Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

luận văn quản trị kinh doanh Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của Công ty cổ phần xây dựng số 3 - VINACONEX 3.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.12 KB, 106 trang )

MỤC LỤC
Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu, ảnh hưởng đến khả
năng cạnh tranh sản phẩm của Công ty. Trình độ, kinh nghiệm của cán bộ ảnh hưởng
trực tiếp tới việc xem xét lựa chọn sản phẩm của công ty trong các hồ sơ dự thầu, hồ
sơ đề xuất đến khách hàng. Chất lượng cũng như số lượng nguồn nhân lực của doanh
nghiệp cho thấy khả năng và kinh nghiệm để sản xuất ra những sản phẩm xây lắp có
chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Đồng thời nó cũng tác động rất lớn
đến năng suất, chất lượng, tiến độ và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Qua biểu nhân lực của công ty (biểu 3.1 phần phụ lục) ta thấy: 44
Bảng 3.1 : Năng lực cán bộ quản lý, chuyên môn và kỹ thuật 96
Tên máy và thiết bị 96
Máy cẩu 97
Phương tiện vận tải 98
Máy các loại khác 98
Máy xây dựng 98
Máy cắt, uốn, dập 99
Dụng cụ kiểm tra thử nghiệm 99
Máy Trắc đạc 99
Thiết bị Giàn giáo Cốp Pha 99
Năm 2010 101
Năm 2011 101
Năm 2012 101
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1 : Năng lực cán bộ quản lý, chuyên môn và kỹ thuật 96
Bảng 3.2: Máy móc thiết bị (Xem Phụ lục) Error: Reference source not found
Bảng 3.3: Một số chỉ tiêu tài chính Error: Reference source not found
Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu, ảnh hưởng đến khả
năng cạnh tranh sản phẩm của Công ty. Trình độ, kinh nghiệm của cán bộ ảnh hưởng
trực tiếp tới việc xem xét lựa chọn sản phẩm của công ty trong các hồ sơ dự thầu, hồ
sơ đề xuất đến khách hàng. Chất lượng cũng như số lượng nguồn nhân lực của doanh
nghiệp cho thấy khả năng và kinh nghiệm để sản xuất ra những sản phẩm xây lắp có


chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Đồng thời nó cũng tác động rất lớn
đến năng suất, chất lượng, tiến độ và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Qua biểu nhân lực của công ty (biểu 3.1 phần phụ lục) ta thấy: 44
Bảng 3.1 : Năng lực cán bộ quản lý, chuyên môn và kỹ thuật 96
Số năm công tác 96
Tên máy và thiết bị 96
Máy cẩu 97
Phương tiện vận tải 98
Máy các loại khác 98
Máy xây dựng 98
Máy cắt, uốn, dập 99
Dụng cụ kiểm tra thử nghiệm 99
Máy Trắc đạc 99
Thiết bị Giàn giáo Cốp Pha 99
Năm 2010 101
Năm 2011 101
Năm 2012 101
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu sắc với thế giới,
nhất là sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO, các doanh
nghiệp Việt Nam đứng trước rất nhiều cơ hội kinh doanh nhưng cũng phải đối mặt
với muôn vàn thách thức. Thị trường Việt Nam trở thành một thị trường tiềm năng
cho các doanh nghiệp nước ngoài với nguồn vốn lớn, kinh nghiệm dồi dào và trình
độ quản lý cao đầu tư. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp xây dựng và bất động
sản Việt Nam không chỉ phải cạnh tranh với nhau mà còn phải cạnh tranh với các
doanh nghiệp bất động sản nước ngoài vốn rất mạnh về tiềm lực tài chính, công
nghệ hiện đại ngay trên sân nhà. Đây thực sự là thách thức rất lớn đối với các doanh
nghiệp xây dựng và bất động sản Việt Nam, đặt ra yêu cầu cấp bách phải tìm kiếm
các biện pháp mới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường .

Cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trường, do đó nâng cao năng lực
cạnh tranh là vấn đề sống còn trong hoạt động kinh doanh và phát triển của doanh
nghiệp. Môi trường kinh doanh càng có nhiều cơ hội hoặc xuất hiện các nguy cơ thì
cạnh tranh để tồn tại và phát triển ngày càng trở nên gay gắt giữa các doanh nghiệp.
Cạnh tranh không phải sự huỷ diệt mà là sự thay đổi, thay thế những doanh nghiệp
không biết đón nhận cơ hội kinh doanh bằng những doanh nghiệp biết nắm bắt thời
cơ và phát huy tối đa sức mạnh của mình. Chính vì vậy, cạnh tranh là động lực phát
triển không những của mỗi doanh nghiệp mà suy rộng ra còn cho cả mỗi quốc gia.
Nâng cao năng lực cạnh tranh là chỉ tiêu tổng hợp thể hiện sức mạnh của
doanh nghiệp về nhiều mặt. Các doanh nghiệp ngày càng phải duy trì được lợi thế
cạnh tranh của mình, có như vậy thị trường mới có thể cung cấp những dịch vụ hay
sản xuất có hiệu quả cao hơn. Hơn nữa vấn đề cạnh tranh của các doanh nghiệp xây
lắp trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam vẫn là bài toán khó đối với các nhà quản lý
khi phải dần hoà nhập vào sân chơi chung của thế giới và là thành viên chính thức
của tổ chức thương mại thế giới.
1
Công ty cổ phần xây dựng số 3 – VINACONEX 3 là thành viên thuộc Tổng
công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xây dựng Việt Nam với ngành nghề truyền
thống là xây dựng. Trong những năm gần đây Công ty đã và đang chuyển mình
sang nhiều lĩnh vực nhằm đa dạng hóa ngành nghề, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp
cạnh tranh trên thị trường. Hiện nay, Công ty có 4 ngành nghề kinh doanh chính là
Xây lắp, Đầu tư kinh doanh bất động sản, sản xuất vật liệu xây dựng và đầu tư khai
thác chợ B.O.T. Trong 10 năm gần đây, bất động sản là hoạt động trung tâm Công
ty và coi xây lắp như hoạt động phụ trợ cho đầu tư. Năm 2010, Thị trường bất động
sản Việt Nam đã bắt đầu đi vào suy giảm, trầm lắng, điều đó đã ảnh hưởng rất nhiều
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Hoạt động đầu tư kinh doanh bất
động sản của Công ty hầu như bị tê liệt, hoạt động cầm chừng. Việc quay lại lĩnh
vực hoạt động truyền thống xây lắp là điều tất yếu đối với Công ty cũng như các
doanh nghiệp xây lắp làm bất động sản khác. Việc xa rời thị trường xây lắp một số
năm, đòi hỏi Công ty phải có những chiến lược cụ thể nhằm nâng cao năng lực cạnh

