Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

trình bày hiểu biết về quảng cáo và khuyến mại mỹ phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.13 KB, 17 trang )

TRÌNH BÀY HIỂU BIẾT CỦA EM VỀ
QUẢNG CÁO VÀ KHUYẾN MẠI MỸ PHẨM
A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh kinh tế như hiện nay, pháp luật thương mại với vai trò là cơ
sở pháp lý để phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đồng thời nó là công cụ pháp luật chủ yếu của Nhà nước dùng để điều chỉnh
hoạt động thương mại trên thị trường ngày càng đóng một vai trò quan trọg trong
đời sống kinh tế. Đặc biệt là qui định pháp luật về quảng cáo và khuyến mại một
mặt hàng khá đặc biệt: mỹ phẩm. Qui định pháp luật về mặt hàng này luôn đứng
trước đòi hỏi phải đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về một cơ chế điều chỉnh của
một thị trường phát triển liên tục. Đánh giá được vai trò, tính cấp thiết của nó
nên em chọn đề tài: “Trình bày hiểu biết của em về quảng cáo và khuyến mại
mỹ phẩm”.
B. NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật thương mại hoạt động
khuyến mại và quảng cáo
I.1 Các thuật ngữ cơ bản về khuyến mại và quảng cáo
I.1.1 Khuyến mại
Thuật ngữ “khuyến mại”, trong tiếng Anh là Sales Promotion hoặc
Promotion được dùng phổ biến ở các nước vận hành nên kinh tế thị trường.
Cho đến năm 1997, Luật thương mại lần đầu tiên định nghĩa một cách
chính thức thuật ngữ “khuyến mại” là hành vi thương mại của thương nhân
nhằm xúc tiến việc mua bán hàng, cung ứng dịch vụ trong phạm vi kinh
doanh của thương nhân bằng cách dành những lợi ích nhất định cho khách
hàng.
Liên quang đến khái niệm này, Luật thương mại cũng giải thích một cách
chính thức về mặt pháp luật các thuật ngữ: hành vi thương mại, thương nhân,
xúc tiến thương mại. Về bản chất khuyến mại là hành vi của các cá nhân, tổ
chức kinh doanh nhằm thúc đẩy việc tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ của họ trên
thị trường bằng cách dành các lợi ích tăng thêm cho khách hàng ngoài các lợi


ích mà bản thân hàng hóa, dịch vụ mang lại. Các lợi ích tăng thêm có thể là
hàng hóa, dịch vụ tặng cho khách hàng dùng thử để giới thiệu cũng có thể là
được tặng kèm khi khác hàng mua hoặc có khi chỉ là cơ hội để nhận các hàng
hóa, dịch vụ có giá trị…Nó đều hướng tới mục đích cuối dùng là thu hút sự
quan tâm của khác hàng đến hàng hóa, dịch vụ và giúp nhà kinh doanh tiêu
thụ đượng hàng hóa, dịch vụ của mình.
I.1.2 Quảng cáo
Thuật ngữ “quảng cáo”, trong tiếng Anh là Advertisement, trong đó hệ
thống pháp luật thì thuật ngữ này cũng có nhiều cách định nghĩa khác nhau.
Tuy nhiên trong Luật quảng cáo 2012 cũng giải thích người quảng cáo là tổ
chức, cá nhân có nhu cầu quảng cáo về hoạt động kinh doanh, hàng hóa, dịch
vụ của mình. Còn Luật thương mại định nghĩa quảng cáo thương mại là
hành vi thương mại của thương nhân nhằm giới thiệu hàng hóa, dịch vụ đê
xúc tiến thương mại. Đều là 2 văn bản mang tính pháp lý cao, song theo cách
hiểu như ở Pháp lệnh Quảng cáo thì nó có nội hàm rộng hơn và bao trùm hơn
theo cách hiểu ở Luật thương mại.
I.1.3 Sản phẩm mỹ phẩm
Sản phẩm mỹ phẩm là một chất hay chế phẩm được sử dụng để tiếp xúc
với những bộ phận bên ngoài cơ thể con người (da, hệ thống lông tóc, móng
tay, móng chân, môi và cơ quan sinh dục ngoài) hoặc răng và niêm mạc
miệng với mục đích chính là để làm sạch, làm thơm, thay đổi diện mạo, hình
thức, điều chỉnh mùi cơ thể, bảo vệ cơ thể hoặc giữ cơ thể trong điều kiện
tốt.
1
I.2 Vai trò của hoạt động khuyến mại và quảng cáo mỹ phẩm trong nền kinh tế
thị trường
I.2.1 Từ góc độ thương nhân
Nhìn từ góc độ từ thương nhân, khuyến mại và quảng cáo là các công cụ
luôn được xem xét sử dụng tới trong quá trình hoạt động kinh doanh. Vai trò
của nó được thể hiện rất rõ qua:

