Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

luận văn quản trị kinh doanh Gải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng Công Thương khu công nghiệp Tiên Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 65 trang )

GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
BẢNG DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
NHCT Ngân hàng Công Thương
KCN Khu công nghiệp
VSIP Việt Nam - Singapore
TCKT Tổ chức kinh tế
NHTM Ngân hàng thương mại
TCXH Tổ chức xã hội
PGD Phòng giao dịch
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
MỤC LỤC
1.1.3.2. Chức năng trung gian thanh toán 7
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ
BẢNG
Bảng 2.1. Cơ cấu nguồn vốn huy động Error: Reference source not found
Bảng 2.2. Kết quả huy động vốn theo kỳ hạn Error: Reference source not
found
Bảng 2.3. Kết quả huy động vốn theo loại tiền gửi Error: Reference
source not found
Bảng 2.4. Kết quả tài chính của NHCT KCN Tiên Sơn Error: Reference
source not found
SƠ ĐỒ
1.1.3.2. Chức năng trung gian thanh toán 7
1.1.3.2. Chức năng trung gian thanh toán 7
1.4.2.3. Mức độ đa dạng hoá của các hình thức huy động vốn 26


1.4.2.3. Mức độ đa dạng hoá của các hình thức huy động vốn 26
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Những tháng đầu năm 2012, tình hình kinh tế trong nước và thế giới
có nhiều biến động rất phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh
tế và kiềm chế lạm phát. Đối với tình hình kinh tế trong nước, ngay từ
đầu năm 2012 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện chính sách
tiền tệ một cách chặt chẽ, thận trọng và chủ động, sử dụng linh hoạt, có
hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để
kiểm soát tốc độ tăng tổng phương diện thanh toán, tổng vốn huy động
hợp lý, đảm bảo ổn định giá trị đồng Việt Nam, góp phần thực hiện mục
tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, củng cố, lành mạnh hóa hệ
thống tổ chức tín dụng và các định chế tài chính…
Đứng trước tình hình kinh tế xã hội có nhiều biến động như vậy
đòi hỏi hệ thống Ngân hàng Thương mại nói chung và hệ thống NHCT
KCN Tiên Sơn nói riêng phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên
môn cao, biết xử lý công việc một cách nhanh nhẹn, linh hoạt. Biết vận
dụng kiến thức lí luận cũng như thực tế để giải quyết công việc một cách
có hiệu quả nhất.
Xuất phát từ thực tế và nhu cầu học tập của sinh viên, trường ĐH
Kinh tế quốc dân luôn chú trọng đến công tác giảng dạy và đào tạo ra
những thế hệ có trình độ và chất lượng chuyên môn hóa cao nhằm đáp
ứng nhu cầu thực tế. Thực tập tốt nghiệp là một phần quan trọng không
thể thiếu trong kế hoạch của ngành giáo dục nói chung và của trường ĐH
Kinh tế quốc dân nói riêng nhằm giúp cho sinh viên có cái nhìn tổng quát
hơn, sâu sắc hơn về chuyên ngành đã được đào tạo. Từ những kiến thức
thu thập được trong thời gian học tập, nghiên cứu tại nhà trường và trong
thời gian thực tập tại NHCT KCN Tiên Sơn, đề tài “Gải pháp nâng cao

hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng Công Thương khu công nghiệp
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
1
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
Tiên Sơn” được tác giả chọn làm chuyên đề tốt nghiệp.
Nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về Ngân hàng Công Thương khu công
nghiệp Tiên Sơn
Chương 2: Thực trạng huy động vốn của Ngân hàng Công Thương
khu công nghiệp Tiên Sơn
Chương 3: Đánh giá thực trạng hoạt động huy động vốn của Ngân
hàng Công Thương khu công nghiệp Tiên Sơn
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
2
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ
HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một trong các ngành công
nghiệp ra đời sớm nhất. Ở Mỹ NHTM đầu tiên được thành lập năm 1782,
trước khi Hiến pháp liên bang được thông qua và nhiều NHTM được
thành lập từ những năm 1880 đến nay vẫn đang hoạt động. Ở mỗi một
nước, Luật NHTM có qui định khác nhau, người ta thường dựa vào tính
chất và mục đích hoạt động của Ngân hàng trên thị trường tài chính để
đưa ra cách hiểu về NHTM.
Ở Pháp, theo Luật ngân hàng năm 1941 thì “Ngân hàng là những xí
nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới

hình thức ký thác hay hình thức khác, các số tiền mà họ dùng cho chính
họ và các nghiệp vụ chứng khoán tín dụng hay dịch vụ tài chính”. Hay
như ở Ấn Độ, Luật ngân hàng năm 1950 và được bổ sung năm 1959 đã
nêu: “Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay, tài trợ,
đầu tư”. Và theo Luật ngân hàng của Đan Mạch năm 1930 định nghĩa:
“Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn
bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương
tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra
bảo hiểm…”. Để hiểu về NHTM thì có rất nhiều định nghĩa khác nhau,
nhưng ta thấy rằng các NHTM là như thế nào và để phân biệt các NHTM
với các trung gian tài chính khác như: Các Công ty bảo hiểm, các quỹ
đầu tư… gọi chung là các tổ chức phi ngân hàng thì cần phải dựa trên
tính chất cơ bản của NHTM đó là: NHTM là nơi nhận tiền ký thác, tiền
ký gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay,
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
3
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng.
Ở Việt Nam, theo Điều 20 Luật tổ chức tín dụng (TCTD) được
Quốc Hội thông qua tháng 12 năm 1997 có nêu: “Tổ chức tín dụng là
doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định
khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân
hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng,
cung cấp các dịch vụ thanh toán”. Luật chỉ nêu ngân hàng là loại hình tổ
chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt
động có liên quan. Theo tổ chức và mục tiêu hoạt động của các loại hình
ngân hàng, hiện nay hệ thống Ngân hàng Việt Nam bao gồm năm loại
ngân hàng: Ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng phát
triển, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác. Ngân hàng thương mại

