Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Lịch sử phát triển ngành hải quan việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.86 KB, 19 trang )

Lịch sử phát triển ngành Hải quan Việt Nam
Năm 1945 Cách mạng tháng 8 thành công, Hồ Chủ tich đã đọc bản Tuyên ngôn
độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà. Tuy nhiên, sau đó Việt Nam
vẫn phải tiếp tục trải qua 30 năm chiến tranh ác liệt và 27 năm thử thách trong thời
kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh.
Với cái tên đầu tiên là “Sở Thuế quan và thuế gián thu” được thành lập với mục
đích đảm bảo việc kiểm soát hàng hoá XNK và duy trì nguồn thu ngân sách Hải
quan Việt Nam không ngừng chăm lo xây dựng, hoàn thiện và nâng cao cơ sở pháp
lý - quản lý Nhà nước để ngày càng phù hợp hơn với thực tiễn của nước Việt Nam.
Từ chỗ Hải quan Việt Nam còn phải tạm thời sử dụng những quy định nghiệp vụ
về thuế quan của chính quyền thực dân đến nay đã xây dựng và ban hành được
“Điều lệ Hải quan”, Pháp lệnh Hải quan và tiếp đó là Luật Hải quan Việt Nam có
hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2002.
Với những mục tiêu nhằm tạo thuận lợi cho phát triển XNK, thu hút đầu tư nước
ngoài, phát triển du lịch và giao thương quốc tế, đảm bảo quản lý, nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác Hải quan Việt Nam đã luôn luôn thực hiện theo khẩu hiệu
mà mình đã đặt ra:
“Thuận lợi, Tận tuỵ, Chính xác”
Lịch sử Hải Quan qua từng giai đoạn :
Ngày 10 tháng 9 năm 1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp thừa uỷ quyền
của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt nam dân chủ cộng hoà ký Sắc lệnh số 27 -
SL thành lập "Sở thuế quan và thuế gián thu" khai sinh Hải quan Việt Nam.
Quá trình trưởng thành và phát triển theo các giai đoạn:
Giai đoạn 1945 - 1954:
Thành lập Hải quan Việt Nam thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước Việt nam dân chủ
cộng hoà vừa mới khai sinh, tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp.
Ngày 10/9/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp được uỷ quyền của Chủ
tịch Chính phủ lâm thời Việt nam Dân chủ Cộng hoà ký Sắc lệnh số 27 - SL thành
lập "Sở thuế quan và thuế gián thu" khai sinh ngành hải quan Việt Nam. Với:
Nhiệm vụ: Thu các quan thuế nhập cảnh và xuất cảnh, thu thuế gián thu. Sau đó,
Ngành được giao thêm nhiệm vụ chống buôn lậu thuốc phiện và có quyền định


đoạt, hoà giải đối với các vụ vi phạm về thuế quan và thuế gián thu.
Hệ thống tổ chức:
Trung ư ơng:
Sở thuế quan và thuế gián thu (sau đổi thành Nha thuế quan và thuế gián thu)
thuộc Bộ tài chính.
Địa phương: Bắc, Trung, Nam bộ, mỗi miền đều có:
- Tổng thu Sở thuế quan.
- Khu vực thuế quan.
- Chính thu Sở thuế quan.
- Phụ thu Sở thuế quan.
Tình hình đất nước: Giai đoạn này cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược; Hải quan Việt Nam phối hợp cùng các lực lượng thực hiện chủ
trương bao vây kinh tế và đấu tranh kinh tế với địch. Nhiệm vụ chính trị của Hải
quan Việt nam thời kỳ này là bám sát và phục vụ kịp thời nhiệm vụ của Cách
mạng, tạo nguồn thu cho Ngân sách quốc gia, kiểm soát hàng hoá xuất nhập khẩu,
đấu tranh chống buôn lậu giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm.
Giai đoạn 1954 - 1975:
Nhiệm vụ: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chống Mỹ xâm lược, giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước; Chính phủ giao cho Bộ Công thương quản
lý hoạt động ngoại thương và thành lập Sở Hải quan ( thay ngành thuế xuất, nhập
khẩu) thuộc Bộ Công thương.
Hệ thống tổ chức:
Trung ương: Sở Hải quan
Địa ph ương: Sở Hải quan liên khu, thành phố, Chi sở Hải quan tỉnh, Phòng Hải
quan cửa khẩu.
Trước yêu cầu nhiệm vụ mới của Ngành Hải quan, ngày 27/2/1960 Chính phủ đã
đã có Nghị định 03/CP (do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ) ban hành Điều lệ Hải
quan đánh dấu bước phát triển mới của Hải quan Việt nam.
Ngày 17/6/1962 Chính phủ đã ban hành Quyết định số: 490/TNgT/QĐ - TCCB đổi
tên Sở Hải quan trung ương thành Cục Hải quan thuộc Bộ ngoại thương.

Giai đoạn này Hải quan Việt nam được xác định là công cụ bảo đảm thực hiện
đúng đắn chế độ Nhà nước độc quyền ngoại thương, ngoại hối, thi hành chính sách
thuế quan (thu thuế hàng hoá phi mậu dịch) tiếp nhận hàng hoá viện trợ và chống
buôn lậu qua biên giới.
Năm 1973 Hiệp định Pari được ký kết chấm dứt chiến tranh phá hoại của Mỹ ở
miền Bắc. Hải quan Việt Nam huấn luyện, chuẩn bị các điều kiện triển khai công
tác khi miền Nam được giải phóng.
Thời kỳ này toàn ngành Hải quan được tặng thưởng 2 Huân chương Lao động
Hạng hai và Hạng Ba, 11 đơn vị và cá nhân được tặng Thởng Huân chương Lao
động và Huân chương chiến công các hạng.
Giai đoạn 1975 - 1986:
Hải quan thống nhất lực lượng và triển khai hoạt động trên phạm vi cả nước.
Sau khi thống nhất đất nước Hải quan triển khai hoạt động trên địa bàn cả nước từ
tuyến biên giới phía Bắc đến tuyến biên giới phía Tây Nam, các cảng biển, Sân bay
quốc tế, Bưu cục ngoại dịch, Trạm chở hàng. Do yêu cầu quản lý tập trung thống
nhất, Chính phủ đã có Quyết định số 80/CT ngày 5/3/1979 quyết định chuyển tổ
chức Hải quan địa phương thuộc UBND tỉnh, thành phố về thuộc Cục Hải quan Bộ
Ngoại thương.
Thời kỳ này tính chất các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua
biên giới có biểu hiện phức tạp và phổ biến. Ngày 30/8/1984 Hội đồng Nhà nước
phê chuẩn Nghị quyết số 547/NQ/HĐNN7 thành lập Tổng cục Hải quan trực thuộc
Hội đồng Bộ trưởng; và ngay sau đó Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị quyết số
139/HĐBT ngày 20/10/1984 ban hành Nghị định quy định nhiệm vụ, quyền hạn và
tổ chức bộ máy của Tổng cục Hải quan. Hải quan Việt Nam được xác định là
"Công cụ chuyên chính nửa vũ trang của Đảng và Nhà nước có chức năng kiểm tra
và quản lý hàng hoá, hành lý, ngoại hối và các công cụ vận tải xuất nhập qua biên
giới nước CHXHCN Việt nam, thi hành chính sách thuế xuất nhập khẩu, ngăn
ngừa chống các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua
biên giới, nhằm bảo đảm thực hiện đúng đắn chính sách của nhà nước độc quyền
về ngoại thương, ngoại hối góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị,