tranh sản phẩm xây lắp, mở rộng thị trường tìm kiếm cơ hội kinh doanh.
Từ năm 2011, Công ty đã và đang thực hiện một số chính sách nhằm tăng
cường khả năng cạnh tranh sản phẩm của mình. Các chính sách này đã đem lại một
số hiệu quả nhất định được thể hiện qua kết quả kinh doanh đạt được của công ty.
Tuy nhiên, trong một thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các chính sách đó
vẫn còn những hạn chế và Công ty cần có chiến lược mới để nâng cao năng lực
cạnh tranh sản phẩm của mình. Xác định được tầm quan trọng của vấn đề, tác giả đã
lựa chọn đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp cao học của mình là “Nâng cao
năng lực cạnh tranh sản phẩm của Công ty cổ phần xây dựng số 3 -
VINACONEX 3”. Trong đề tài của mình, tác giả tập trung đi sâu vào việc nghiên
cứu và tìm biện pháp cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm xây lắp, loại
sản phẩm chủ yếu của VINACONEX 3 trong những năm tới. Thông qua hoạt động
nghiên cứu cả về mặt lý thuyết cạnh tranh, năng lực cạnh tranh sản phẩm và thực tế
hoạt động cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh của Công ty, tác giả mong muốn sẽ
đưa ra một số giải pháp hợp lý và khả thi nhằm áp dụng để nâng cao năng lực cạnh
2
tranh sản phẩm của Công ty cổ phần xây dựng số 3, đáp ứng nhu cầu phát triển lâu
dài và bền vững của Công ty.
2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm đạt được các mục tiêu cơ bản sau:
- Luận văn trình bày những lý luận về năng lực cạnh tranh sản phẩm để từ đó
làm cơ sở cho việc nghiên cứu cho năng lực cạnh tranh sản phẩm tại VINACONEX 3.
- Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh sản phẩm; phân tích các
nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh sản phẩm của VINACONEX 3.
- Đưa ra một số giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của
VINACONEX 3 dựa trên cơ sở lý luận và phân tích thực trạng của công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh sản phẩm của VINACONEX 3
thông qua phân tích thực trạng, xác định các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh
sản phẩm , phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh sản phẩm và

có sự so sánh với một số sản phẩm của doanh nghiệp trong ngành.
Phạm vi nghiên cứu: Sản phẩm xây lắp của VINACONEX 3, có so sánh với
một số đối thủ cạnh tranh cùng ngành.
Thời gian nghiên cứu: giai đoạn 2008 – 2012, định hướng đến 2016
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp hai phương pháp nghiên cứu là phân tích định
lượng và phân tích định tính để trả lời các câu hỏi nghiên cứu.
Phân tích định lượng: thông qua việc xử lý các số liệu thu thập được từ cách
nguồn thứ cấp, bằng các phương pháp tổng hợp, so sánh theo thời gian để rút ra kết
luận về mối quan hệ và các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của công ty.
Phân tích định tính: thông qua phương pháp phỏng vấn đối với các thành
viên khác nhau trong công ty và một số khách hàng để tìm hiểu về thực trạng năng
lực cạnh tranh của công ty, từ đó tìm ra các giải pháp phù hợp.
Các nguồn dữ liệu: các số liệu, thông tin sẽ được thu thập thông qua các tài
liệu thống kê, các sách, báo, tạp chí, các trang web trên internet, các báo cáo và tài
liệu của VINACONEX 3, cùng một số tài liệu khác.
3
5. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn sẽ tổng hợp, khái quát hóa các vấn đề lý luận liên quan tới cạnh
tranh và năng lực cạnh tranh sản phẩm của các doanh nghiệp nói chung, doanh
nghiệp ngành xây lắp nói riêng.
Vận dụng lý thuyết, luận văn đưa ra những nhận xét, đánh giá cụ thể về năng
lực cạnh tranh sản phẩm của VINACONEX 3 và đề ra những giải pháp mang tính
khoa học và khả thi nhằm áp dụng nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm và hiệu
quả hoạt động của VINACONEX 3.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, các bảng biểu, phụ lục, danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn được trình bày gồm 4 phần chính thể hiện trong 4 chương sau:
Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu các đề tài có lên quan
Chương 2: Cơ sở lý luận về nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm

Chương 3: Thực trạng năng lực cạnh tranh sản phẩm của Công ty cổ
phần xây dựng số 3 - VINACONEX 3
Chương 4: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của Công
ty cổ phần xây dựng số 3 - VINACONEX 3
4
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CÁC ĐỀ TÀI CÓ LIÊN QUAN
Năng lực cạnh tranh chính là sức mạnh của doanh nghiệp được thể hiện trên
thương trường. Sự tồn tại và sức sống của một doanh nghiệp thể hiện trước hết ở
năng lực cạnh tranh để từng bước vươn lên giành thế chủ động trong quá trình sản
xuất kinh doanh của mính. Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm là cơ sở để nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiêp. Vì vậy, năng lực cạnh tranh sản phẩm là
một vấn đề có tính chất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, của một ngành kinh tế cũng như một Quốc gia. Cạnh tranh luôn tồn tại trong
môi trường kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp. Cạnh tranh được nghiên cứu từ
rất lâu, số lượng công trình nghiên cứu, số tác giả nghiên cứu về năng lực cạnh tranh
và nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp là rất lớn. Dưới đây là
tổng hợp một vài nghiên cứu của các tác giả có liên quan đến đề tài năng lực cạnh
tranh và vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh trong các doanh nghiệp xây dựng.
1.1. Các công trình nghiên cứu về năng lực cạnh tranh có liên quan .
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã gặp rất nhiều các luận văn thạc sỹ
nghiên cứu về vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh ở nhiều cấp độ và lĩnh vực khác
nhau từ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần đến các doanh nghiệp tư
nhân. Đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất dệt may, ngân hàng, tài
chính, xuất nhập khẩu. Tuy nhiên do giới hạn phạm vi đề tài nghiên cứu là doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Xây lắp và kinh doanh bất động sản, nên tác giả đi
sâu vào tìm hiểu một số luận văn thạc sỹ trong lĩnh vực xây lắp và đầu tư kinh
doanh bất động sản. Có thể kể tới một số công trình nghiên cứu sau:
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Trần Thu Thủy, Đại học kinh tế quốc dân thực