ra đời với tính chất là nhận tiền gửi, sử dụng vào nhiệm vụ cho vay,
chứng khoán và các dịch vụ khác của ngân hàng, ngày càng thể hiện rõ
vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế.
1.1.2. Vai trò của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị
trường
1.1.2.1. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Thực tế cho thấy, để phát triển kinh tế các đơn vị kinh tế cần phải có
một lượng vốn lớn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt
động khác. Nhưng điều khó khăn hơn lợi ích là cần có người đứng ra tập
trung tiền nhàn dỗi ở mọi nơi mọi lúc và kịp thời cung ứng cho nơi cần vốn.
Bằng vốn huy động được trong xã hội thông qua hoạt động tín dụng,
NHTM đã cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn
một cách kịp thời cho quá trình sản xuất. Nhờ có hoạt động của hệ thống
NHTM và đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp, cá nhân có điều
kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, công nghệ để tăng năng suất lao
động, nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng sản phẩm cho xã hội.
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
4
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
1.1.2.2. NHTM là cầu nối các doanh nghiệp với thị trường
Bước sang cơ chế thị trường, đòi hỏi sự phát triển của tín dụng Ngân
hàng đã làm biến đổi hoạt động trong các nhà máy, xí nghiệp khơi dậy
sức sống bằng các dây chuyền sản xuất hiện đại năng suất cao. thực hiện
chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến. Điều không thể thực hiện
bằng vốn tự có của các doanh nghiệp vốn dĩ đã rất it ỏi. Bên cạnh đó, tín
dụng ngân hàng còn cung cấp một phần không nhỏ trong việc tăng cường
nguồn vốn lưu động của các doanh nghiệp. Một vấn đề luôn là mối lo
thường trực của các doanh nghiệp. Một khía cạnh khác đòi hỏi sự có mặt
của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp. Đó là một ngân quỹ để

dành cho việc đào tạo đội ngũ lao động phù hợp với sự phát triển của
khoa học - kỹ thuật – công nghệ cao. Đặc biệt trong điều kiện nước ta
vẫn còn thiếu nhiều những chuyên gia đầu ngành, những cán bộ có năng
lực và những công nhân lành nghề.
1.1.2.3. NHTM là một công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Cùng với sự vận động của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng được
chia làm hai cấp: Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng chuyên doanh
(NHTM). Các NHTM được Nhà nước sử dụng như công cụ để quản lý
hoạt động tiền tệ, điều tiết chính sách tiền tệ quốc gia. Nhà nước điều tiết
ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường thông qua hoạt động tín dụng và
thanh toán giữa các Ngân hàng thương mại trong hệ thống từ đó góp
phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông và thông qua
việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, NHTM thực
hiện việc dẫn dắt các luồng tiền tập hợp và phân chia vốn của thị trường,
điều khiển chúng một cách có hiệu quả.
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
5
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
1.1.2.4. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính
quốc tế
Nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế quốc tế, sự hội nhập
kinh tế quốc gia với thế giới đem lại những lợi ích kinh tế to lớn, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng và bền vững. Một trong các điều
kiện quan trọng góp phần thúc đẩy sự hội nhập nền kinh tế quốc gia với
nền kinh tế thế giới đó là nền tài chính quốc gia. Nền tài chính quốc gia
là cầu nối với nền tài chính quốc tế thông qua hoạt động của NHTM
trong các lĩnh vực kinh doanh như nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ
thanh toán, nghiệp vụ ngoại hối và các nghiệp vụ khác. Đặc biệt là các
hoạt động thanh toán quốc tế, buôn bán ngoại hối, quan hệ tín dụng với

các ngân hàng Nhà nước của NHTM trực tiếp hoặc gián tiếp tác động
góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu và thông qua đó
Ngân hàng thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết tài chính trong nước
phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
1.1.3. Chức năng của Ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Chức năng làm trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng của NHTM được thể hiện qua sơ đồ
luân chuyển vốn sau:
Sơ đồ 1: Sơ đồ luân chuyển vốn
Với chức năng trung gian tín dụng, NHTM làm “cầu nối” giữa
người thừa vốn và người thiếu vốn và nó đã không chỉ đem lại lợi ích cho
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
Cá nhân