trật tự an toàn xã hội, phục vụ công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước".
Hệ thống tổ chức Hải quan:
- Tổng cục Hải quan.
- Hải quan tỉnh, thành phố.
- Hải quan Cửa khẩu và Đội kiểm soát Hải quan.
Giai đoạn 1986 - 2000
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI đề ra đường lối đổi mới đất nước, chủ
trương mở cửa, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
Nhiệm vụ: Yêu cầu đối với Hải quan Việt Nam lúc này là thực hiện quản lý Nhà
nước về Hải quan trước tình hình: Hoạt động giao lưu hợp tác với nước ngoài phát
triển mạnh mẽ chưa từng thấy, kinh tế thị trường bộc lộ những khuyết tật, hạn chế,
khối lượng hàng hoá XNK khá lớn tạo nguồn thu thuế XNK hàng năm chiếm tỷ lệ
từ 20 - 25% GDP, tình trạng buôn lậu gia tăng, nhập lậu tài liệu phản động, ấn
phẩm đồi truỵ, chất nổ, ma tuý khá nhiều.
Ngày 24/2/1990, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký lệnh công bố Pháp lệnh Hải
quan. Pháp lệnh gồm 51 điều, chia làm 8 chương, có hiệu lực thi hành từ
ngày 1/5/1990.
Pháp lệnh Hải quan xác định chức năng của Hải quan Việt nam là "Quản lý Nhà n-
ước về Hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, quá cảnh Việt
Nam, đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, ngoại hối
hoặc tiền Việt nam qua biên giới". Bộ máy tổ chức của Hải quan Việt nam được
xác định rõ tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất, dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Hội đồng Bộ Trưởng"
Hệ thống tổ chức:
- Tổng cục Hải quan;
- Cục Hải quan liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đ-
ương.
- Hải quan Cửa khẩu, Đội kiểm soát Hải quan.
Cơ sở vật chất của Hải quan Việt Nam được nâng cấp một bước: đã trang bị máy

soi nghiệp vụ, máy và chó nghiệp vụ phát hiện ma tuý, tàu cao tốc chống buôn lậu
trên biển.
Công tác đào tạo bồi dưỡng công chức được lưu ý hơn: Trường nghiệp vụ Hải
quan thành lập năm 1986, Trường nghiệp vụ Hải quan 1 ( Hà Nội) thành lập năm
1988; sau hợp nhất 2 trưởng thành Trường Hải quan Việt Nam và Năm 1996 Thủ
tướng Chính phủ ký Quyết định thành lập Trường Cao đẳng Hải quan. Từ năm
1986 đến năm 1999 đã bồi dưỡng nghiệp vụ cho 4.626 cán bộ, gửi đào tạo đại học
tại chức 1.750 cán bộ.
Hải quan Việt Nam đã tham gia và trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
Hải quan thế giới (WCO) từ ngày 01/07/1993 và từ đó đã mở rộng quan hệ với tổ
chức Hải quan thế giới và Hải quan khối ASEAN.
Ghi nhận bước trưởng thành của Hải quan Việt Nam, Hội đồng Nhà nước đã tặng
thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì cho Ngành, Huân chương các hạng cho
một số Hải quan cấp tỉnh Hải quan Việt nam nhân dịp 45 năm kỷ niệm ngày thành
lập ngành Hải quan.
Từ 1990 đến 2000 toàn ngành Hải quan tích cực triển khai thực hiện cải cách thủ
tục hành chính, tập trung đột phá vào khâu cải cách thủ tục Hải quan tại cửa khẩu,
thực hiện tốt các nội dung: Sắp xếp lại và thành lập thêm các địa điểm thông quan,
công khai hoá các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến thủ tục Hải quan,
phân luồng hàng hoá "Xanh, Vàng, Đỏ", thiết lập đường dây điện thoại nóng, sửa
đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản, quy chế, quy trình thủ tục hải quan nhằm
thực hiện các nội dung của đề án cải cách.
Trong 2 năm 1999 - 2000 Hải quan Việt Nam đã ký kết và thực hiện 2 Dự án với
nước ngoài: Dự án VIE - 97/059 do UNDP tài trợ về "tăng cường năng lực cho Hải
quan Việt Nam thực hiện công tác quản lý XNK và hội nhập quốc tế" và Dự án
nghiên cứu khả thi do cơ quan Phát triển và Thương mại Hoa Kỳ ( TDA) và Công
ty UNISYS tài trợ về công nghệ thông tin tiến tới áp dụng công nghệ trao đổi dữ
liệu điện tử EDI".
Từ năm 1993 đến 2001 toàn ngành tập trung xây dựng và hoàn thiện Dự thảo Luật
Hải quan, qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung đến tháng 5/2001 Dự thảo Luật Hải quan