- Qúa trình kinh doanh, giới thiệu sản phẩm - mỹ phẩm tới đông đảo
khách hàng, tạo ra cơ hội bán sản phẩm, dịch vụ cho số đông.
- Thúc đẩy việc mua bán, trai đổi sản phẩm, dịch vụ để chiếm lĩnh thị
trường trong một thời gian ngắn.
- Khuyến khích khách hàng trung thành
Bên cạnh mặt tích cực, thương nhân cũng thường gặp phải những khó
như: sự kém hiệu quả của hoạt động khuyến mại gây nên tổn thất về mặt tài
chính hay sự không rõ ràng và rủi ro về mặt luật pháp cùng với đó là sự phản
tác dụng của khuyến mại và quảng cáo từ phía người tiêu dùng sản phẩm,
dịch vụ của thương nhân. Thương nhân phải đạt được sự hài hòa giữa khung
pháp lý và tạo điều kiện chủ động sáng tạo trong hoạt động khuyến mại
quảng cáo, tìm ra hình thức cách thức thực hiện để đánh trung nhu cầu của
người tiêu dùng, phục vụ đúng chiến lược kinh doanh chung.
I.2.2 Từ góc độ người tiêu dùng
Chủ thể quan trọng và chủ yếu mà mọi nhà kinh doanh đều hướng tới khi
tung ra thị trường những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của mình đó là người
1
Thông tư 06/2011/TT- BYT qui định về quản lý mỹ phẩm
tiêu dùng. Ở góc độ là người tiêu dùng, khuyến mại quảng cáo có vai trò nhất
định:
- Được thông tin rõ ràng, chính xác về sản phẩm mỹ phẩm của doanh
nghiệp với giá trị thực của sản phẩm đó.
- Đượng thụ hưởng lợi ích tăng thêm một cách công bằng và đầy đủ từ
hành vi mua bán mỹ phẩm theo cam kết của doanh nghiệp thông qua
hoạt động khuyến mại và quảng cáo.
- Được pháp luật bảo vệ một cách hữu hiệu trong quan hệ với các
doanh nghiệp
I.2.3 Từ góc độ quản lý Nhà nước và pháp luật
Hoạt động khuyến mại và quảng cáo mỹ phẩm từ góc độ quản lý Nhà
nước và pháp luật có vai trò cơ bản là:

- Tạo ra và thúc đẩy thị trường tiêu thụ mỹ phẩm tăng trưởng ổn định.
- Duy trì một thị trường lành mạnh mà ở đó quyền lợi của doanh
nghiệp và quyền lợi của người tiêu dùng được kết hợp một cách hài
hòa và được vảo vệ thích đáng.
II. Thực trạng hệ thống pháp luật thương mại về khuyến mại và
quảng cáo mỹ phẩm
2.1 Hệ thống các văn bản pháp luật thương mại Việt nam hiện hành về
khuyến mạị và quảng cáo mỹ phẩm
Khuyến mại và quảng cáo mỹ phẩm là một trong những khía cạnh nhỏ của
hoạt động khuyến mại và quảng cáo, chính vì vậy mà khuyến mại và quảng cáo
mỹ phẩm cũng là đối tượng điều chỉnh của các văn bản pháp luật cơ bản sau:
- Luật thương mại 2005
- Luật quảng cáo 2012
- Nghị định số 181/2013/NĐ-CP của Chính phủ : Quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật quảng cáo
- Quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật quảng cáo và
Nghị định số 181/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật quảng cáo
Và một số văn bản có liên quan như : Hiến pháp, Bộ luật dân sự, luật doanh
nghiệp, luật doanh nghiệp nhà nước, pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, pháp
lệnh bảo vệ người tiêu dùng
Ngoài ra trong hệ thống pháp luật thương mại Việt Nam còn có văn bản pháp
lý mang tính chất chuyên ngành về quảng cáo và khuyến mại mỹ phẩm như:
- Thông tư 06/2011/TT-BYT của Bộ Y Tế qui định về quản lý mỹ phẩm
- Nghị định 93/2011/NĐ-CP qui định về xử phạt vi phạm hành chính về
thuốc, mỹ phẩm và thiết bị y tế.
2.2 Các nội dung chủ yếu của hệ thống các văn bản pháp luật thương
mại Việt Nam về khuyến mại và quảng cáo mỹ phẩm
2.2.1 Các hình thức khuyến mại mỹ phẩm
- Đưa hàng mẫu mỹ phẩm để khách hàng sử dụng không phải trả tiền:

Hàng mẫu đưa cho khách hàng dùng thử không phải trả tiền phải là hàng đang
bán hoặc sẽ được bán trên thị trường. Hàng này được doanh nghiệp tặng không
cho khách mà không đưa ra bất kỳ điều kiện nào kèm theo.
Ví dụ: người tiêu dùng khi đến quầy mỹ phẩm tại siêu thị khi doanh nghiệp đang
tung chiến dịch quảng bá sản phẩm mỹ phẩm Pond’s là sửa rửa mặt than hoạt
tính mới sẽ được đưa cho mẫu dùng thử (thường dùng được 1-2 lần). Hoạt động
này giúp cho người tiêu dùng được sử dụng thực tế những mỹ phẩm mới ra về
tính năng công dụng của nó.
- Tặng mỹ phẩm cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền:
doanh nghiệp được dùng mỹ phẩm hoặc bất cứ hàng hóa, dịch vụ nào khác để
tặng cho khách hàng mua. Với điều kiện là hàng hóa, dịch vụ dùng để tặng phải
không bị cấm lưu thông trong thị trường và trị giá của nó dùng đê tặng không
được vượt quá 30% giá trị của sản phẩm mỹ phẩm mà được bán ra tính vào thời
điểm trước khuyến mại.
- Bán hàng cung ứng mỹ phẩm với giá thấp hơn giá bán, giá cung ứng
dịch vụ trước đó, được áp dụng trong thời gian khuyến mại: Trong thực tế
thì hình thức khuyến mại này chính những đợt giảm giá (sale off) tại các cửa
hàng mỹ phẩm. Khi đó thương nhân phải niêm yết thời gian khuyến mại; giá mỹ
phẩm bình thường trước thời gian khuyến mại và giá mỹ phẩm đã được giảm
trong thời gian khuyến mại nhưng không được thấp hơn 70% giá sản phẩm mỹ
phẩm trước thời gian khuyến mại.
- Bán hàng có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao
thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố: Khí áp dụng hình thức khuyến
mại này thương nhân phải công bố rõ ràng, cụ thể phiếu mua hàng, các giải
thưởng, cách xác định trúng thưởng và phải in trên phiếu mua hàng hoặc niêm
yết tại nơi bán hàng, và phải công bố ít nhất trên một phương tiện thông tin đại
chúng.
- Bán hàng kèm theo vé số dự thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công
bố: Vé số dự thưởng phải có hình thức khác với vé xổ số kiến thiết do nhà nước
độc quyền phát hành; phải in đủ thông tin cần thiết về chương trình khuyến mại,

số lượng vé dự thưởng phát hành, số lượng giải thưởng, giá trị từng loại giải
thưởng, địa điểm phát thưởng và thời gian, địa điểm mở thưởng ; phải đảm bảo
tính minh bạch của thể lệ xác định trúng thưởng và niêm yết tại nơi bán hàng
hoặc công bố trên một phương tiện thông tin đại chúng, chỉ được phát hành khi
hàng hóa bán ra. Việc mở thưởng chỉ được thực hiện sau khi đã hủy bỏ các vé số
không được phát hàng theo hàng hóa bán ra đã; đặc biệt phải có sự chứng kiến
của cơ quan quản lý nhà nước về thương mại đã chấp thuận cho hoạt động
khuyến mại và đại diện khác hàng. Kết quả trúng thưởng phải được lập thành
biên bản và thông báo công khai
Ví dụ: sản phẩm son dưỡng môi LipIce có kèm theo thẻ cào tham dự giải
thưởng, dưới lớp phủ bạc là mã số mà khi mua sản phẩm khách hàng có được,
khách hàng sẽ có cơ hội là người may mắn trúng giải đặc biệt chiếc xe Wave
trị giá 20 triệu đồng Việt Nam từ thời gian 1/12/2014 đến 1/2/2014 và thông
tin này được đăng, chiếu trên tivi ở kênh VT1, VTV3 thường xuyên.
- Các hình thức khuyến mại khác: Ngoài các hình thức khuyến mại trên,
thương nhân được thực hiện các hình thức khuyến mại khác nếu được cơ quan
quản lý Nhà nước về thương mại chấp nhận.
2.2.2 Các hoạt động khuyến mại mỹ phẩm bị cấm
- Khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ cấm kinh kinh doanh, hàng hóa chưa được
phép lưu thông
- Khuyến mại thiếu trung thực hoặc gây hiểu lầm về hàng hoát hoặc dịch vụ để
lừa dối khách hàng
- Khuyến mại để tiêu thụ hàng hóa kém chất lượng, làm ảnh hưởng sức khỏe con
người, cảnh quan môi trường xã hội và con người
2.2.3 Các hình thức, phương tiện quảng cáo
- Quảng cáo phải sử dụng tiếng nói, chữ viết là tiếng Việt trừ từ ngữ đã được
quốc tế hóa hoặc không thể thay thế được bằng tiếng Việt và trừ quảng cáo bằng
các phương tiện không sử dụng tiếng Việt
- Quảng cáo trên báo chí, gồm báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử. Quảng cáo
trên mạng thông tin máy tính. Quảng cáo trên xuất bản phẩm như phim ảnh,