hiện năm 2008, với đề tài: “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xây
dựng và chuyển giao kỹ thuật”. Tác giả chia luận văn của mình làm 4 chương.
Chương 1 – Mở đầu, tác giả giới thiệu về lý do chọn đề tài, đối tượng nghiên cứu,
5
mục đích, đóng góp của luận văn. Đối tượng được nghiên cứu của luận văn này là
một Công ty thuần về sản xuất sản phẩm xây lắp với quy mô vừa. Chương 2 tác giả
đưa ra những khái niệm, quan niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh, các hình
thức cạnh tranh và phương thức cạnh tranh. Tiếp theo tác giả đề cập đến các yếu tố
ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh và các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp xây dựng hiện nay. Đặc biệt ở đây tác giả đã chỉ ra phương thức cạnh
tranh của doanh nghiệp xây dựng đó chính là sản phẩm xây lắp thông qua các chỉ
tiêu trong đấu thầu xây dựng. Tác giả nhấn mạnh đến 3 chỉ tiêu chính đó là năng lực
kinh nghiệm của nhà thầu; các cam kết về chất lượng và giải pháp thực hiện; giá dự
thầu. Chương 3 tác giả giới thiệu thực trạng năng lực canh tranh của Công ty cổ
phần xây dựng và chuyển giao kỹ thuật. Tác giả giới thiệu những nét chủ yếu về
doang nghiệp, mô hình tổ chức hoạt động và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Từ đó đi sâu vào phân tích điểm mạnh, điểm yếu, nguy cơ và cơ hội của
doanh nghiệp. Kết hợp với việc so sánh với một số đơn vị xây lắp cạnh tranh chủ
yếu từ đó có cái nhìn tổng thể về Công ty cổ phần xây dựng và chuyển giao kỹ
thuật. Chương 4 tác giả đưa ra những lý do cấp thiết phải nâng cao năng lực cạnh
tranh của Công ty cổ phần xây dựng và chuyển giao kỹ thuật. Sau khi sử dụng ma
trận SWOT để phân tích doang nghiệp, tác giả đã đưa ra giải pháp để nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm: Sắp xếp, củng cố tổ chức và hoàn thiện
quy chế quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh; giải pháp về vốn kinh doanh; xây
dựng chiến lược thị trường, đa dạng hóa sản phẩm, phát triển nguồn nhân lực.
Mặc dù luận văn đã có những ưu điểm nhất định như: phân tích thực trạng
Công ty cổ phần xây dựng và chuyển giao kỹ thuật, đưa ra một số giải pháp cụ thể
có tính ứng dụng cao. Tuy nhiên, trong phần cơ sở lý luận, tác giả chưa nêu bật
được những đặc điểm khác biệt của sản phẩm xây dựng, chưa đưa ra những luận
điểm rõ ràng khi sử dụng các chỉ tiêu để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh

nghiệp xây dựng.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Công Cao Cường, Đại học kinh tế quốc dân, thực
hiện năm 2011, đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xây lắp
6
Bưu Điện Hà Nội”. Luận văn chia làm 4 chương. Chương 1, tác giả đưa ra tổng
quan các công trình nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xây lắp,
bưu chính viễn thông. Tác giả đã đưa ra những nhận xét chung về các công trình
nghiên cứu, từ đó tìm khoảng trống nghiên cứu cho đề tài luận văn của mình tại
công ty cổ phần xây lắp bưu điện Hà Nội. Chương 2 tác giả đưa ra những lý luận về
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong chương này tác giả đưa ra lý
thuyết về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh, các nhân tố khách quan và chủ quan
ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tác giả đưa ra một loạt các
chỉ tiêu để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như thị phần, năng suất
lao động. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận, uy tín và kinh nghiệm của doanh nghiệp.
Chương 3, tác giả đi sâu vào đánh giá thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của
Công ty cổ phần xây lắp Bưu Điện Hà Nội. Tác giả đưa ra các đặc điểm kinh tế kỹ
thuật ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xây lắp Bưu Điện Hà
Nội. Từ đó tác giả đi phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Chương 4, tác giả sử dụng ma trận SWOT phân tích về năng lực
cạnh tranh của Công ty cổ phần xây lắp Bưu Điện Hà Nội. Kết hợp với định hướng
phát triển của Công ty cổ phần xây lắp Bưu Điện Hà Nội, tác giả đã đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như: Nâng cao khả năng
đấu thầu; nâng cao năng lực tài chính; nâng cao năng lực nguồn nhân lực; nâng cao
kỹ thuật, cải tiến công nghệ; xây dựng văn hóa doanh nghiệp,
Trong luận văn này, tác giả đã đưa ra những luận điểm về cạnh tranh doanh
nghiệp khá cụ thể. Tác giả cũng đưa ra những giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp khá phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp. Tuy nhiên
trong phần đưa ra chỉ tiêu thị phần để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, chỉ tiêu này còn quá chung chung, chưa phản ánh được đặc thù sản phẩm
xây dựng và chưa cụ thể hóa thị phần của doanh nghiệp về số lượng hợp đồng được