lần thứ 18 đã được hoàn chỉnh và trình kỳ họp thứ 9 Quốc Hội khoá 10 để thông
qua thay thế cho Pháp lệnh Hải quan 1990. Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã tặng
thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cho ngành Hải quan nhân dịp 50 năm ngày
thành lập Hải quan Việt nam ( 10/9/1945 - 10/9/1995).
Lịch sử Hải Quan theo mốc thời gian :
Ngày 10 tháng 9 năm 1945 theo sắc lệnh số 27-SL của Chủ tịch Chính phủ lâm
thời Việt Nam dân chủ Cộng hoà, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp, thay mặt
Chính phủ ký thành lập “Sở thuế quan và thuế gián thu”. Với mục đích thiết lập
chủ quyền thuế quan của nước Việt Nam độc lập, đảm bảo việc kiểm soát hàng hoá
XNK và duy trì nguồn thu ngân sách từ hoạt động này.
Ngày 29 tháng 5 năm 1946 theo sắc lệnh số 75-SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tổ
chức của Bộ Tài chính, Sở Thuế quan và thuế gián thu được đổi thành Nha Thuế
quan và Thuế gián thu thuộc Bộ Tài chính.
Ngày 4 tháng 7 năm 1951 Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến đã ký Nghị định
số 54/NĐ quy định lại tổ chức của Bộ Tài chính và Nha Thuế quan và Thuế gian
thu được đổi thànhCơ quan Thuế XNK.
Ngày 14 tháng 12 năm 1954 Bộ trưởng Bộ Công thương Phan Anh ký Nghị định
số 136-BCT/KB/NĐ thành lập Sở Hải quan thay thế cơ quan thuế XNK thuộc Bộ
Công thương.
Ngày 17 tháng 2 năm 1962 để thực hiện Điều lệ Hải quan (ban hành
ngày 27/2/1960) Thứ trưởng Bộ Ngoại thương Lý Ban ký Quyết định số
490/BNT/QĐ-TCCB đổi tên Sở Hải quan thành Cục Hải quan. Lúc này Cục Hải
quan trực thuộc Bộ Ngoại thương.
Ngày 25 tháng 4 năm 1984 Thực hiện Nghị quyết số 68/HĐBT của Hội đồng Bộ
trưởng về đẩy mạnh chống buôn lậu và thành lập Tổng cục Hải quan, và Nghị
quyết số 547/NQ-HĐNN ngày 30/8/1984 Hội đồng Nhà nước phê chuẩn thành lập
Tổng Cục Hải quan và ngày 20/10/1984 Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Tô
Hữu ký Nghị định số 139/HĐBT quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Tổng
cục Hải quan. Tổng cục Hải quan trực thuộc Chính phủ
Ngày 4 tháng 9 năm 2002 theo Quyết định số 113/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng

Chính phủ Tổng Cục Hải quan trực thuộc Bộ Tài chính.

Phê duyệt phương án đơn giản hóa 38 thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải
quan, thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính (Phương án đơn giản hóa
kèm theo).
1. Thủ tục Chuyển cửa khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu gửi qua dịch vụ
chuyển phát nhanh đường bộ
- Nội dung đơn giản hóa: Thực hiện tiếp nhận bản khai hàng hóa điện tử và
thực hiện thủ tục chuyển cửa khẩu thông qua hệ thống dữ liệu của cơ quan Hải
quan đối với các trường hợp đáp ứng được kết nối dữ liệu hải quan (khuyến khích
thực hiện dịch vụ đại lý hải quan).
- Lý do: Hiện đại hóa giải quyết thủ tục hành chính từ phương thức thủ công
đối với hàng hóa gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh đường bộ chuyển cửa khẩu
tốn kém thời gian trong việc khai bản khai hàng hóa và tiếp nhận, bảo quản hồ sơ
chuyển cửa khẩu của doanh nghiệp.
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi Điều 7, 8 (Chương II) Thông tư số
36/2011/TT-BTC.
2. Thủ tục Chuyển đổi cửa khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu gửi qua dịch vụ
chuyển phát nhanh đường bộ
- Nội dung đơn giản hóa: Thực hiện tiếp nhận bản khai hàng hoá điện tử và
thực hiện thủ tục chuyển cửa khẩu thông qua hệ thống dữ liệu của cơ quan hải
quan đối với các trường hợp đáp ứng được kết nối dữ liệu hải quan qua đó khuyến
khích thực hiện dịch đại lý hải quan, giảm thiểu việc tiếp xức trực tiếp giữa cơ
quan Hải quan với doanh nghiệp.
- Lý do: Theo Thông tư 36/2011/TT-BTC, thủ tục hải quan đối với hàng hoá
xuất khẩu gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh đường bộ chuyển cửa khẩu, nhập
khẩu, xuất khẩu được thực hiện theo phương thức thủ công rất mất thời gian trong
việc khai bản khai hàng hoá và tiếp nhận, bảo quản hồ sơ chuyển khẩu trong thực
hiện thủ tục chuyển cửa khẩu của doanh nghiệp.
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi Điều 11 (Chương V) Thông tư 36/2011/TT-

BTC.
3. Thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu gửi qua dịch vụ chuyển phát
nhanh đường bộ
- Nội dung đơn giản hóa: Thực hiện tiếp nhận bản khai hàng hoá điện tử (áp
dụng cả đối với hàng hoá nhập khẩu).
- Lý do: Theo Thông tư 36/2011/TT-BTC, thủ tục hải quan đối với hàng hoá
xuất khẩu gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh đường bộ chuyển cửa khẩu, nhập
khẩu, xuất khẩu được thực hiện theo phương thức thủ công rất mất thời gian trong
việc khai bản khai hàng hoá và tiếp nhận, bảo quản hồ sơ chuyển khẩu trong thực
hiện thủ tục chuyển cửa khẩu của doanh nghiệp.
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi Điều 11 (Chương V) Thông tư 36/2011/TT-
BTC.
4. Thủ tục xem hàng hóa trước khi khai hải quan
- Nội dung đơn giản hóa: Quy định cụ thể thời hạn giải quyết của cơ quan
Hải quan đối với đề nghị của doanh nghiệp để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
- Lý do: Đảm bảo quyền của doanh nghiệp được quy định tại Luật Hải quan
2014.
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi, bổ sung Điều 10 Thông tư số 128/2013/TT-
BTC.
5. Thủ tục sửa chữa tờ khai, khai bổ sung hồ sơ hải quan (thủ công – điện tử)
- Nội dung đơn giản hóa:
+ Sửa lại thời hạn khai bổ sung, cụ thể: đối với hàng đang làm thủ tục hải
quan, khai bổ sung trước khi cơ quan Hải quan kiểm tra trực tiếp hồ sơ hải quan;
đối với hàng hóa đã được thông quan: trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày thông
quan và trước thời điểm cơ quan Hải quan quyết định kiểm tra sau thông quan,
thanh tra trừ trường hợp nội dung khai bổ sung liên quan đến giấy phép xuất nhập
khẩu, kiểm tra chuyên ngành về chất lượng hàng hóa, y tế, văn hóa, kiểm dịch
động vật, thực vật, an toàn thực phẩm.
+ Nâng cấp hệ thống điện tử để tăng chỉ tiêu được sửa chữa, khai bổ sung
theo phương thức điện tử (hạn chế tối đa phải thực hiện sửa chữa, khai bổ sung hải