băng hình, đĩa hình, băng âm thanh, đĩa âm thanh. Quảng cáo trên các chương
trình hoạt động văn hóa, thể thao. Quảng cáo trong hội chợ, triển lãm.
- Quảng cáo trên hàng hóa
- Quảng cáo bằng bản, biển, pa – nô, băng rôn, màn hình đặt nơi công cộng.
Quảng cáo trên vật phát quang, vật thể trên không, dưới nước, quảng cáo trên
phương tiện giao thông, vật thể di động khác
- Quảng cáo phải tuân thủ các qui định của pháp luật về quảng cáo, về quy hoạch
đô thị và nông thôn, đảm bảo mỹ quan đô thị, cảnh quan môi trường, trật tự an
toàn giao thông, an toàn xã hội
2.2.4 Các hoạt động quảng cáo mỹ phẩm bị cấm
- Cấm quảng cáo trái với pháp luật Việt Nam
- Cấm quảng cáo trái với truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ
tục Việt Nam
- Cấm quảng cáo sai sự thật
- Cấm quảng cáo so sánh hoặc nhái sản phẩm quảng cáo của thương nhân khác.
2.2.5 Thủ tục tiến hành hoạt động khuyến mại, quảng cáo mỹ phẩm
2.2.5.1 Hoạt động khuyến mại
Các hình thức khuyến mại sau đây thương nhân không phải tiến hành xin
phép, chỉ cần thông báo bằng văn bản về hình thức khuyến mại cho cơ quan
quản lý nhà nước về thương mại thuộc tỉnh thành phố trực thuộc trung ương nơi
tổ chức khuyến mại trước khi thực hiện khuyến mại; thông báo công khai các
hình thức và thời gian khuyến mại tại nơi bán hàng; thực hiện đúng các cam kết
với khách hàng : đưa hàng mẫu để khách hàng sử dụng không phải trả tiền; tặng
hàng hóa cho khác hàng không thu tiền; bán hàng cung ứng dịch vụ với giá thấp
hơn giá bán, giá cung dịch vụ trước đó, được áp dụng trong thời gian khuyến
mại; bán hàng cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàng để
chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố.
Hình thức khuyến mại bán mỹ phẩm kèm theo vé số dự thưởng theo thể lệ
và giải thưởng đã công bố và các hình thức khuyến mại khác thương nhân được
thực hiện nếu được cơ quan quản lý nhà nước về thương mại chấp thuận.

Khuyến mại trong phạm vi một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thương
nhân phải gửi hồ sơ đến Sở Thương mại. Khuyến mại trong cùng một thời gian
trong phạm vi từ 2 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thương nhân phải gửi
hồ sơ đến Bộ tưhowng mại; Hồ sơ phải được gửi chậm nhất là 15 ngày làm việc
trước ngày dự kiến bắt đầu khuyến mại.
Cơ quan quản lý nhà nước về thương mại xem xét và chấp nhận bằng văn
bản cho thương nhân tổ chức khuyến mại trong thời hạn không quá 7 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Trường hợp không chấp thuận phải trả lời
bằng văn bản trong thời hạn nói trên và phải nêu rõ lý do.
2.2.2.5.2 Hoạt động quảng cáo
Luật đã bãi bỏ Giấy phép thực hiện quảng cáo trên bảng, băng-rôn thay
bằng thủ tục thông báo sản phẩm quảng cáo đến cơ quan quản lý nhà nước về
quảng cáo trước khi thực hiện quảng cáo;
Bãi bỏ Giấy phép ra phụ trương quảng cáo thay bằng thủ tục thông báo cho cơ
quan quản lý nhà nước về báo chí. Luật quảng cáo cũng bỏ quy định khống chế
số trang của phụ trương quảng cáo, phụ trương quảng cáo phải được đánh số
riêng, có cùng khuôn khổ và phải ghi rõ thông tin của tờ báo và dòng chữ: “Phụ
trương quảng cáo không tính vào giá bán”;
Theo quy định tại điều 27 của Quy chế quản lý mỹ phẩm 2007:
1. Các đơn vị kinh doanh mỹ phẩm tại Việt Nam muốn quảng cáo mỹ phẩm phải
gửi hồ sơ quảng cáo mỹ phẩm về Sở Y tế nơi đặt trụ sở của tổ chức, cá nhân
công bố sản phẩm mỹ phẩm. Phong bì đựng hồ sơ ghi rõ: Hồ sơ đăng ký quảng
cáo mỹ phẩm.
2. Hồ sơ đăng ký quảng cáo mỹ phẩm gồm :
a) Phiếu đăng ký quảng cáo mỹ phẩm (theo mẫu Phụ lục số 3a-MP)
b) Bản sao giấy phép kinh doanh của công ty xin quảng cáo
c) Thư uỷ quyền của công ty công bố mỹ phẩm cho công ty đăng ký quảng cáo
(trường hợp công ty đăng ký quảng cáo không phải là công ty đã công bố tiêu
chuẩn chất lượng mỹ phẩm).
d) Công ty đăng ký quảng cáo trên truyền thanh, truyền hình phải gửi kèm các tài