ký cũng như giá trị của hợp đồng.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Hoàng Văn Tuyến, Đại học kinh tế quốc dân,
thực hiện năm 2011, với đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty
7
đầu tư và phát triển nhà Hà Nội”. Trong chương 1, tác giả đã đi sâu vào tìm hiểu và
trình bày các vấn đề liên quan đến cạnh tranh và năng lực cạnh tranh. Tác giả đưa ra
khái niệm về cạnh tranh và phân loại cạnh tranh, nêu lên vai trò của cạnh tranh,
những cách thức cạnh tranh của doanh nghiệp. Từ đó tác giả đưa những luận điểm
về sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và các tiêu chí
đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. ở đây tác giả cũng đưa ra một số
kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của một số doanh nghiệp xây dựng và
kinh doanh bất động sản.
Trong chương 2 tác giả đi sâu vào tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển
của Tổng công ty đầu tư và phát triển nhà Hà Nội. Xem xét và đánh giá hiện trạng
hoạt động của doanh nghiệp, từ đó phân tích những cơ hội và thách thức của Tổng
công ty đầu tư và phát triển nhà Hà Nội. và đưa ra những đánh giá chung về thực
trạng năng lực cạnh tranh của Tổng công ty đầu tư và phát triển nhà Hà Nội, kết quả
đạt được, hạn chế và nguyên nhân .
Chương 3 tác giả nêu lên các quan điểm phát triển và mục tiêu phát triển của
Tổng công ty đầu tư và phát triển nhà Hà Nội. Từ đó tác giả đưa ra các giải pháp
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm: Giải pháp hoàn
thiện mô hình và cơ cấu tổ chức; Giải pháp tài chính và huy động vốn; Giải pháp
đầu tư thiết bị và phát triển công nghệ; Giải pháp phát triển nguồn nhân lực; Giải
pháp phát triển thị trường và đa dạng hóa lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh; Giải
pháp xây dựng văn hóa doanh nghiệp; Giải pháp phát triển thương hiệu HANDICO.
Luận văn đã có những ưu điểm như nhận định xu thế phát triển và quan điểm
phát triển đúng đắn. Luận văn đã đưa ra được những giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh. Nhưng luận văn chưa tận dụng được lợi thế cạnh tranh của doanh
nghiệp xây lắp làm bất động sản, chưa đưa ra được giải pháp tận dụng ưu thế kết
hợp giữa xây lắp và đầu tư kinh doanh bất động sản.

- Luận văn của tác giả Hoàng Diệu Linh, Đại học kinh tế quốc dân, chuyên
ngành tài chính, lưu thông tiền tệ và tín dụng, thực hiện năm 2008, đề tài: “ Thẩm
định dự án đầu tư tại Công ty cổ phần xây dựng số 3 – VINACONEX3”. Đề tài đưa
8
ra những nhận định và đánh giá về thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại
công ty VINACONEX3, từ đó đưa ra giải pháp thẩm định dự án đầu tư tại công ty
VINACONEX3. Đề tài chỉ đi sâu vào công tác thẩm định dự án đầu tư mà chưa
quan tâm đến sản phẩm xây lắp của doanh nghiệp.
- Luận văn của tác giả Vũ Văn Thành, Đại học kinh tế quốc dân, thực hiện
năm 2010, đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần phát triển xây
dựng Cửu Long – Chi nhánh Bắc Ninh”. Đối tượng nghiên cứu ở đây là một Công
ty nhỏ, được thành lập năm 2006 với thị trường chủ yếu là tại tỉnh Bắc Ninh. Sản
phẩm duy nhất của doanh nghiệp là sản phẩm xây lắp. Tác giả đã đưa ra những giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, những giải pháp này
chỉ phù hợp với doanh nghiệp nhỏ, địa bàn hoạt động nhỏ.
- Tham luận của Tiến sỹ Phạm Sỹ Liêm, Phó chủ tịch Tổng hội xây dựng
Việt Nam tại hội thảo: “Nhà thầu Việt Nam tại sao thua trên sân nhà” năm 2011, đã
nghiên cứu và tập trung làm rõ chủ đề: “Nâng cao năng lực của nhà thầu xây dựng
Việt Nam”.
TS Liêm đã cho thấy năng lực cạnh tranh của nhà thầu xây dựng Việt Nam
về cơ bản là thấp so với các đối thủ nước ngoài như: thiếu kinh nghiệm, thiếu vốn,
thiếu khả năng quản lý. Vì vậy nhiệm vụ quan trọng của các doanh nghiệp xây dựng
Việt Nam đó là nâng cao năng lực cạnh tranh. Ông đề xuất một vài kiến nghị cụ thể
như tiếp tục hoàn thiện thị trường xây dựng, đạt trọng tâm vào phát triển thị trường
các yếu tố sản xuất, kiểm tra và sử lý nghiêm các vi phạm. Ủy nhiệm cho các tổ
chức xã hội nghề nghiệp xây dựng thể chế kiến trúc sư và kỹ sư chuyên nghiệp, bối
dưỡng và cấp chứng chỉ kỹ sư giám sát, kỹ sư định giá, kỹ sư kết cấu, Lập dữ liệu
về giao nhận thầu xây dựng; tổ chức tổng kết và công bố rộng rãi kinh nghiệm xây
dựng các công trình mới, công trình lớn có vốn đầu tư nước ngoài. Tiếp tục hoàn
thiện các luật đầu tư công, đấu thầu, nhằm tạo hành lang pháp lý tốt nhất cho các