quan bằng phương thức thủ công).
- Lý do: Đảm bảo phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 29 của Luật Hải
quan 2014.
- Kiến nghị thực thi:
+ Sửa đổi Điều 14 Thông tư số 128/2013/TT-BTC;
+ Sửa đổi Điều 10 Thông tư số 196/2012/TT-BTC;
+ Sửa đổi Điều 11 Thông tư số 22/2014/TT-BTC.
6. Thủ tục thay tờ khai hải quan (thủ công – điện tử)
- Nội dung đơn giản hóa: Bãi bỏ thủ tục này.
- Lý do: Về bản chất thủ tục này là một khâu trong thủ tục hủy tờ khai hải
quan. Nội dung thay tờ khai hải quan được quy định lồng vào thủ tục hủy tờ khai
hải quan tại Thông tư quy định thủ tục hải quan; kiểm tra giám sát hải quan; thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi, bổ sung Điều 15 Thông tư số 128/2013/TT-
BTC.
7. Thủ tục Thanh khoản tờ khai nhập nguyên liệu sản xuất, xuất khẩu (thủ
công – điện tử)
- Nội dung đơn giản hóa: Bãi bỏ thủ tục này.
- Lý do: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 60 Luật Hải quan thì tổ chức, cá
nhân gia công, sản xuất hàng xuất khẩu có trách nhiệm báo cáo quyết toán việc
quản lý, sử dụng nguyên liệu, vật tư nhập khẩu, hàng hóa xuất khẩu (không thực
hiện thanh khoản). Vì vậy, thay việc thanh khoản bằng các biện pháp quản lý, kiểm
tra báo cáo quyết toán và kiểm tra sau thông quan.
- Kiến nghị thực thi:
+ Sửa đổi Điều 39 Thông tư số 128/2013/TT-BTC;
+ Sửa đổi Điều 36 Thông tư số 196/2012/TT-BTC;
+ Sửa đổi Khoản 5 Điều 23 Thông tư số 22/2014/TT-BTC.
8. Thủ tục Hải quan đối với hàng hóa kinh doanh tạm nhập – tái xuất
- Nội dung đơn giản hóa:
+ Về hồ sơ hải quan tạm nhập: Bổ sung quy định cách thức xử lý của cơ

quan hải quan đối với trường hợp không có hợp đồng xuất khẩu tại thời điểm đăng
ký tờ khai hải quan tạm nhập để đảm bảo theo dõi, thanh khoản đối với tờ khai tạm
nhập đó. (đã được bãi bỏ-VPC: để lại).
+ Về thủ tục chuyển hàng hóa từ cửa khẩu tạm nhập đến cửa khẩu tái xuất,
đề nghị bỏ quy định trình lãnh đạo Chi cục ký xác nhân (ký tên, đóng dấu và ghi rõ
ngày, tháng, năm) trên tờ khai hải quan đã có xác nhận của công chức hải quan
giám sát hàng hóa tái xuất.
- Lý do:
+ Tại Điều 11 Nghị định số 187/2013/NĐ-CP quy định tạm nhập, tái xuất
được thực hiện trên cơ sở hai hợp đồng riêng biệt: hợp đồng xuất khẩu và hợp
đồng nhập khẩu do thương nhân Việt Nam ký với thương nhân nước ngoài. Hợp
đồng xuất khẩu có thể ký trước hoặc sau hợp đồng nhập khẩu.
+ Việc yêu cầu Lãnh đạo Chi cục ký vào tờ khai hải quan đã có xác nhận
của công chức hải quan giám sát là không cần thiết, kéo dài thời gian giải quyết thủ
tục, tăng chi phí cho danh nghiệp.
- Kiến nghị thực thi:
+ Sửa đổi Điều 41 Thông tư số 128/2013/TT-BTC;
+ Sửa đổi Điều 46 Thông tư số 196/2012/TT-BTC.
9. Thủ tục huỷ tờ khai hải quan
- Nội dung đơn giản hóa:
+ Về thủ tục hủy tờ khai hải quan, bổ sung thời hạn giải quyết của cơ quan
hải quan trong trường hợp có yêu cầu của người khai hải quan,
+ Về mẫu đơn đề nghị hủy tờ khai ban hành kèm theo Thông tư
22/2014/TT-BTC (02/HTK/2014), bỏ bớt các tiêu chí: Cửa khẩu xuất/nhập, Mặt
hàng khai báo; Trị giá khai báo.
- Lý do:
+ Quy định thời hạn rõ ràng, cụ thể đảm bảo minh bạch trong thực hiện,
không kéo dài thời gian giải quyết thủ tục cho doanh nghiệp.
+ Các tiêu chí thuộc đơn đề nghị hủy tờ khai đề xuất bỏ là cần thiết vì hồ sơ
hải quan cơ quan hải quan lưu và tờ khai doanh nghiệp đề nghị hủy đã có các thông

tin này.
- Kiến nghị thực thi:
+ Sửa đổi Điều 31 Thông tư số 128/2013/TT-BTC;
+ Sửa đổi Điều 11 Thông tư số 196/2012/TT-BTC;
+ Sửa đổi Điều 12 Thông tư số 22/2014/TT-BTC.
10. Thủ tục thông báo, điều chỉnh, kiểm tra định mức đối với hàng hóa gia
công cho thương nhân nước ngoài
- Nội dung đơn giản hóa: Bỏ thủ tục thông báo và điều chỉnh định mức
- Lý do: Đảm bảo phù hợp với Điều 59, 60 Luật Hải quan 2014.
- Kiến nghị thực thi:
+ Sửa đổi Điều 19 Thông tư số 13/2014/TT-BTC;
+ Sửa đổi Điều 28 Thông tư số 196/2012/TT-BTC;
+ Sửa đổi Điều 43 Thông tư số 128/2013/TT-BTC.
11. Thủ tục nhập khẩu sản phẩm đặt gia công ở nước ngoài;
12. Thủ tục xuất khẩu nguyên liệu đặt gia công ở nước ngoài
- Nội dung đơn giản hóa đối với 02 thủ tục: Bổ sung thực hiện thủ tục hải
quan điện tử VNACCS.
- Lý do: Hiện nay, tại Thông tư số 22/2014/TT-BTC chưa quy định về loại
hình này (chỉ quy định gia công cho thương nhân nước ngoài) để giảm thời gian
thực hiện thủ tục, đồng thời đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 25 Nghị định số
08/2015/NĐ-CP về khai hải quan.
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi, bổ sung Điều 30, Điều 32 Thông tư số
13/2014/TT-BTC.
13. Thủ tục đăng ký, kiểm tra định mức nguyên liệu đặt gia công ở nước
ngoài
- Nội dung đơn giản hóa: Bỏ thủ tục đăng ký định mức
- Lý do: Đảm bảo phù hợp với Điều 59, 60 Luật Hải quan 2014.
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi Điều 31 Thông tư số 13/2014/TT-BTC.
14. Thủ tục thông báo hợp đồng gia công ở nước ngoài;
15. Thủ tục thanh khoản hợp đồng đặt gia công ở nước ngoài