liệu sau:
- Kịch bản, băng hình, băng tiếng và các thiết bị lưu giữ thông tin khác ; kịch bản
phải mô tả rõ phần hình ảnh, phần lời, phần nhạc;
- Dự kiến đài truyền hình, truyền thanh sẽ quảng cáo. Cung cấp số điện thoại,
Fax của các đơn vị truyền hình, truyền thanh đó;
đ) Toàn bộ các tài liệu có trong hồ sơ phải có dấu giáp lai của đơn vị lập hồ sơ.
3. Trình tự, thủ tục cấp phiếu tiếp nhận hồ sơ quảng cáo: Khi nhận được hồ sơ
đăng ký đầy đủ, hợp lệ theo đúng quy định của Quy chế này và nộp lệ phí theo
quy định hiện hành, Sở Y tế gửi cho đơn vị nộp hồ sơ đăng ký một Phiếu tiếp
nhận quảng cáo mỹ phẩm (theo mẫu Phụ lục số 3b-MP). Ngày ghi trên Phiếu
tiếp nhận hồ sơ là ngày Sở Y tế nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Sau 10 ngày làm việc, kể
từ ngày nhận được hồ sơ, nếu Sở Y tế không có văn bản yêu cầu sửa đổi, bổ sung
thì đơn vị được quyền quảng cáo như nội dung đã đăng ký.
4. Trường hợp hồ sơ đăng ký quảng cáo mỹ phẩm chưa hợp lệ theo quy định của
Quy chế này thì Sở Y tế có công văn thông báo cho đơn vị, cá nhân đăng ký
quảng cáo mỹ phẩm bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ.
a) Trong công văn yêu cầu sửa đổi, bổ sung phải nêu cụ thể, chi tiết: những tài
liệu phải bổ sung, nội dung cần sửa, bổ sung
b) Đơn vị phải sửa đổi, bổ sung theo đúng những nội dung được nêu trong văn
bản yêu cầu sửa đổi, bổ sung và gửi về Sở Y tế. Khi đơn vị bổ sung đủ hồ sơ thì
Sở Y tế sẽ gửi một Phiếu tiếp nhận hồ sơ, ngày ghi trên giấy tiếp nhận hồ sơ là
ngày Sở Y tế nhận được hồ sơ bổ sung theo yêu cầu. Sau 05 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được nội dung quảng cáo đã sửa đổi, bổ sung nếu Sở Y tế không có
văn bản yêu cầu sửa đổi, bổ sung thì đơn vị được quảng cáo như nội dung đã sửa
đổi.
c) Trong thời gian 02 tháng, nếu đơn vị đăng ký quảng cáo không sửa đổi, bổ
sung hồ sơ và không có công văn trả lời Sở Y tế thì hồ sơ đăng ký quảng cáo mỹ
phẩm đó không còn giá trị.
5. Trong trường hợp đơn vị đăng ký quảng cáo mỹ phẩm phải sửa đổi, bổ sung
nhưng không theo đúng những nội dung được nêu trong văn bản yêu cầu sửa đổi,