nhà thầu xây dựng.
1.2. Khoảng trống cho nghiên cứu
Các luận văn thạc sỹ và các công trình nghiên cứu trên đều thực hiện phân
tích và áp dụng triệt để lý thuyết, lý luận về cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh
9
tranh. Trên cơ sở đó, tác giả có thể đúc rút những kinh nghiệm và kiến thức trong
tìm hiểu về năng lực cạnh tranh của các tác giả, từ đó áp dụng vào nghiên cứu thực
tế tại VINACONEX 3. Tuy nhiên phạm vi áp dụng của các luận văn và các công
trình nghiên cứu trên hoặc là đối với toàn bộ ngành kinh tế, hoặc một doanh nghiệp
xây dựng. Chưa có luận văn nào đi sâu vào phân tích năng lực cạnh tranh của sản
phẩm của các doanh nghiệp xây lắp mà chỉ đi vào phân tích năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp xây lắp. Từ những công trình nghiên cứu trên, tác giả đạt ra câu hỏi
là: Đối với sản phẩm của doanh nghiệp xây dựng thì năng lực cạnh tranh của sản
phẩm là gì, yếu tố nào có tính chất ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh sản phẩm
của doanh nghiệp xây dựng và doanh nghiệp xây dựng làm gì để phát huy thế mạnh
nhằm củng cố và nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của mình trong thời kỳ bất
động sản trầm lắng, đầu tư trong nước và nước ngoài suy giảm.
VINACONEX 3 là một doanh nghiệp truyền thống xây lắp được thành lập từ
năm 1992. Đến năm 2002, VINACONEX 3 bắt đầu tham gia đầu tư kinh doanh bất
động sản và đưa bất động sản thành hoạt dộng chính của doanh nghiệp. Năm 2010,
thị trường bất động sản trầm lắng, Hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty giảm
sút nghiêm trọng, công ăn việc làm thiếu, nhân lực dư thừa. Chính vì vậy, HĐQT
công ty đã xác định lại định hướng, coi xây lắp là mũi nhọn, là hoạt động chủ đạo
của doanh nghiệp trong giai đoạn 2012-2016 nhằm tồn tại và tạo đà cho hoạt động
những năm tiếp theo của Công ty. Quy trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
cũng thay đổi lại. Trước kia chủ yếu từ tập trung nghiên cứu nhu cầu khách hàng –
sản xuất - bán hàng – giao hàng, nay quay lại quy trình sản xuất kinh doanh theo
hướng có đơn đặt hàng – sản xuất – giao hàng. Doanh nghiệp phải thay đổi như thế
nào để hòa nhập với hướng sản xuất kinh doanh này. Nhất là trong giai đoạn đầu tư
xây dựng cơ bản sút giảm mạnh như hiện nay, Doanh nghiệp xây lắp phải làm gì để

tồn tại và phát triển trong tình hình thị trường cạnh tranh khốc liệt, người bán thì
nhiều, người mua thì ít. Vì vậy nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm xây lắp là
điều kiện sống còn của doanh nghiệp VINACONEX 3 hiện nay. Chính vì vậy tác
giả đã chọn nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của VINACONEX 3 cho luận
văn của mình.
10
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP
2.1. Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
2.1.1 Quan niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
Cạnh tranh là một thuật ngữ đã được xã hội loài người nhắc đến từ rất lâu,
song trong những năm gần đây chúng ta thấy thuật nghữ này đuợc nhắc đến nhiều
hơn, đặc biệt là ở Việt Nam. Bởi trong nền kinh tế mở như hiện nay, khi xu hướng
tự do hóa thương mại ngày càng phổ biến, các rào cản được phá bỏ thì cạnh tranh là
phương thức để đứng vững và phát triển của Doanh nghiệp. Thuật ngữ “cạnh tranh”
được sử dụng ngày càng phổ biến trong hầu hết các lĩnh vực từ thương mại, tài
chính, chính trị đến thể thao, thậm chí trong cả các tài liệu liên quan đến pháp luật
văn hóa. Nhưng trong thực tế “cạnh tranh là gì?” thì vẫn đang là một khái niệm
chưa được thống nhất, các nhà nghiên cứu kinh tế đã đưa ra các khái niệm về cạnh
tranh khác nhau dưới nhiều góc độ khác nhau.
Theo diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và Phát
triển Kinh tế OECD, thì cạnh tranh là “Cạnh tranh là khả năng các Doanh nghiệp,
ngành, quốc gia và vùng tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh
tranh quốc tế” Định nghĩa trên đã cố gắng kết hợp cả hoạt động cạnh tranh của
Doanh nghiệp, của ngành của quốc gia và vùng lãnh thổ.
Trong khi đó Ủy ban cạnh tranh Công nghiệp của Tổng thống Mỹ đưa ra khái
niệm cạnh tranh đối với một quốc gia là: “Cạnh tranh đối với một quốc gia thể hiện
trình độ sản xuất hàng hóa dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường quốc tế,
đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của nhân dân nước đó trong

những điều kiện thị trường tự do và công bang xã hội” trong khái niệm cạnh tranh
này người ta nhấn mạnh đến vai trò của các điều kiện cạnh tranh là “ Tự do và công
bằng xã hội.”
Như vậy, xét trên góc độ vĩ mô các khái niệm về cạnh tranh đều cho thấy mục
11
tiêu chung của hoạt động cạnh tranh là thỏa mãn tối đa nhu cầu của thị trường trong
nước và quốc tế , tạo thêm việc làm và và thu nhập cao hơn cho nền kinh tế.
Trong khi đó các nhà kinh tế của trường phái cổ điển cho rằng “ Cạnh tranh là
một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên
thị trường một dư địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần
xứng đáng so với khả năng của mình” Theo quan niệm này cạnh tranh chủ yếu là cạnh
tranh về giá cả, chính vì vậy lý thuyết giá cả gắn chặt với lý thuyết cạnh tranh.
Khi Các - Mác nghiên cứu về cạnh tranh Tư bản chủ nghĩa, Mác đã đưa khái
niệm về cạnh tranh như sau “Cạnh tranh tư bản là sự ganh đua, sự đấu tranh gay
gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất
và tiêu thụ hàng hóa nhằm thu lợi siêu ngạch” Như vậy cạnh trạnh là hoạt động của
các Doanh nghiệp trong nền sản xuất hàng hóa với mục đích ganh đua với nhau để
chiếm lĩnh thị trường nhằm mục đích thu lợi nhuận cao.
Nhằm kế thừa những nghiên cứu mang tính khoa học của các tư tưởng, khái
niệm về cạnh tranh trước đây, bài viết luận văn cho rằng để đưa ra một khái niệm
đầy đủ cần chỉ ra được chủ thể cạnh tranh, tính chất, phương thức và mục đích của
quá trình cạnh tranh. Và từ đó chúng ta có thể khái quát “Cạnh tranh là một quá
trình kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế (quốc gia, ngành hoặc Doanh nghiệp)
ganh đua với nhau để chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cùng các điều
kiện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có lợi nhất nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận”
Như vậy chúng ta có thể nói về bản chất, cạnh tranh là mối quan hệ giữa các chủ
thể với nhau trong việc giải quyết các lợi ích. Bản chất kinh tế của cạnh tranh thể hiện ở
mục đích lợi nhuận và quyền chi phối thị trường. Trong khi đó bản chất xã hội của cạnh
tranh được thể hiện đạo đức kinh doanh, uy tín kinh doanh của mỗi chủ thể cạnh tranh
trong quan hệ với những người lao động trực tiếp tạo ra sức cạnh tranh cho doanh nghiệp