- Nội dung đơn giản hóa: Bãi bỏ 02 thủ tục này.
- Lý do: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 60 Luật Hải quan thì tổ chức, cá
nhân gia công, sản xuất hàng xuất khẩu có trách nhiệm thông báo cơ sở gia công,
sản xuất; báo cáo quyết toán việc quản lý, sử dụng nguyên liệu, vật tư nhập khẩu,
hàng hóa xuất khẩu (không thực hiện thông báo hợp đồng gia công, thanh khoản
hợp đồng).
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi Điều 31 Thông tư số 13/2014/TT-BTC.
16. Thủ tục xử lý nguyên liệu vật tư dư thừa; phế liệu, phế phẩm, phế thải;
máy móc, thiết bị thuê, mượn;
- Nội dung đơn giản hóa: Bổ sung thực hiện thủ tục hải quan điện tử
VNACCS.
- Lý do: Tại Thông tư số 22/2014/TT-BTC chưa quy định về thủ tục hải
quan điện tử đối với các phương thức xử lý: tái xuất, bán nội địa, tiêu hủy, biếu
tặng, chuyển sang hợp đồng khác.
- Kiến nghị thực thi: Ban hành Thông tư quy định về thủ tục hải quan điện
tử.
17. Thủ tục hải quan đối với hàng hoá đưa vào, đưa ra khu thương mại tự do,
khu phi thuế quan
- Nội dung đơn giản hóa: Bỏ thông báo định mức nguyên liệu, vật tư nhập
khẩu sản xuất hàng hóa bán vào khu phi thuế quan.
- Lý do: Đảm bảo phù hợp với Điều 59, 60 Luật Hải quan 2014.
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi Điều 48 Thông tư 128/2013/TT-BTC.
18. Thủ tục hải quan đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu tại chỗ (thủ công –
điện tử)
- Nội dung đơn giản hóa:
+ Bổ sung quy định: Trường hợp làm thủ tục hải quan tạm nhập trở lại khác
chi cục hải quan làm thủ tục xuất khẩu hàng hóa đó trước đây thì phải nộp tờ khai
hải quan xuất khẩu trước đây nếu làm thủ tục hải quan theo phương thức thủ công.
+ Bỏ yêu cầu nộp tờ khai hàng hóa nhập khẩu để tái chế khi làm thủ tục tái
xuất tại chi cục hải quan làm thủ tục nhập trở lại.

- Lý do: Việc yêu cầu doanh nghiệp các chứng từ này thêm là không cần
thiết vì cơ quan hải quan có thể kiểm tra hệ thống, hồ sơ lưu tại cơ quan hải quan
để biết, kiểm tra, theo dõi.
- Kiến nghị thực thi:
+ Sửa đổi Điều 55 Thông tư 128/2013/TT-BTC;
+ Sửa đổi Điều 48 Thông tư số 196/2012/TT-BTC;
+ Sửa đổi Điều 28 Thông tư số 22/2014/TT-BTC.
19. Thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu không nhằm mục đích
thương mại
- Nội dung đơn giản hóa: Thực hiện thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu không nhằm mục đích thương mại của các doanh nghiệp.
- Lý do: Thuận lợi thực hiện thủ tục hải quan đối với các doanh nghiệp có
hoạt động xuất nhập khẩu được thực hiện thủ tục hải quan điện tử đối với hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu thương mại.
- Kiến nghị thực thi:
+ Sửa đổi Mục 4 Chương II Nghị định 154/2005/NĐ-CP ;
+ Sửa đổi Điều 71, 72, Điều 73 Thông tư số 128/2013/TT-BTC.
20. Thủ tục hải quan đối với tàu liên vận quốc tế xuất cảnh bằng đường sắt
- Nội dung đơn giản hóa: Bỏ các chứng từ là Giấy giao tiếp toa xe.
- Lý do: Đảm bảo phù hợp Điều 70 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP, trong đó
hồ sơ hải quan có giấy giao tiếp hàng hóa (không có giấy giao tiếp toa xe).
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi Điều 91 Thông tư số 128/2013/TT-BTC.
21. Thủ tục xuất khẩu nguyên liệu, vật tư đặt gia công ở nước ngoài
- Nội dung đơn giản hóa: Bổ sung thủ tục điện tử.
- Lý do: Giảm thời gian thực hiện thủ tục cho doanh nghiệp.
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi Điều 30 Thông tư 13/2014/TT-BTC.
22. Thủ tục thông báo, điều chỉnh định mức thực tế sản phẩm xuất khẩu
- Nội dung đơn giản hóa: Bỏ thủ tục thông báo, điều chỉnh định mức.
- Lý do: Bảo đảm phù hợp với Điều 59, 60 Luật Hải quan 2014.
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi Điều 37 Thông tư số 128/2013/TT-BTC.