bổ sung thì Sở Y tế sẽ thông báo cho đơn vị, cá nhân đăng ký quảng cáo không
được quảng cáo theo nội dung đã đăng ký. Trong trường hợp này, nếu đơn vị
muốn quảng cáo mỹ phẩm phải nộp lại hồ sơ; trình tự đăng ký và thẩm định hồ
sơ quảng cáo được thực hiện lại từ đầu và phải nộp lệ phí theo quy định.
2.3 Các vấn đề thực trạng
2.3.1 Một số tích cực trong khuyến mại quảng cáo mỹ phẩm
Nếu nhìn rộng ra,khuyến mại không chỉ bó hẹp trong “ mua và bán” mà nó
còn kéo theo, hoặc nói chính xác hơn là những điều khác cùng với nó hợp thành
một sức hút mạnh mẽ, bổ trợ cho nhau. Đơn cử như Hong Kong,Singapore,Thái
Lan…lượng khách quốc tế đến du lịch rất nhiều,phải chăng vì nhiều địa điểm
hấp dẫn? đúng là thế,nhưng chưa đủ, tại đây hàng năm thường diễn ra những
tháng bán hàng” giảm giá” với nhiều thương hiệu nổi tiếng,“ thiên đường mua
sắm”…là câu nói của nhiều người khi đặt chân đến những quốc gia này. Còn tại
Việt Nam từ khi mở cửa,làn sóng đầu tư cả trong và ngoài nước diễn ra rất mạnh
mẽ,nhiều doanh nghiệp,nhiều ngành sản xuất mới ra đời.Và để tồn tại trong vòng
quay khắc nghiệt của thương trường,khuyến mại luôn là một trong những biện
pháp hữu hiệu.Chẳng thế mà,số lượng khuyến mại,giá trị khuyến mại không
ngừng thay đổi qua các năm cả về số lượng lẫn giá trị khuyến mại.
Chúng ta có thể tìm hiều một số hình thức khuyến mại được các doanh
nghiệp thường xuyên sử dụng hiện nay. Trước tiên phải kể đến giảm giá, với
hình thức khuyến mại này, những người bán hàng sẽ in cả 2 loại giá, giá gốc và
giá khuyến mại. Một hình thức khác là người bán hàng có thể công bố tỷ lệ phần
trăm giảm giá. Tỷ lệ này thay đổi tùy theo “đời” của các sản phẩm cùng loại
hoặc trong cùng một cửa hàng, nhưng có nhiều tỷ lệ phần trăm giảm giá cho các
loại sản phẩm khác nhau.
Theo: Thời báo kinh tế Việt Nam - 21/01/2008 Bán hàng ,cung ứng dịch vụ
kèm theo phiếu dự thi trúng thưởng .Đây là một trong những hình thức được sử
dụng nhiều nhất. Hình thức khuyến mại này đánh vào tâm lý thích được nhận
quà của người tiêu dùng. Vì thế đây cũng là hình thức khá được ưa chuộng, có
thể kể đến các hoạt động tặng kèm sản phẩm như: mua bột giặt tặng kèm nước

xả; mua một thùng bia tặng nước ngọt, bật lửa Ngoài các hình thức trên ,thì
hình thức phát hàng mẫu dùng thử đến người tiêu dùng cũng là một cách để giúp
các doanh nghiệp quảng bá hình ảnh của mình.Thường là các mặt hàng sản phẩm
mới lần đầu xuất hiện trên thị trường mang tính chất thăm dò thị hiếu khách hàng
như: thực phẩm, mỹ phẩm Đây là hình thức góp phần quảng cáo sản phẩm mới
của doanh nghiệp đồng thời thăm dò thị trường tiêu dùng về một số chủng loại
mặt hàng nhất định.
2.3.2 Những hạn chế trong khuyến mại và quảng cáo mỹ phẩm
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, nhất là nền kinh tế thị trường mới
phát triển, trình độ nhận thức tiêu dùng của đại đa số người tiêu dùng luôn không
tương xứng với trình độ của các thương nhân trong lĩnh vực khuyến mại và
quảng cáo mà cụ thể hơn là trong lĩnh vực khuyến mại và quảng cáo mỹ phẩm.
Họ dễ dàng tiếp nhận một cách tin tưởng các hoạt động khuyến mại và quảng
cáo của các thương nhân và thường phó mặc việc bảo vệ quyền lợi của mình vào
tay các cơ quan quản lý Nhà nước và pháp luật. Xét trên khía cạnh này, có thể
nói đại đa số người dùng mỹ phẩm là “dễ tính” khi đối mặt với kinh nghiệm
hàng chục, thậm chí hàng trăm năm kinh doanh của các thươgn nhân trên thị
trường, đặc biệt là khối các doanh nghiệp đa quốc, hoạt động trên toàn cầu.
Lợi dụng sự “dễ tính” của đa số người tiêu dùng, các thương nhân làm ăn
thiếu nghiêm túc đã thường xuyên lách vào các kẽ hở của hệ thống pháp luật,
tiến hành các hoạt động khuyến mại và quảng cáo thiếu trung thực và rõ ràng,
xâm phạm đến quyền lợi của người tiêu dùng và làm biến dạng thị trường. Có
những thương nhân liên tục tung ra hàng loạt chiến dịch khuyến mại và quảng
cáo quy mô lớn, hứa hẹn những lợi ích tăng thêm giả tạo cho khách hàng gây
nhiễu loạn thị trường, cạnh tranh không lành mạnh, làm tổn hại nghiêm trọng tới
quyền lợi người tiêu dùng và quyền lợi của các thươgn nhân hoạt động khuyến
mại và quảng cáo trung thực, nghiêm túc.
Mặt khác, với trình độ nhận thức tiêu dùng không tương xứng, người mua
mỹ phẩm khôi khi lại gây sức ép ngược trở lại với các hoạt động khuyến mại của
thương nhân trên thị trường. Người tiêu dùng có thể tiếp cận không đầy đủ hoặc