và được thể hiện trong mối quan hệ của người tiêu dùng và đối thủ cạnh tranh khác.
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường, nó chịu nhiều
chi phối của quan hệ sản xuất và nó giữ vị trí thống trị trong xã hội, quy luật lưu thông
tiền tệ, quy luật cung cầu, đây là một đặc trưng gắn với bản chất của cạnh tranh. Quy
12
luật cạnh tranh chỉ ra cách thức làm cho giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, do đó nó
làm giảm giá cả thị trường, nó tạo ra sức ép làm gia tăng hiệu quả sử dụng các yếu tố
xuất, và từ đó nó chỉ ra ai là người sản xuất kinh doanh thành công nhất.
Về khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Từ trước tới nay, khái niệm
năng lực cạnh tranh được nhắc đến rất nhiều nhưng đến nay khái niệm này vẫn chưa
được hiểu một cách thống nhất. Bởi lẽ năng lực cạnh tranh cần phải đặt vào điều kiện,
bối cảnh phát triển của đất nước trong từng thời kỳ. Khái niệm năng lực cạnh tranh
thường dùng để nói đến các đặc tính cho phép một hãng cạnh tranh một cách có
hiệu quả với các hãng khác nhờ có chi phí thấp hoặc sự vượt trội về công nghệ
trong so sánh quốc tế (theo nhà kinh tế Alan V. Deardorff)
Năng lực cạnh tranh là khả năng tạo cho doanh nghiệp một lợi thế cạnh tranh
tuyệt đối và tương đối so với các đối thủ khác với mục tiêu chiếm được thị phần và
tối đa hóa lợi nhuận, đưa doanh nghiệp phát triển về quy mô và ảnh hưởng của
mình trong thị trường.
Năng lực cạnh tranh là “năng lực duy trì được lợi thế cạnh tranh là lợi nhuận
và thị phần trên các thị trường trong và ngoài nước”.
Tuy nhiên, có thể nói khái niệm nổi tiếng nhất thế giới về năng lực cạnh
tranh là của Michael Porter. Ông đã đưa ra rất nhiều khái niệm nhưng “ suy cho
cùng năng lực cạnh tranh chính là năng suất – productivity”.
Năng lực cạnh tranh được đánh giá dựa trên năng suất, giá trị của hàng hoá
và dịch vụ làm ra tính trên một đơn vị nhân lực, vốn, tài nguyên của một quốc gia.
Năng suất cao tạo ra mức lương cao (cho người làm công), đồng tiền mạnh (cho
một quốc gia), lợi nhuận hấp dẫn trên nguồn vốn và cuối cùng là mức sống cao cho
người dân.
Khái niệm “Năng lực cạnh tranh” vì thế được coi là một khái niệm động, chịu tác

động trực tiếp bởi nhiều yếu tố vĩ mô và vi mô.
Vậy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể cho là khả năng duy trì và nâng
cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút
và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững.
13
2.1.2. Phân loại về năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh về cơ bản được phân chia theo 4 cấp độ chính đó là:
Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia, năng lực cạnh tranh cấp độ ngành, năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, dịch vụ.
Năng lực cạnh tranh Quốc gia
Cạnh tranh quốc gia là các hoạt động nhằm duy trì cải thiện vị trí của nền kinh
tế của mỗi quốc gia trên thị trường thế giới một cách lâu dài để thu được lợi ích ngày
càng cao cho nền kinh tế của quốc gia đó. Tuy nhiên chủ thể trực tiếp tham gia cạnh
tranh là những Doanh nghiệp của quốc gia đó. Do vậy quốc gia nào có nhiều Doanh
nghiệp có năng lực cạnh tranh cao thì quốc gia đó có năng lực cạnh tranh tốt hơn
những quốc gia khác. Môi trường cạnh tranh kinh tế của Quốc gia đóng vai trò rất lớn
đối với việc thúc đẩy quá trình đầu tư, thu hút đầu tư, tự điều chỉnh, tự lựa chọn của
các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp theo các tín hiệu thị trường được thông tin đầy
đủ. Mặt khác, môi trường cạnh tranh tốt sẽ tạo điều kiện cho Chính phủ hoạch định
chính sách phát triển, cải thiện tình hình đầu tư, tăng cường hợp tác quốc tế và hội
nhập ngày càng hiệu quả, bền vững. Nhưng vấn đề này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và của quốc gia nói chung.
Năng lực cạnh tranh ngành
Đối với một ngành, năng lực cạnh tranh là khả năng đạt được những thành
tích bền vững của các doanh nghiệp (của quốc gia) trong ngành so với các đối thủ
nước ngoài, mà không nhờ sự bảo hộ hoặc trợ cấp.
Theo Liên Hiệp Quốc, năng lực cạnh tranh của một ngành có thể được đánh
giá thông qua khả năng sinh lời của các doanh nghiệp trong ngành, cán cân ngoài
thương của ngành, cán cân đầu tư nước ngoài (đầu tư ra nước ngoài và đầu tư từ
nước ngoài vào), và những thước đo trực tiếp về chi phí và chất lượng ở cấp ngành.