23. Thủ tục hoàn thuế đối với các trường hợp được xét hoàn thuế
- Nội dung đơn giản hóa:
+ Bỏ tờ khai hàng hóa nhập khẩu đã tính thuế đối trong hồ sơ hoàn thuế đối
với hàng nhập khẩu đã nộp thuế nhung còn lưu kho, lưu bãi tại cửa khẩu và đang
chịu sự giám sát hải quan, được tái xuất ra nước ngoài.
+ Quy định rõ trường hợp phải nộp hóa đơn thương mại theo hợp đồng mua
bán hàng hóa trong hồ sơ hoàn thuế hàng hóa đã nộp thuế xuất nhập khẩu nhưng
thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ít hơn.
+ Bỏ các loại hợp đồng, bảng kê hàng hóa, kết quả báo cáo nhập – xuất -
tồn; tờ khai hải quan hàng xuất nhập khẩu (trừ trường hợp người nộp thuế khai trên
tờ khai giấy); bảng thông báo định mức; bảng kê danh mục tài liệu, hóa đơn kiểm
phiếu xuất kho; bảng tổng hợp số lượng máy móc, thiết bị, dụng cụ phương tiện
vận chuyển thực tế sử dụng trong khu phi thuế quan có xác nhận của cơ quan hải
quan của doanh nghiệp trong khu phi thuế quan.
- Lý do:
+ Đối với thủ tục hải quan điện tử: Tờ khai hải quan đã có trên hệ thống của
cơ quan hải quan. Đối với hải quan thủ công: Tờ khai hải quan đã tính thuế đã
được nộp cho cơ quan hải quan tại thời điểm làm thủ tục nhập khẩu.
+ Đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 59, 60 Luật Hải quan 2014.
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi Điều 113 đến Điều 129 Thông tư số
128/2013/TT-BTC.
24. Thủ tục kiểm tra, tham vấn, xác định trị giá đối với hàng nhập khẩu, xuất
khẩu (áp dụng đối với thủ tục hải quan thủ công - điện tử)
- Nội dung đơn giản hóa: Tổng cục Hải quan nghiên cứu quy định rút ngắn
thời hạn hoàn thành tham vấn.
- Lý do: Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc chuẩn bị hồ sơ, giấy tờ;
đồng thời phù hợp thời hạn được ân hạn thuế do có bảo lãnh của tổ chức tín dụng
và theo thẩm quyền của Cục Hải quan các tỉnh, thành phố (nơi có đủ điều kiện
tham vấn).
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi Khoản 4, 6 Điều 1 Thông tư 29/2014/TT-BTC.

25. Thủ tục người khai hải quan trì hoãn xác định trị giá tính thuế (áp dụng
đối với thủ tục hải quan thủ công - điện tử)
- Nội dung đơn giản hóa: Bãi bỏ thủ tục này.
- Lý do: Bảo đảm phù hợp với Luật Hải quan 2014 và Nghị định số
08/2015/NĐ-CP. Bên cạnh đó, thủ tục xác định trước mã số, xuất xứ, trị giá hải
quan quy định tại Điều 24 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP đã thay thế thủ tục này.
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi Điều 25 Thông tư số 205/2010/TT-BTC.
26. Thủ tục sửa đổi, bổ sung hợp đồng gia công, phụ lục hợp đồng gia công
(Hệ thống VNACCS)
- Nội dung đơn giản hóa: Bãi bỏ thủ tục này.
- Lý do: Bảo đảm phù hợp với Luật Hải quan 2014 và Nghị định số
08/2015/NĐ-CP do không quy định thủ tục này. Theo đó, tổ chức, cá nhân chỉ phải
thông báo cơ sở gia công, sản xuất hàng hóa xuất nhập khẩu cho cơ quan hải quan.
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi Khoản 2 Điều 22 Thông tư 22/2014/TT-BTC.
27. Thủ tục hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu thương mại (Hệ thống
VNACCS)
28. Thủ tục sửa chữa tờ khai, khai bổ sung hồ sơ hải quan (Hệ thống
VNACCS)
29. Thủ tục xuất khẩu sản phẩm gia công cho thương nhân nước ngoài (Hệ
thống VNACCS)
30. Thủ tục thanh khoản hợp đồng gia công cho thương nhân nước ngoài
(Hệ thống VNACCS)
31. Thủ tục nhập khẩu nguyên liệu, vật tư để sản xuất hàng xuất khẩu (Hệ
thống VNACCS)
32. Thủ tục đăng ký danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu được miễn
thuế (Hệ thống VNACCS)
33. Thủ tục hải quan đối với hàng hóa kinh doanh tạm nhập - tái xuất (Hệ
thống VNACCS)
34. Thủ tục hải quan đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu tại chỗ (Hệ thống
VNACCS)

35. Thủ tục hải quan đối với hàng hóa vận chuyển chịu sự giám sát hải quan
(Hệ thống VNACCS)
- Nội dung đơn giản hóa đối với 09 thủ tục: Ghép với thủ tục thủ công.
- Lý do: Về bản chất thủ tục thủ công và thủ tục điện tử là một, việc thực
hiện thủ công hay điện tử chỉ là phương thức giải quyết các thủ tục này.
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi Điều 11, Khoản 6, Khoản 9 Điều 22, Khoản 2
Điều 23, Điều 25, 26, 27, 33 Thông tư số 22/2014/TT-BTC.
36. Thủ tục thông báo, điều chỉnh, kiểm tra định mức đối với hàng hóa gia
công cho thương nhân nước ngoài (Hệ thống VNACCS)
- Nội dung đơn giản hóa: Bỏ thủ tục thông báo định mức hàng gia công.
- Lý do: Bảo đảm phù hợp với Điều 59, 60 Luật Hải quan 2014.
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi Khoản 4 Điều 22 Thông tư số 22/2014/TT-
BTC.
37. Thủ tục hải quan đối với hàng hóa đã nhập khẩu nhưng phải xuất trả lại
cho khách hàng nước ngoài, tái xuất sang nước thứ ba hoặc tái xuất vào khu phi
thuế quan (thủ công – điện tử)
- Nội dung đơn giản hóa: Áp dụng chương trình thông quan điện tử tập trung
VNACCS.
- Lý do: Giảm thời gian thực hiện thủ tục.
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi Điều 120 Thông tư số 128/2013/TT-BTC.
38. Thủ tục thanh khoản hợp đồng gia công cho thương nhân nước ngoài
(thủ công – điện tử)
- Nội dung đơn giản hóa: Thay đổi cách thức quản lý của cơ quan hải quan,
theo đó cơ quan hải quan chỉ xác nhận đã tiếp nhận hồ sơ thanh khoản (không xác
nhận đã thanh khoản).
- Lý do: Giảm thời gian thực hiện kiểm tra, đối chiếu, xác nhận thanh khoản.
- Kiến nghị thực thi: Sửa đổi, bổ sung quy định tại Thông tư số 13/2014/TT-
BTC./.
Áp dụng mã vạch tại 5 cục hải quan :
Theo lộ trình, trong năm 2014 triển khai tại Cục Hải quan Hải Phòng và TP. Hồ