doanh
nghiệp
Gửi tiền
Uỷ thác đầu tư
Ngân
hàng
thương
mại
Cho vay
Đầu tư
Cá nhân

doanh
nghiệp
6
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật

Nam
những người dư thừa vốn và những người thiếu vốn mà còn đem lại lợi
ích kinh tế cho bản thân nó và nền kinh tế. Đối với ngân hàng, họ sẽ tìm
được lợi nhuận cho bản thân mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và
lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở
cho Ngân hàng thương mại tồn tại và phát triển. Đối với nền kinh tế,
chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình sản xuất thực hiện
liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này, Ngân hàng
đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt đông thành vốn hoạt động, kích thích
quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Đây chính là chức năng quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại,
nó quyết định sự duy trì và phát triển của Ngân hàng đồng thời là cơ sở
thực hiện các chức năng khác.
1.1.3.2. Chức năng trung gian thanh toán
Chức năng trung gian thanh toán có nghĩa là ngân hàng đứng ra
thanh toán hộ cho khách hàng bằng cách chuyển tiền từ tài khoản này
sang tài khoản khác theo yêu cầu của họ. Thông qua chức năng này Ngân
hàng đóng vai trò là người “thủ quỹ” cho các doanh nghiệp và cá nhân
bởi ngân hàng là người giữ tiền của khách hàng, chi tiền hộ cho khách
hàng. Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì chức năng này của ngân
hàng ngày càng được mở rộng.
Thông qua chức năng trung gian thanh toán, hệ thống NHTM góp
phần phát triển nền kinh tế. Khi khách hàng thực hiện thanh toán qua
ngân hàng sẽ làm giảm rủi ro, giảm chi phí thanh toán cho khách hàng
đồng thời tốc độ luân chuyển vốn kinh doanh của khách hàng nhanh hơn,
làm cho hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng tăng. Đối với NHTM chức
năng này góp phần tăng lợi nhuận của ngân hàng thông qua việc thu lệ
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
7

GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
phí thanh toán. Hơn nữa, nó lại tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng
thể hiện trên số dư Có tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức năng này
cũng chính là cơ sở để hình thành chức năng tạo tiền của NHTM
1.1.3.3. Chức năng tạo tiền
Đây là hệ quả của hai chức năng trên trong hoạt động ngân hàng: Từ
một số dự trữ ban đầu thông qua quá trình cho vay và thanh toán bằng
chuyển khoản của ngân hàng thì lượng tiền gửi mới được tạo ra và nó lớn
hơn so với lượng dự trữ ban đầu gấp nhiều lần, gọi là quá trình tạo tiền
của hệ thốn ngân hàng.
Một ngân hàng sau khi nhận được một món tiền gửi, trên tài khoản
tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng sẽ có số dư. Với số dư này sau khi
đã để lại một khoản dự trữ bắt buộc, ngân hàng sẽ đem đi đầu tư, cho vay
từ đó nó sẽ chuyển sang vốn tiền gửi của ngân hàng khác. Với vòng quay
của vốn thông qua chức năng tín dụng và thanh toán của ngân hàng.
NHTM thực hiện được chức năng tạo tiền
1.1.4. Hoạt động của Ngân hàng thương mại
Nhìn chung các nghiệp vụ chủ yếu của một NHTM được chia làm 3
loại nghiệp vụ chính: nghiệp vụ huy động vốn, sử dụng vốn và nghiệp vụ
trung gian.
Nghiệp vụ huy động vốn của NHTM được thực hiện qua hành vi mở
tài khoản để thực hiện thanh toán cho khách hàng, hoặc huy động các loại
tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, dân cư , phát hành
kỳ phiếu, trái phiếu, đi vay các Ngân hàng tổ chức tín dụng khác, đi vay
Ngân hàng Trung ương… Đây là nguồn gốc để các NHTM phát tín dụng
vào nền kinh tế, còn phần vốn tự có của NHTM chủ yếu là để phục vụ cho
việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật mua sắm máy móc thiết bị … Như
vậy có thể nói ngân hàng kinh doanh bằng nguồn vốn huy động là chủ yếu,
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn

8
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
tuỳ theo luật pháp của mỗi nước mà các NHTM được huy động một tỷ lệ
cao hay thấp vốn huy động để kinh doanh. Thông thường vốn huy động của
NHTM có thể gấp 20 lần vốn tự có của NHTM trở lên, hay nói cách khác đi
vốn tự có của NHTM được quy định thông thường bằng hay lớn hơn 5%
vốn huy động mà NHTM được phép huy động.
Khi đã huy động được vốn trong tay, để có thể tạo ra lợi nhuận,
NHTM phải tiến hành kinh doanh dưới các hình thức dùng vốn huy
động, mà chủ yếu là cấp tín dụng, các NHTM có thể sử dụng nguồn vốn
đó để kinh doanh dưới các dạng đầu tư khác như: kinh doanh ngoại tê,
kinh doanh chứng khoán, đầu tư vốn trực tiếp vào các doanh nghiệp dưới
dạng góp vốn, thành lạp công ty… Nghiệp vụ sử dụng vốn có hiệu quả,
góp phần mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế, thu hút
được nhiều khách hàng đến quan hệ giao dịch với ngân hàng, tạo điều
kiện thuận lợi để mở rộng nghiệp vụ huy động vốn.
Bên cạnh đó NHTM cũng có thể tạo ra doanh thu cho mình bằng
việc thực hiện các dịch vụ được phép như thanh toán, chuyển tiền hộ, tư
vấn khách hàng, quản lý hộ tài sản cho khách hàng… trên cơ sở đó ngân
hàng thu phí dịch vụ. Ngày nay, do nhu cầu phát triển của nền kinh tế,
đòi hỏi hoạt động dịch vụ trang thiết bị, cơ sở vật chất áp dụng công nghệ
tiên tiến vào hoạt động ngân hàng, thực hiện tốt khâu thanh toán không
dùng tiền mặt như uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thanh toán séc, thanh toán
bù trừ, thực hiện chuyển tiền nhanh qua mạng máy vi tính, thực hiện
thanh toán qua thẻ tín dụng. Thực hiện tốt khâu dịch vụ góp phần tăng
thu nhập cho ngân hàng. Hiện nay xu hướng nguồn thu về dịch vụ ngày
càng tăng và chiếm tỷ lệ lớn về tổng thu trong kinh doanh của ngân hàng.
Đồng thời góp phần làm tăng chu chuyển đồng vốn, tiết kiệm vốn trong
quá trình thanh toán, làm giảm khối lượng lưu thông tiền mặt, tiết kiệm