không đúng với các hoạt động này và từ đó xuất phát các khiếu nại trái pháp luật,
trái nguyên tắc thị trường, gây cản trở không nhỏ đối với hoạt động kinh doanh
và làm mất uy tín các thương nhân bị khiếu nại. Cộng thêm vào đó là hệ thống
trả lời, giải quyết khiếu nại chưa tốt cả từ phía thương nhân lẫn từ phái cơ quan
quản lý Nhà nước làm tình trạng này càng phổ biến.
Cơ chê bảo vệ người tiêu dùng, pháp luật thương mại vê khuyến mại và
quảng cáo đều có các thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nhưng chỉ mới
dưng lại ở mức các qui định chung, không cụ thể, gây khó khăn trong việc áp
dụng vào thực tiễn.
Các văn bản này chủ yếu tập trung hướng dẫn một số các lĩnh vực có
nhiều sai phạm trong quảng cáo và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người
tiêu dùng như: quảng cáo thuốc lá, quảng cáo sữa cho trẻ nhỏ, quảng cáo mỹ
phẩm, sản phẩm y tế…Mặc dù có những quy định hướng dẫn cụ thể như vậy
nhưng sự can thiệp của các cơ quan nhà nước đối với việc quản lý hoạt động
quảng cáo là chưa rõ nét, các chế tài xử phạt còn lỏng lẻo và đặc biệt là chưa có
cơ quan chuyên trách để thẩm định và xử lý vi phạm
Trong khi đó, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành quảng cáo tại
Việt Nam, một số hoạt động quảng cáo không lành mạnh đã xuất hiện giữa các
doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường, gây tổn hại đến quyền và lợi ích của
doanh nghiệp, người tiêu dùng và xã hội nói chung.
Một loạt các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh được ban hành
sau đó cũng chưa cung cấp đầy đủ những hướng dẫn chi tiết về việc áp dụng quy
định về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Nghị định 116/2005/NĐ-
CP ngày 15/9/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh
không có hướng dẫn về phần cạnh tranh không lành mạnh; còn Nghị định
120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật về cạnh
tranh chỉ có quy định về mức xử phạt đối với tổ chức, cá nhân vi phạm.
III. Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật thương mại về
khuyến mại và quảng cáo mỹ phẩm
Không thể phủ nhận những mặt ưu điểm, tích cực trong khuyến mại và quảng