Chí Minh. Các Cục Hải quan Bà Rịa - Vũng Tàu, Đà Nẵng và Quảng Ninh dự kiến
sẽ bắt đầu triển khai từ đầu năm 2015.
Tổng cục Hải quan yêu cầu các Cục Hải quan tỉnh, thành phố chủ động xây dựng
kế hoạch triển khai chi tiết tại đơn vị và báo cáo về Tổng cục.
Các đơn vị cũng cần nghiên cứu tài liệu hướng dẫn sử dụng chức năng mã vạch
trên Hệ thống e-Customs phiên bản 5.0 và tổ chức tập huấn cho cán bộ và doanh
nghiệp XNK tại địa bàn. Tổng cục Hải quan cũng sẵn sàng hỗ trợ tập huấn khi các
đơn vị có đề nghị.
Riêng Cục Hải quan TP. Hồ Chí Minh, Tổng cục Hải quan đề nghị đơn vị phối hợp
với Cục CNTT&TKHQ để triển khai nội dung kết nối dữ liệu với Tổng công ty
Tân Cảng Sài Gòn. Đây là đơn vị đã bước đầu phối hợp với Cục Hải quan TP. Hồ
Chí Minh ứng dụng mã vạch trong công tác quản lý.
Để triển khai áp dụng đề án mã vạch, hồi đầu tháng 12/2014, Cục Giám sát quản lý
- Tổng cục Hải quan đã dự thảo quy trình giám sát hải quan và lấy ý kiến tham gia
của các đơn vị liên quan.
Đề án áp dụng mã vạch trong quy trình giám sát hải quan là một trong những hoạt
động thể hiện cam kết mạnh mẽ của ngành Hải quan trong nỗ lực giảm thời gian
thông quan hàng hóa, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp làm thủ tục XNK.

Nâng cao hiệu quả của tổ chức bộ máy Hải quan
Theo Ban soạn thảo Luật Hải quan sửa đổi, việc tổ chức cấp cục Hải quan gắn với
địa giới hành chính (tỉnh, liên tỉnh) không thực sự bảo đảm tính linh hoạt, chủ động
trong việc sắp xếp, tổ chức lại, thành lập các đơn vị hải quan mới (chia tách hoặc
sáp nhập), không phù hợp với quy mô hoạt động, đặc điểm từng địa bàn, điều kiện
kinh tế - xã hội, yêu cầu quản lý của Hải quan trong những giai đoạn phát triển
khác nhau.
Vì vậy, hệ thống tổ chức của Hải quan được xây dựng theo hướng không phụ thuộc
vào địa giới hành chính mà phụ thuộc vào quy mô, tính chất hoạt động xuất nhập
khẩu, đặc thù địa bàn.
Theo Luật Hải quan hiện hành, hệ thống tổ chức bộ máy của ngành Hải quan gồm

3 cấp: Tổng cục Hải quan; Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; Chi cục Hải quan cửa khẩu, Đội Kiểm soát Hải quan và đơn vị tương đương.
Ban soạn thảo Luật Hải quan sửa đổi phân tích, mô hình tổ chức bộ máy hiện hành
đang bộc lộ một số hạn chế, khó khăn, đó là, ngành Hải quan đang thực hiện các
chương trình cải cách, hiện đại hóa, vì vậy cần xây dựng Hệ thống xử lý dữ liệu tập
trung, thống nhất và tăng cường đầu tư về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị máy
móc. Nhưng do phạm vi quản lý bị chia tách theo từng địa bàn tỉnh, thành phố nên
việc đầu tư bị phân tán, dàn trải; việc xử lý, chia sẻ dữ liệu thông tin cũng gặp
nhiều khó khăn.
Việc bố trí biên chế, lực lượng bị phân tán nên hạn chế về năng lực và thẩm quyền
trong một số lĩnh vực nghiệp vụ đòi hỏi sự tập trung chỉ đạo thống nhất, kịp thời
trong một số lĩnh vực chuyên sâu như: Chống buôn lậu, chống ma túy, kiểm tra sau
thông quan…
Luật Hải quan hiện hành đã xác định: Hải quan được tổ chức theo nguyên tắc tập
trung, thống nhất. Hoạt động nghiệp vụ Hải quan thực hiện thống nhất trên phạm
vi toàn quốc. Tính chất công việc tương đối độc lập, theo đó, hoạt động nghiệp vụ
không thực sự gắn với đơn vị hành chính theo hệ thống tổ chức hành chính nhà
nước mà phụ thuộc vào lưu lượng, quy mô, địa điểm, nơi thực hiện hoạt động xuất
nhập khẩu hàng hóa.
Vì vậy, việc tổ chức cấp cục Hải quan gắn với địa giới hành chính (tỉnh, liên tỉnh)
không thực sự bảo đảm tính linh hoạt, chủ động trong việc sắp xếp, tổ chức lại,
thành lập các đơn vị hải quan mới (chia tách hoặc sáp nhập), không phù hợp với
quy mô hoạt động, đặc điểm từng địa bàn, điều kiện kinh tế - xã hội, yêu cầu quản
lý của Hải quan trong những giai đoạn phát triển khác nhau.
Do đó, Điều 14 Dự thảo Luật sửa đổi quy định về hệ thống tổ chức Hải quan theo
hướng bỏ cụm từ “tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” ở cấp cục, bỏ
cụm từ “cửa khẩu” ở cấp chi cục nhằm bảo đảm tính linh hoạt, chủ động trong việc
sắp xếp, tổ chức lại, thành lập các đơn vị Hải quan mới (chia tách hoặc sáp nhập)
phù hợp với quy mô hoạt động, đặc điểm từng địa bàn, điều kiện kinh tế - xã hội,
yêu cầu quản lý của Hải quan trong những giai đoạn phát triển khác nhau; đặc biệt