được chi phí in ấn, kiểm đếm tiền… Ngân hàng thực hiện tốt khâu dịch
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
9
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
vụ, thanh toán sẽ thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến giao dịch
với Ngân hàng. Từ đó tạo điều kiện cho công tác huy động vốn và cho
vay của ngân hàng.
Tóm lại: các hoạt động của NHTM có mối quan hệ mật thiết hữu cơ,
làm tiền đề, điều kiện cho nhau. Vì vậy, các NHTM phải thực hiện tốt
đồng bộ tất cả các hoạt động.
1.2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm vốn huy động trong Ngân hàng thương mại
NHTM là một trung gian tài chính, ở mỗi nước khác nhau các trung
gian tài chính lại được phân chia khác nhau. Tuy nhiên, luôn tồn tại một
điểm chung là vai trò chủ đạo của các ngân hàng thương mại đóng góp
khối lượng tài sản và tầm quan trọng đối với nền kinh tế. Để có được vị
trí đó NHTM phải đặt yếu tố lợi nhuận lên hàng đầu và công cụ duy nhất
mà các NHTM phải có trước tiên là vốn.
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương mại
tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện
các dịch vụ kinh doanh khác.
Vốn của ngân hàng được hình thành qua các nguồn khác nhau. Để
bắt đầu hoạt động của ngân hàng thì chủ ngân hàng phải có một lượng
vốn nhất định được gọi là vốn ban đầu. Trong quá trình hoạt động, ngân
hàng gia tăng khối lượng vốn của mình thông qua các hoạt động huy
động vốn như nghiệp vụ tiền gửi, nghiệp vụ đi vay và các nghiệp vụ khác
( dịch vụ uỷ thác, trung gian thanh toán…).
“Vốn huy động là những giá trị tiền tệ do ngân hàng huy động được
tù các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình

thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh
khác…”. Vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn.
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
10
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
1.2.2. Vai trò của vốn huy động
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được
thì phải có vốn bởi vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả
năng kinh doanh. Riêng đối với Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh
doanh một loại hàng hoá đặc biệt là “tiền tệ” với đặc thù hoạt động kinh
doanh là “đi vay để cho vay” nên nguồn vốn đối với hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng lại càng có vai trò hết sức quan trọng. Vốn là điểm
đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng. Ngoài vốn ban đầu cần
thiết tức là đủ vốn điều lệ theo luật định thì để bắt đầu hoạt động kinh
doanh của mình, việc đầu tiên mà ngân hàng phải làm là huy động vốn.
Vốn huy động sẽ cho phép ngân hàng cho vay, đầu tư… để thu lợi nhuận.
Nói cách khác, nguồn vốn mà ngân hàng huy động được nhiều hay ít
quyết định đến khả năng mở rộng hay thu hẹp tín dụng. Nguồn vốn huy
động được nhiều thì cho vay được nhiều và mang lại lợi nhuận cao cho
ngân hàng.
Với chức năng tập trung và phân phối cho các nhu cầu của nền kinh
tế, một nguồn vốn huy động dồi dào sẽ tạo cho ngân hàng điều kiện để
mở rộng hoạt động kinh doanh, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, không
bỏ lỡ cơ hội đầu tư, giảm thiểu rủi ro, tạo dựng được uy tín cho ngân
hàng.
Bên cạnh đó, nguồn vốn huy động của ngân hàng quyết định đến
khả năng cạnh tranh. Nếu nguồn vốn huy động lớn sẽ chứng minh rằng
qui mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kĩ thuật của ngân hàng hiện đại.
Các ngân hàng thực hiện cho vay và nhiều hoạt động khác đều chủ

yếu dựa vào vốn huy động. Còn vốn tự có chỉ sử dụng trong những
trường hợp cần thiết. Vì vậy, khả năng huy động vốn tốt sẽ là điều kiện
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
11
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các
thành phần kinh tế cả về qui mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời
gian, thời hạn cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho
khách hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số
hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và ngân hàng sẽ có
nhiều thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh, đảm bảo uy tín và năng
lực trên thị trường.
Với những vai trò hết sức quan trọng đó, các ngân hàng luôn tìm
cách đưa ra những chính sách quản lý nguồn vốn từ khâu nhận vốn từ
những người gửi tiền và những người cho vay khác nhau đến việc sử
dụng nguồn vốn một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, các nhà quản trị ngân
hàng cũng luôn tìm cách để đổi mới, hoàn thiện chúng cho phù hợp với
tình hình chung của nền kinh tế. Đó là một trong những điều kiện tiên
quyết đưa ngân hàng đến thành công.
1.2.3. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.2.3.1. Huy động từ tiền gửi của khách hàng
Tiền gửi của khách hàng đó là tiền gửi của các tổ chức kinh tế,
doanh nghiệp cơ quan Nhà nước và các định chế tài chính trung gian
cùng cá nhân trong và ngoài nước có quan hệ tiền gửi tại ngân hàng.
Tiền gửi của khách hàng được chia làm hai bộ phận: tiền gửi của
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
a. Tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế bao gồm:
- Tiền gửi không kỳ hạn:
Đây là khoản tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào và

ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng, thực chất đó là
khoản tiền gửi dùng để đảm bảo trong thanh toán.
Tiền gửi đảm bảo thanh toán được ký thác vào ngân hàng để thực
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
12
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
hiện các khoản chi trả khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh
doanh của khách hàng một cách thuận tiện và tiết kiệm. Đây là khoản
tiền tạm thời nhàn rỗi chờ thanh toán mà không phải để dành. Bởi vậy,
đối với khách hàng đây là một tài sản mà họ ký thác uỷ nhiệm cho ngân
hàng bảo quản và thực hiện các nghiệp vụ liên quan theo yêu cầu của
khách hàng. Do vậy, khách hàng không mất quyền sở hữu, cũng như
quyền sử dụng số tiền đó. Họ có quyền lấy ra hoặc chuyển nhượng cho
bất kỳ ai và bất kỳ thời gian nào. Khách hàng được sử dụng số tiền của
mình bằng các phương tiện thanh toán dùng để chi trả cho người thụ
hưởng, loại tiền gửi này lãi suất thường thấp hơn lãi suất trả cho các
khoản tiền gửi có lãi khác. Nhưng khi khách hàng mở và sử dụng các loại
tài khoản này thì được ngân hàng cung ứng các loại dịch vụ miễn phí
hoặc thu với tỷ lệ thấp, lượng tiền vốn ở tài khoản thanh toán thường
chiếm gần 1/3 tiền gửi ngân hàng.
Như vậy, các tài khoản này đã đem lại cho khách hàng sự an toàn
trong việc bảo quản vốn và trong quá trình thanh toán trả tiền hàng hoá
dịch vụ, ngoài ra khách hàng còn được hưởng một khoản tiền lãi nhỏ và
một số dịch vụ miễn phí. Còn đối với ngân hàng phải bỏ ra chi phí cho bộ
máy kế toán theo dõi và ghi chép các nghiệp vụ phát sinh, chi phí này
khá lớn, nhưng nó được bù đắp lại bởi vì trên thực tế do lượng tiền gửi
vào và số lượng tiền rút ra không cùng một lúc và chủ tài khoản thường
không sử dụng hết số tiền của mình trên tài khoản. Do đó luôn tồn tại
một số tiền trên tài khoản trong một thời gian dài số dư ấy được ngân

hàng dùng để đầu tư cho vay đối với một số doanh nghiệp, cá nhân mở
tài khoản giao dịch tại ngân hàng, làm cho lượng tiền gửi này ngày càng
gia tăng. Đó là những nguồn vốn dùng để cho vay hết sức quan trọng của
ngân hàng, đồng thời lợi nhuận thu về từ nguồn vốn này cũng ngày càng
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
13
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
tăng.
- Tiền gửi có kỳ hạn:
Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của doanh
nghiệp, chưa sử dụng đến trong một thời gian nhất định, mà khoảng thời
gian này được xác định trước. Do đó các doanh nghiệp thường gửi vào
ngân hàng dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Phần lớn các nguồn tiền gửi
này xuất phát từ nguồn tích luỹ của các doanh nghiệp mà có. Về nguyên
tắc khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đến hạn và được hưởng số tiền lãi
trên số tiền gửi đó. Nhưng hiện nay để thu hút vốn nhằm khuyến khích
khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, các NHTM cho phép khách hàng rút
tiền ra trước hạn. Trong trường hợp nay khách hàng không được hưởng
lãi hoặc chỉ được hưởng theo lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn.
Do tính chất của loại tiền vốn tương đối ổn định, ngân hàng có thể
sử dụng phần lớn số dư loại nguồn vốn này để cho vay trung dài hạn.
Nếu số nguồn vốn này chiếm tỷ trọng lớn hơn tổng nguồn vốn huy động
sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi, chủ động của ngân hàng trong quá trình kinh
doanh.
- Tiền gửi tiết kiệm dân cư
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân được gửi
vào ngân hàng, nhằm hưởng lãi suất theo qui định. Tiền gửi tiết kiệm là
bộ phận thu nhập bằng tiền gửi của cá nhân chưa sử dụng được gửi vào
tổ chức tín dụng. Nó là một dạng đặc biệt của tích luỹ tiền tệ trong tiêu

dùng cá nhân. Khi gửi tiền người gửi tiền được giao một sổ tiết kiệm coi
như một giấy chứng nhận tiền gửi vào Ngân hàng. Đến thời hạn khách
hàng rút tiền ra được nhận một khoản tiền lãi trên tổng số tiền gửi tiết
kiệm.
Có hai loại tiền gửi tiết kiệm:
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
14
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:
Loại tiền gửi này người gửi tiền có thể rút ra một phần hoặc toàn bộ
số tiền gửi bất kỳ lúc nào. Nhưng khác với loại tiền gửi thanh toán, người
gửi tiền không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người
khác, lãi suất tiền gửi tiết kiệm thường cao hơn và phần lớn những người
gửi tiền tiết kiệm là do chưa xác định được nhu cầu chi tiêu cụ thể trong
tương lai, nhưng lại hưởng mức lãi trong thời gian khoản tiền nhàn rỗi.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
Khi cá nhân gửi tiền vào ngân hàng loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
trên cơ sở thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời hạn gửi, lãi
suất theo qui định và khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đến hạn. Nhưng
trong thực tế ở nước ta hiện nay để khuyến khích người gửi tiền các
NHTM vẫn cho khách hàng rút ra trước thời hạn và được hưởng lãi suất
thấp hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn ( thông thường bằng lãi suất tiền gửi
tiết kiệm không kỳ hạn ).
Nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư có số lượng
lớn thứ hai trong tổng số các loại tiền gửi vào ngân hàng và nó phụ thuộc
rất lớn vào thu nhập bình quân theo đầu người, tỷ lệ tiết kiệm trên tổng
thu nhập của dân cư, chất lượng phục vụ của NHTM, sự ổn định đồng
tiền và nền kinh tế tăng trưởng vững chắc.
1.2.3.2. Huy động vốn qua phát hành công cụ nợ