Các Doanh nghiệp sản xuất ở các ngành có tỷ xuất lợi nhuận thấp có xu
hướng chuyển dịch các nguồn lực sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Kết quả là
trong những ngành sản xuất có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ có thêm nhiều Doanh nghiệp
14
tham gia sản xuất, dẫn đến lượng cung hàng hóa tăng cao vượt quá lượng cầu, cạnh
tranh về giá, giá giảm dẫn đến tỷ suất lợi nhuận của ngành giảm. ngược lại, với
những ngành có nhiều Doanh nghiệp rút lui, sản xuất toàn ngành giảm, lúc đó trên thị
trường sẽ xuất hiện lượng cung hàng hóa nhỏ hơn lượng cầu, hàng hóa khan hiếm,
giá tăng và tỷ suất lợi nhuận của ngành tăng.
Việc di chuyển nguồn lực giữa các ngành kéo theo sự biến động của tỷ suất
lợi nhuận diễn ra cho đến khi với một số vốn nhất định dù đầu tư vào ngành nào
cũng sẽ thu được tỷ suất lợi nhuận như nhau. (Đó là tỷ suất lợi nhuận bình quân).
Như vậy có thể nói cạnh tranh giữa các ngành sẽ tạo ra sự cân bằng cung cầu
sản phẩm trong mỗi ngành và bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, đảm bảo sự bình
đẳng cho việc đầu tư nguồn vốn giữa các ngành, tạo nhân tố tích cực cho sự phát
triển kinh tế.
Năng lực cạnh tranh cấp ngành thường được xem là dấu hiệu phù hợp về
“sức khỏe” của nền kinh tế đối với ngành liên quan hơn là năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh công ty
Một công ty là có năng lực cạnh tranh nếu nó có thể sản xuất các sản phẩm
dịch vụ chất lượng cao và chi phí thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh trong và
ngoài nước. Năng lực cạnh tranh đồn nghĩa với kết quả lợi nhuận dài hạn và khả
năng của nó để bồi hoàn cho người lao động và tạo ra thu nhập cao cho các chủ sở
hữu. Năng lực cạnh tranh thể hiện ở việc làm tốt hơn các công ty đối thủ về doanh
thu, thị phần, khả năng sinh lời và đạt được thông qua các hành vi chiến lược.
Điều này, các công ty đạt được thông qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm và sự
sáng tạo sản phẩm.
Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng cạnh giữa các Doanh nghiệp trong
nội bộ ngành sẽ làm giảm chi phí sản xuất và giá cả hàng hóa, là động lực thúc đẩy

phát triển lực lượng sản xuất và tiến bộ khoa hoc kỹ thuật. Nếu không có cạnh tranh
nội bộ ngành thì ngành đó, lĩnh vực sản xuất đó không thể phát triển và kinh tế sẽ bị
trì trệ lạc hậu.
15
Năng lực cạnh tranh sản phẩm
Cấp độ thấp nhất của năng lực cạnh tranh là năng lực cạnh tranh sản phẩm.
Năng lực cạnh tranh sản phẩm là một trong những yếu tố câu thành khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện qua
khả năng cạnh tranh của sản phẩm mà doanh nghiệp kinh doanh.
Năng lực cạnh tranh của một loại sản phẩm của một doanh nghiệp thể hiện ở
rất nhiều mặt: Có thể sản phẩm đó được sản xuất với chi phí thấp hơn và từ đó giá
thành, giá bán sản phẩm thấp hơn so với các sản phẩm cùng loại; hoặc các sản phẩm
này được sản xuất trong điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sản
xuất hiện đại hơn để nâng cao chất lượng sản phẩm và đáp ứng tốt hơn những tiêu
chuẩn của thị trường; hoặc sản phẩm này được tổ chức tiêu thụ với mạng lưới bán
hàng tốt và sản phẩm được tung ra thị trường đúng thời điểm Như vậy, năng lực
cạnh tranh của từng mặt hàng và từng loại hình dịch vụ được cấu thành bởi các
nhân tố: chất lượng cao, được tổ chức sản xuất tốt nhằm đem lại giá trị gia tăng cao,
giá thành hạ, đáp ứng tốt các tiêu chuẩn của thị trường, thị hiếu và nhu cầu của
khách hàng.
2.2 Năng lực cạnh tranh sản phẩm
2.2.1. Năng lực cạnh tranh sản phẩm:
Có thể thấy rằng năng lực cạnh tranh của sản phẩm: Là khả năng sử dụng
toàn bộ nguồn lực tạo nên các lợi thế của sản phẩm đó như chất lượng, giá cả, dịch
vụ kèm theo và các chính sách kinh doanh của doanh nghiệp đối với hàng hóa của
doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể duy trì vị trí của hàng hóa trên thị trường
cạnh tranh. Các công cụ cạnh tranh sản phẩm thường được các doanh nghiệp sử
dụng đó là Chất lượng sản phẩm, giá cả, hệ thống phân phối và quảng bá thương
hiệu.
* Chất lượng sản phẩm