khi thực hiện thông quan điện tử, việc xử lý tập trung sẽ làm giảm bớt các đơn vị
trung gian.
Hệ thống tổ chức của Hải quan Việt Nam gồm có:
a) Tổng cục Hải quan;
b) Cục Hải quan;
c) Chi cục Hải quan, Đội kiểm soát hải quan và đơn vị tương đương.
Bổ sung nội dung điều kiện thành lập cơ quan hải quan các cấp giao Chính phủ
quy định cụ thể.
Theo phân tích của Ban soạn thảo, tổ chức theo phương án này sẽ tạo điều kiện để
bảo đảm hiệu quả trong việc bố trí nguồn nhân lực, vật lực; phù hợp với yêu cầu
quản lý hải quan.
Hệ thống tổ chức của Hải quan được xây dựng theo hướng không phụ thuộc vào
địa giới hành chính mà phụ thuộc vào quy mô, tính chất hoạt động xuất nhập khẩu,
đặc thù địa bàn.
Như vậy có cục Hải quan nằm trong địa giới 1 tỉnh, có cục Hải quan nằm trong địa
giới nhiều tỉnh, cũng có thể có 2 cục Hải quan nằm trong địa giới 1 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
Kể từ khi Hệ thống VNACCS/VCIS được vận hành chính thức từ ngày 01/4/2014
đến nay, ngành Hải quan đã tập trung tối đa nguồn lực, triển khai quyết liệt và
đồng bộ nhiều giải pháp để đảm bảo Hệ thống VNACCS/VCIS vận hành ổn định,
an ninh, an toàn, đồng thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển
khai Hệ thống.
Điều đó được thể hiện như sau:
Thứ nhất, Hệ thống VNACCS/VCIS rất hiện đại và mới, nên mặc dù trước đó,
ngành Hải quan đã có sự chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng như tổ chức đào tạo, tập huấn,
vận hành thử, trả lời vướng mắc,… cho doanh nghiệp và cán bộ, công chức hải
quan nhưng vẫn khó tránh khỏi vướng mắc phát sinh do người sử dụng mới làm
quen và chưa sử dụng thành thạo các chức năng của Hệ thống.
Nhận thức sâu sắc vấn đề này, ngay từ khi triển khai chính thức, ngành Hải quan
đã cử những chuyên gia về Hệ thống VNACCS/VCIS của Tổng cục đến 100% các

Cục Hải quan tỉnh, thành phố trên cả nước để hướng dẫn và hỗ trợ trực tiếp làm thủ
tục hải quan trên Hệ thống. Cụ thể đã có hơn 120 đoàn công tác của Tổng cục Hải
quan đến các địa phương thực hiện nhiệm vụ này.
Thứ hai, trong giai đoạn đầu, ngành Hải quan đã thực hiện cơ chế báo cáo hàng
ngày (qua e-mail) và xử lý nhanh những vướng mắc phát sinh của các đơn vị mới
triển khai Hệ thống VNACCS/VCIS thông qua bộ phận thường trực.
Thứ ba, ngành Hải quan đã tổ chức nhiều buổi giao lưu trực tuyến trên Báo Hải
quan, trả lời vướng mắc, phát sinh trên Cổng Thông tin điện tử Hải quan và trên
các phương tiện thông tin đại chúng khác để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp.
Thứ tư, Ngành đã thành lập một bộ máy hỗ trợ doanh nghiệp và cả cán bộ, công
chức hải quan từ Trung ương đến địa phương. Tại Tổng cục Hải quan có bộ phận
hỗ trợ người sử dụng trực thuộc Cục Công nghệ thông tin và Thống kê. Tại các
Cục Hải quan tỉnh, thành phố đều thành lập Nhóm hỗ trợ người sử dụng với thành
phần là những cán bộ có kinh nghiệm về nghiệp vụ và công nghệ thông tin.
Thứ năm là thực hiện rà soát các văn bản thuộc thẩm quyền và trình cấp có thẩm
quyền ban hành các văn bản xử lý, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc. Tổng cục
đã ban hành Chỉ thị và các văn bản liên quan chấn chỉnh tác phong làm việc, thái
độ ứng xử của cán bộ, công chức hải quan trong việc hỗ trợ doanh nghiệp thực
hiện thông quan điện tử trên Hệ thống VNACCS/VCIS. Chỉ đạo các đơn vị trong
ngành bố trí cán bộ công chức làm việc ngoài giờ hành chính và ngày nghỉ để xử lý
thông quan hàng hóa.
Thứ sáu, cùng với việc triển khai Hệ thống VNACCS/VCIS, ngành Hải quan đã
đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong khâu thu thuế xuất nhập khẩu và
giám sát hải quan. Cụ thể như sau:
- Ở khâu giám sát hải quan: Nhờ áp dụng mã vạch, thời gian thực hiện thủ tục giám
sát hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu chỉ còn vài phút thay vì kéo dài hàng
giờ như trước đây, giảm ách tắc hàng hóa xuất nhập khẩu tại cổng cảng.
- Ở khâu nộp thuế: Với việc thực hiện thanh toán điện tử qua ngân hàng
theo Thông tư số 126/2014/TT-BTC, chỉ 15 phút sau khi doanh nghiệp nộp tiền
điện tử qua ngân hàng, thông tin nộp tiền sẽ được truyền online cho Hải quan và

lập tức được thanh khoản, trừ nợ thuế, thông quan hàng hóa. Việc này đã giúp
giảm thiểu tình trạng cưỡng thuế không chính xác, giảm thời gian thông quan của
doanh nghiệp và được cộng đồng đánh giá cao. Hiện tại, Tổng cục Hải quan đã
triển khai phối hợp thu thanh toán với 19 ngân hàng thương mại và kết nối online
với Kho bạc Nhà nước.
- Đặc biệt, cùng với triển khai Hệ thống VNACCS/VCIS, Tổng cục Hải quan đã tổ
chức triển khai Hệ thống tiếp nhận manifest điện tử (E-manifest) đối với phương
tiện vận tải đường biển. E-manifest mang lại lợi ích rất to lớn đối với doanh
nghiệp, đó là: Giảm gánh nặng chuẩn bị số lượng hồ sơ giấy, giảm chi phí trong
quá trình làm thủ tục hải quan.
Với nhận thức VNACCS/VCIS là Hệ thống nghiệp vụ cốt lõi, được triển khai diện
rộng và vận hành 24/7 online trên phạm vi toàn quốc, sức ảnh hưởng là rớt lớn, từ
khi triển khai chính thức đến nay, toàn ngành Hải quan đã nỗ lực trong việc thực
hiện giám sát, xử lý kịp thời các sự cố phát sinh, đảm bảo hệ thống luôn vận hành
ổn định, an ninh, an toàn.
Đây là yếu tố rất quan trọng để khắc phục những khó khăn, vướng mắc cho doanh
nghiệp và cán bộ, công chức hải quan. Đến nay, về cơ bản các vướng mắc, phát
sinh đã được xử lý dứt điểm, tạo động lực và niềm tin cho doanh nghiệp cũng như
cán bộ, công chức hải quan, từ đó ủng hộ việc thực hiện thủ tục hải quan trên Hệ
thống VNACCS/VCIS.

×