a. Phát hành kỳ phiếu có mục đích
Khi các NHTM có nguồn vốn tài chính dồi dào để tài trợ cho các
nguồn vốn có qui mô lớn, nhằm phát triển kinh tế địa phương, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế hoặc liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế mà
các nguồn vốn tự có chưa đáp ứng được, NHTM trình ngân hàng Nhà
nước xin phép phát hành kỳ phiếu để tạo nguồn vốn tín dụng tương đối
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
15
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
lâu dài cho các hoạt động này.
Như vậy kỳ phiếu là một chứng chỉ huy động vốn có mục đích, có
thời hạn, người sở hữu có thể chuyển nhượng cho người khác qua chứng
nhận của ngân hàng, vì trên sổ kỳ phiếu có ghi tên người hưởng. Kỳ
phiếu ngân hàng được phát hành nhằm huy động vốn nhàn rỗi vào ngân
hàng, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định trị của đồng tiền, tạo nguồn
vốn trung dài hạn để đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế.
b. Phát hành trái phiếu
Trái phiếu ngân hàng thực chất là giấy nhận nợ có kỳ hạn của ngân
hàng đối với những người mua trái phiếu (nhà đầu tư). Trái phiếu được
các NHTM hay các tổ chức tín dụng phát hành nhằm huy động vốn cho
chính bản thân ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng có liên quan. Thời
hạn của trái phiếu thường lớn hơn một năm. Lãi suất của trái phiếu
thường cao hơn lãi suất của tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu. Các NHTM phát
hành trái phiếu trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn thông qua các dự án đầu
tư của doanh nghiệp mà ngân hàng cam kết cho vay.
Huy động vốn thông qua việc phát hành các công cụ nợ của các
NHTM như kỳ phiếu, trái phiếu là một hình thức mới trong công tác huy
động vốn của NHTM ở các nước đang phát triển. Vốn được huy động từ
hình thức này dùng để đầu tư cho các dự án trung và dài hạn.

1.2.3.3. Vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác và ngân hàng Trung
ương
Khi các NHTM có sự mất cân đối giữa nguồn vốn huy động và sử
dụng vốn, xảy ra hiện tượng thiếu vốn đột xuất.
Để đảm bảo khả năng thanh toán của mình, các tổ chức tín dụng vay
vốn của nhau qua thị trường liên ngân hàng. Thị trường này giúp cho
NHTM bổ sung nguồn vốn cho nhau, nhằm giải quyết tình trạng thiếu
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
16
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
hụt vốn trong thanh toán. Hoạt động của thị trường này nhằm tận dụng
đến mức cao nhất các khả năng sẵn có một cách triệt để của các tổ chức
tín dụng, trước khi có nhu cầu vay vốn của ngân hàng Trung Ương.
Việc thực hiện quan hệ tín dụng giữa các NHTM phải được tiến
hành theo nguyên tắc đi vay cho vay và phải được thoả thuận trên cơ sở
hợp đồng tín dụng, vốn vay phải đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố ( tiền
mặt tại quỹ và các chứng từ có giá trị ), hay NHTM đi vay có thể xin
ngân hàng Nhà nước bảo lãnh để vay vốn các ngân hàng khác. Các ngân
hàng đi vay phải chấp hành đầy đủ các quy chế dự trữ bắt buộc và an
toàn vốn, phải có tài khoản tiền gửi thanh toán hoạt động thường xuyên
tại NHTW.
Khi các NHTM đã hết khả năng vay mượn của nhau mà vẫn thiếu
vốn hoặc mất khả năng thanh toán, các NHTM thực hiện vay vốn tại
ngân hàng Trung ương để tạo thêm nguồn vốn bổ sung cho hoạt động
kinh doanh của mình. Việc ngân hàng Trung ương cho các NHTM vay
đã làm tăng khả năng thanh toán cho các NHTM. Nguồn vốn của ngân
hàng Trung ương là nguồn vốn cuối cùng, làm cho khả năng thanh toán
của nền kinh tế được bình thường. Nếu như thiếu nguồn vốn này thì sẽ
xuất hiện các cuộc khủng hoảng tài chính khi các NHTM mất khả năng

