn, nhiều đoạn ruột không tham gia vào quá trình tiêu hóa, con vật thiếu máu
trầm trọng. Protein tổng số của huyết thanh và đường huyết giảm, một số
enzyme bị giảm hoạt tính nhất là hoạt tính Phosphataza kiềm ở niêm mạc ruột
non, do đó gà mắc bệnh Cầu trùng sẽ rối loạn quá trình hấp thu các acid amin,
giảm sức lớn và sự phát triển.
Dưới tác động của Cầu trùng làm cho các mô bào đường tiêu hóa bị tổn
thương, biến đổi, tạo điều kiện cho các vi khuẩn có hại xâm nhập như
Clostridium perfringens, Salmonelle typhimurium cùng với một số bệnh ghép
khác làm cho bệnh càng nặng nề và phức tạp.
16

×