cáo mỹ phẩm mà cần được khuyến khích và phát huy. Song bên cạnh đó còn có
những mặt hạn chế mà cần có biện pháp hoàn thiện như sau.
Thứ nhất, hình thành mối quan hệ giữa Luật Thương mại và Luật quảng cáo
trên cơ sở quan hệ giữa luật chung và luật riêng theo hướng: Luật Thương mại
điều chỉnh hoạt động quảng cáo còn Luật quảng cáo là văn bản pháp lý chuyên
ngành điều chỉnh các về đề thuộc về nội dung quảng cáo dưới góc độ văn hóa,
thông tin. Khái niệm “quảng cáo” trong Luật quảng cáo phải được xác định lại
tương tự như khái niệm “quảng cáo thương mại” trong Luật Thương mại theo
hướng đã xác định ở giải pháp thứ nhất. Bãi bỏ quy định của Luật Quản cáo về
quảng cáo cho “dịch vụ không sinh lời”. Tiếp đó cần thống nhất về hệ thống cơ
quan chịu trách nhiệm chính thức thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt
động quảng cáo là Bộ Thương mại. Bộ Văn hóa- Thông tin với tư cách là cơ
quan quản lý Nhà nước chuyên ngành chỉ tham gia điều chỉnh hoạt động quảng
cáo dưới góc độ kiểm soát lĩnh vực nội dung của quảng cáo tương tự như các
ngành khác như Kiến trúc- Đô thị, Xây dưng, Giao thông Công chính,…Bộ
Thương mại phải phối hợp chặt chẽ với các Bộ Ngành liên quan để trình Chính
phủ ban hành và liên tịch ban hành các văn bản luật hướng dẫn thực hiện hoạt
động quảng cáo trên lãnh thổ Việt Nam.
Thứ hai, cải cách thủ tục hành chính đối với hoạt động khuyến mại và quảng
cáo. Vấn đề lớn nhất phải giải quyết là xem xét lại sự cần thiết và hợp lý của các
quy định cấp giấy phép đối với hoạt động khuyến mại và quảng cáo của thương
nhân trên thị trường. Bằng cách là loại bỏ các quy định kiểm soát bất hợp lý,
không thật sự cần thiết bằng hình thức cấp phép đối với hoạt động khuyến mại
và quảng cáo; chuyển dịch mạnh mẽ từ cơ chế tiền kiểm sang cơ chế hậu kiểm
đồng thời với việc ban hành và duy trì một khung pháp lý đầy đủ, rõ ràng, chính
xác để các thương nhân áp dụng trong hoạt động khuyến mại và quảng cáo; tăng
cường hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động khuyến mại và quảng cáo.
Ban hành các khung xử phạt có tính răn đe mạnh mẽ và kiên quyết xử lý nghiêm
các vi phạm trong hoạt động khuyến mại và quảng cáo của thương nhân.
Thứ ba, thiết lập cơ chế hữu hiệu bảo vệ người tiêu dùng qua việc xem xét hệ

thống các quy định của pháp luật thương mại về khuyến mại và quảng cáo dưới
góc độ bảo vệ người tiêu dùng, cần giải quyết vấn đề thông tin quảng cáo và
khuyến mại. Thông qua các thông tin này, người tiêu dùng sẽ lựa chọn thiết lập
hay không quan hệ với các thương nhân thực hiện quảng cáo và khuyến mại –
quan hệ đó chính là mục tiêu trọng tâm cần phải bảo vệ của pháp luật.
Cụ thể, trong lĩnh vực quảng cáo thì thông tin quảng cáo phải được thương
nhân đưa ra ngay lập tức kèm theo tất cả các loại hình quảng cáo: tên, địa chỉ, số
điệnt hoại của thương nhân thực hiện quảng cáo; tên, địa chỉ, số điện thoại của
thương nhân thực hiện dịch vụ quảng cáo (trong trường hợp sử dụng dịch vụ
quảng cáo); các chỉ định cấm đối với hàng hóa, dịch vụ có thể gây ảnh hưởng tới
sức khỏe, tính mạng con người theo tiêu chuẩn chung của luật pháp; địa chỉ giải
quyết trực tiếp các khiếu nại liên quan đến quảng cáo…
Đối với hoạt động khuyến mại thì cần đưa ra thông tin ở mức đầy đủ cần thiết
và trong sáng, rõ ràng đối với đa số người tiêu dùng. Thông tin khuyến mại phải
được thương nhân cung cấp vô điều kiện tới người tiêu dùng ngay khi có yêu cầu
về hàng hóa. Thương nhân phải đưa ra trong thông tin khuyến mại các quy định
về giải quyết các tranh chấp, cung cấp thông tin địa chỉ giải quyết trực tiếp các
khiếu nại, địa chỉ dịch vụ tư vấn chăm sóc khách hàng miễn phí liên quan đến
khuyến mại. Đồng thời thương nhân phải có sẵn thông tin khuyến mại cho người
tiêu dùng khi chương trình khuyến mại bắt đầu thực hiện
C. KẾT BÀI
Hoạt động khuyến mại và quảng cáo nói chung và khuyến mại và quảng
cáo sản phẩm mỹ phẩm nói riêng là hoạt động cần thiết, gắn liền với nền kinh tế
thị trường và nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Hoạt động này không chỉ cần thiết
với thương nhân mà còn có ý nghĩa rất to lớn đối với người tiêu dùng và hoạt
động quản lý Nhà nước bằng công cụ pháp luật. Bởi vậy, cần càng chú ý và hoàn
thiện hệ thống pháp luật khuyến mại và quảng cáo hơn nữa.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
: />

×