thanh toán.
Các nguồn đi vay từ các tổ chức tín dụng khác, từ ngân hàng Trung
ương để đảm bảo khả năng thanh toán trong những trường hợp cần thiết.
Cho nên thời hạn vay thường ngắn, lãi suất thường cao hơn các hình thức
huy động vốn khác của NHTM.
1.2.3.4.Huy động từ nguồn vốn khác
Ngoài các nguồn vốn huy động trên các NHTM cũng có thể khai
thác nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế, đây là nguồn vốn lớn, có
thời hạn tương đối dài từ 5 đến 50 năm với lãi suất tương đối ưu đãi. Khi
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
17
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
các NHTM nhận các nguồn vốn này thường có các điều kiện kèm theo
rất chặt chẽ và việc cấp phát phải đúng nội dung chương trình của các dự
án tài trợ.
Ở nước ta khi thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, Đảng và
Nhà nước ta đã sáng suốt lựa chọn các đường lối ngoại giao đúng đắn,
trên tinh thần mở cửa của nền kinh tế, làm bạn với tất cả các nước trên
thế giới, thu hút các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam. Các
nguồn vốn này có đóng góp rất quan trọng vào công cuộc đổi mới công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước và
NHTM phải tăng cường mở rộng các mối quan hệ hợp tác quốc tế, từ đó
tranh thủ và tiếp nhận các nguồn vốn này.
Trên đây là các hình thức huy động vốn chủ yếu của NHTM, tuy
nhiên chất lượng, hiệu quả của hoạt động huy động vốn chịu ảnh hưởng
tác động rất nhiều yếu tố, từ các yếu tố mang tính chất vĩ mô, đến các yếu
tố mang tính chất vi mô của nền kinh tế, cũng như các yếu tố liên quan
tới chính NHTM.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động huy động vốn

1.3.1. Khái niệm: Hiệu quả huy động vốn là gì?
Để nâng cao hiệu quả của công tác huy động vốn đòi hỏi công tác
huy động vốn phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất: Nguồn vốn huy động phải xuất phát từ nhu cầu kinh
doanh của ngân hàng để đảm bảo có khả năng đáp ứng cho hoạt động sử
dụng vốn của ngân hàng. Tức là vốn huy động phải có sự tăng trưởng ổn
định về số lượng, có thể thoả mãn các nhu cầu tín dụng, thanh toán cũng
như các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng.
Thứ hai: Nguồn vốn huy động phải đảm bảo cơ cấu hợp lý, đó chính
là tính cân đối theo nhu cầu giữa vốn ngắn hạn và vốn trung dài hạn giữa
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
18
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
huy động ở dân cư, huy động ở tổ chức và…Một cơ cấu vốn hợp lý phải
là một cơ cấu vốn đáp ứng tối đa nhu cầu sử dụng và không có tình trạng
bất hợp lý, dư thừa hay thiếu vốn.
Thứ ba: Nguồn vốn huy động phải đảm bảo tối thiểu hoá chi phí.
Đây là yếu tố quan trọng nhất, có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của
ngân hàng. Chi phí này chính là số tiền mà ngân hàng phải trả cho các
lượng vốn huy động được, chi phí hoạt động cao hay thấp phụ thuộc vào
mức lãi suất mà ngân hàng đưa ra, tất nhiên là lãi suất huy động càng cao
thì càng hấp dẫn khách hàng. Nhưng cả lãi suất huy động và lãi suất cho
vay đều là công cụ cạnh tranh của ngân hàng và hai loại này lại có quan
hệ phụ thuộc chặt chẽ với nhau và có khi đối ngược nhau, nếu ngân hàng
nâng lãi suất huy động để tăng cường huy động vốn thì cũng buộc phải
nâng lãi suất cho vay để đảm bảo bù đắp chi phí huy động và kinh doanh
có lãi. Như vậy, nâng lãi suất huy động quá cao thì lại dẫn tới giảm khả
năng cạnh tranh trong cho vay và đầu tư. Yêu cầu đặt ra cho ngân hàng là
phải làm sao đưa ra mức lãi suất hợp lý, vừa đảm bảo cạnh tranh trong

huy động và cạnh tranh trong cho vay đồng thời đảm bảo có lãi. Có thể
thấy rằng, việc tối thiểu hoá chi phí huy động theo từng loại hình huy
động là rất khó do những đặc điểm riêng của từng loại hình vừa nêu trên.
Cơ sở để ngân hàng hàng tối thiều hoá chi phí huy động ở đây là sự hợp
lý về cơ cấu vốn và sự cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn.
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động huy động vốn
1.3.2.1. Các nhân tố khách quan
a. Môi trường pháp lý
Nghiệp vụ huy động vốn của các NHTM chịu sự điều chỉnh rất lớn
của môi trường pháp lý. Có những bộ luật tác động trực tiếp mà chúng ta
thường thấy như: Luật các TCTD, Luật NHNN… Những Luật này quy
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
19
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
định tỉ lệ huy động vốn của ngân hàng so với vốn tự có, qui định về việc
gửi và sử dụng tài khoản tiền gửi… Có những Bộ Luật tác động gián tiếp
đến hoạt động ngân hàng như Luật đầu tư nước ngoài hoặc các NHTM
không được nhận tiền gửi hoặc cho vay bằng cách tăng giảm lãi suất, mà
phải dựa vào lãi suất do NHNN đưa ra và chỉ được xê dịch trong biên độ
nhất định mà NHNN cho phép… Bên cạnh những bộ luật đó thì chính
sách tài chính tiền tệ của một quốc gia cũng ảnh hưởng rất lớn tới nghiệp
vụ tạo vốn của NHTM. Nó được thể hiện ở mục tiêu của chính sách tiền
tệ, chẳng hạn khi nền kinh tế lạm phát tăng, Nhà nước có chính sách thắt
chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội
thì lúc đó NHTM huy động vốn dễ dàng hơn. Như vậy, môi trường pháp
lí là nhân tố khách quan có tác động rất lớn tới quá trình huy động vốn
của NHTM. Mục tiêu hoạt động của NHTM được xây dựng vào các qui
định, qui chế của Nhà nước để đảm bảo an toàn và nâng cao niềm tin từ
khách hàng.

b. Môi trường kinh tế xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước cũng có tác động
không nhỏ đến quá trình huy động vốn của ngân hàng. Khi nền kinh tế
tăng trưởng hay suy thoái thì nó đều ảnh hưởng tới nghiệp vụ tạo vốn của
NHTM. Mọi biến động của nền kinh tế bao giờ cũng được biểu hiện rõ
trong việc tăng, giảm nguồn vốn huy động từ bên ngoài của ngân hàng.
Nền kinh tế tăng trưởng, sản xuất phát triển, từ đó tạo điều kiện tích luỹ
nhiều hơn, do đó tạo môi trường cho việc thu hút vốn của NHTM thuận
lợi. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát tăng, người dân không
gửi tiền vào ngân hàng mà giữ tiền để mua hàng hoá, việc thu hút vốn
gặp khó khăn.
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
20
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
c. Tâm lý, thói quen khách hàng
Khách hàng của ngân hàng bao gồm những người có vốn gửi tại
ngân hàng và những đối tượng sử dụng vốn đó. Về môi trường xã hội ở
các nước phát triển, khách hàng luôn có tài khoản cá nhân và thu nhập
được chuyển vào tài khoản của họ. Nhưng ở các nước kém phát triển,
nhu cầu dung tiền mặt thường lớn hơn. Ở khoản mục tiền gửi tiết kiệm có
hai yếu tố quan trọng tác động vào là thu nhập và tâm lý của người gửi
tiền. Thu nhập ảnh hưởng đến nguồn vốn tiềm tàng mà Ngân hàng có thể
huy động trong tương lai. Còn yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến sự biến động
ra vào của các nguồn tiền. Tâm lý tin tưởng vào tương lai của khách hàng
có tác dụng làm ổn định lượng tiền gửi vào, rút ra và ngược lại nếu niềm
tin của khách hàng về đồng tiền trong tương lai sẽ mất giá gây ra hiện
tượng rút tiền hàng loạt vốn là mối lo ngại lớn nhất của ngân hàng. Một
đặc điểm quan trọng của đối tượng khách hàng là mức độ thường xuyên
của việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Mức độ sử dụng càng cao, ngân

hàng càng có điều kiện mở rộng việc huy động vốn.
1.3.2.2. Các nhân tố chủ quan
a. Các hình thức huy động vốn
Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn thì trước hết phải đa
dạng hình thức huy động vốn. Hình thức huy động vốn của ngân hàng
ngày càng phong phú, linh hoạt bao nhiêu thì khả năng thu hút vốn từ nền
kinh tế càng lớn bấy nhiêu. Điều này xuất phát từ sự khác nhau trong nhu
cầu và tâm lý của các tầng lớp dân cư. Mức độ đa dạng các hình thức huy
động càng cao thì dễ dàng đáp ứng một cách tối đa nhu cầu của dân cư,
vì họ đều tìm thấy cho mình một hình thức gửi tiền phù hợp mà lại an
toàn. Do vậy các NHTM thường cân nhắc rất kĩ lưỡng trước khi đưa vào
áp dụng một hình thức mới.
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
21
GVHD: Th.s. Nguyễn Hương Giang SVTH: Nguyễn Nhật
Nam
b. Chính sách lãi suất cạnh tranh
Việc duy trì lãi suất tiền gửi cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau
đã trở nên cực kỳ quan trọng trong việc thu hút các khoản tiền gửi mới và
duy trì tiền gửi hiện có. Điều này đặc biệt đúng khi lãi suất thị trường đã
ở vào mức tương đối cao. Các ngân hàng cạnh tranh giành vốn không chỉ
với các ngân hàng khác mà còn với các tổ chức tiết kiệm khác, các thị
trường tiền tệ và với những người phát hành các công cụ tài chính khác
nhau trong thị trường tiền tệ. Khi lãi suất tối đa bị loại bỏ trong quá trình
nới lỏng các quy định, việc duy trì mức lãi suất cạnh tranh càng trở nên
gay gắt. Đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ, đủ cho những khác
biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy người gửi tiền tiết kiệm và
nhà đầu tư chuyển vốn từ ngân hàng này sang ngân hàng khác hay từ
công cụ này sang công cụ khác.
c. Năng lực và trình độ cán bộ ngân hàng

Nếu ngân hàng có trình độ quản lí tốt sẽ có khả năng tư vấn phù hợp
cho khách hàng đem lại hiệu quả cao thì sẽ thu hút được khách hàng với
mình. Mặt khác, quản lí tốt sẽ đảm bảo được an toàn vốn, tăng uy tín, tạo
điều kiện tốt cho công tác huy động vốn của ngân hàng.
1.4. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn của các Ngân hàng
thương mại
1.4.1. Các chỉ tiêu định lượng
Để việc đánh giá về hiệu quả về hoạt động huy động vốn tại các ngân
hàng được chính xác và đầy đủ, người ta thường sử dụng một số chỉ tiêu cơ
bản sau:
1.4.1.1. Chỉ tiêu xác định chi phí huy động.
- Thông thường người ta thường sử dụng phương pháp tính chi phí
Cơ sở: Ngân hàng Công thương khu công nghiệp Tiên Sơn
22

×