Để có thể sử dụng công cụ chất lượng sản phẩm nhằm cạnh tranh có hiệu quả
cần làm rõ thế nào là chất lượng sản phẩm. Cách hiểu và nhận biết về chất lượng
sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý chất lượng sản phẩm, bởi chất lượng sản
16
phẩm là một phạm trù khá rộng lớn và phức tạp phản ánh tổng hợp các nội dung
kinh tế, kỹ thuật và xã hội.
Đối với khách hàng hoặc người tiêu dùng chất lượng sản phẩm được xem là
sự phù hợp và thỏa mãn nhu cầu hoặc mục đính sử dụng mang lại họ.
Về phía Doanh nghiệp hoặc nhà sản xuất thì chất lượng sản phẩm là sự hoàn
hảo, tiện ích và sự phù hợp của sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu
chuẩn, quy phạm, quy cách đã được quy định trước.
Nếu chúng ta chỉ xét từng loại sản phẩm một cách riêng biệt, thì chất lượng
sản phẩm được phản ánh bởi các thuộc tính đặc trưng của sản phẩm đó. Chất lượng
sản phẩm phụ thuộc vào số lượng và chất lượng các thuộc tính được các nhà nghiên
cứu thiết kế đưa vào sản phẩm đó tước khi sản xuất. Những thuộc tính đó phản ánh
công năng hoặc giá trị sư dụng của sản phẩm và được biểu hiện ở những chỉ tiêu
chất lượng cụ thể.
Nếu xét trên góc độ giá trị, chất lượng sản phẩm được hiểu là đại lượng đo
lường giữa tỷ số lợi ích thu được từ tiêu dùng của sản phẩm với chi phí phải bỏ ra
để người sử dụng có được lợi ích đó.
Qua nghiên cứu và dựa trên các định nghĩa về chất lượng, tổ chức quốc tế về
tiêu chuẩn hóa gọi tắt là ISO đã đưa ra định nghĩa cụ thể về chất lượng sản phẩm
trong bộ tiêu chuẩn ISO - 9000 như sau: “ Chất lượng sản phẩm là một tập hợp các
thuộc tính của sản phẩm, tạo cho sản phẩm đó khả năng thỏa mãn yêu cầu đã nêu ra
hoăcc tiềm ẩn.” Định nghĩa trên cho thấy sự thống nhất giữa các thuộc tính của sản
phẩm, các nhu cầu của khách hàng, giữa các yêu cầu của người sản xuất và người
tiêu dùng, giữa nhu cầu hiện tại và những kỳ vọng tương lai của khách hàng về sản
phẩm. Cũng chính vì sự khái quát của định nghĩa này, mà nó được chấp nhận và sử
dụng rộng rãi trong các hoạt động kinh tế hiện nay trên phạm vi toàn cầu.
Chất lượng sản phẩm có vai trò đặc biệt quan trọng trong cạnh tranh của mỗi

Doanh nghiệp, một trong những căn cứ quan trọng khi người tiêu dùng quyết định
lựa chọn và sử dụng sản phẩm của Doanh nghiệp là chất lượng của sản phẩm. Theo
nhà nghiên cứu kinh tế M.Porter thì năng lực cạnh tranh của mỗi Doanh nghiệp
17
được thể hiện thông qua hai chiến lược cơ bản đó là phân biệt hóa sản phẩm (chất
lượng) và chi phí thấp. Chính vì vậy chất lượng sản phẩm trở thành một trong
những công cụ quan trọng nhất làm gia tăng năng lực cạnh tranh cho Doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm thể hiện khả năng đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu khách
hàng của Doanh nghiệp, tốc độ tiêu thụ sản phẩm sẽ gia tăng cùng với sự gia tăng
mức độ sản phẩm đó thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Đặc biệt là hiện nay khi
trình độ xã hội ngày càng cao, xã hội ngày càng văn minh, thì thị hiếu của người
tiêu dùng đòi hỏi những sản phẩm có chất lượng cao về mọi mặt chứ không chỉ đơn
thuần là Tốt - Bền - Đẹp như trước kia nữa. Như vậy có thể nói chất lượng và cạnh
tranh là hai phạm trù luôn đi cùng và gắn bó chặt chẽ với nhau, chất lượng sẽ làm
gia tăng năng lực cạnh tranh cho Doanh nghiệp và ngược lại năng lực cạnh tranh
cao sẽ bán được nhiều sản phẩm, tạo lợi nhuận siêu ngạch cho Doanh nghiệp, nâng
cao cơ sở tài chính và vật chất cần thiết để đầu tư nghiên cứu khoa học, đổi mới
công nghệ nhằm ngày càng tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao phục vụ nhu
cầu thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi tham gia các tổ chức thương mại
quốc tế như (AFTA, WTO…) cùng với những cơ hội kinh doanh trên thị trưòng lớn
là việc các nước thành viên đều phải dỡ bỏ rất nhiều những hàng rào thuế quan để
cho hàng của các nước tràn vào cạnh tranh tự do ngay trên sân nhà. Tuy vậy, không
một quốc gia nào lại không tìm cách để bảo hộ nền sản xuất trong nước, để hạn chế
hàng ngoại tràn vào và khi đó một số hàng rào mới lại được dựng lên, đó là những
tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng sản phẩm, như giấy chứng nhận về mức độ phóng
xạ cho phép đói với hàng thực phẩm, chất lượng đóng gói bao bì, nhãn mác, giấy
chứng nhận xuất sứ hàng hóa …Việc các Doanh nghiệp đầu tư nâng cao chất lượng
sản phẩm không những đảm bảo cạnh tranh giành thắng lợi trên sân nhà mà còn xây
dựng chiến lược đem sản phẩm của mình ra nước ngoài để cạnh tranh với thị trường

quốc tế.
Năng lực cạnh tranh sản phẩm dựa trên chất lượng sản phẩm xét trên đặc tính của
sản phẩm có thể có được theo 2 cách:
18
Thứ nhất đa dạng hóa sản phẩm: Mức độ đa dạng hóa sản phẩm thể hiện ở danh
mục sản phẩm của doanh nghiệp. Để có thể theo kịp nhu cầu của thị trường, bên cạnh
việc duy trì và cải tiến các sản phẩm đang là thế mạnh, doanh nghiệp cũng cần nghiên
cứu các sản phẩm mới nhằm phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Đa
dạng hóa sản phẩm không chỉ để dáp ứng nhu cầu thị trường, thu nhiều lợi nhuận mà
còn là biện pháp phân tán sự rủi ro trong kinh doanh khi mà cuộc cạnh tranh ngày càng
trở lên gay gắt và quyết liệt.
Thứ hai là đi đôi vợi việc thực hiện đa dạng hóa sản phẩm, để đảm bảo đứng
vững trong cuộc cạnh tranh, doanh nghiệp có thể thực hiện chiến lược khác biệt hóa
sản phẩm bằng cách tạo ra sản phẩm và dịch vị mà khách hàng cho là có những điểm
độc đáo và từ đó hấp dẫn khách hàng vì sự độc đáo đó. Ưu điểm của chiến lược này là
doanh nghiệp không bị cạnh tranh từ các đối thủ long trung thành của khách hàng về
nhãn hiệu doanh nghiệp xây dựng được. Tuy nhiên doanh nghiệp rất khó giữ được thị
phần của mình vì khó có thể duy trì sự khác biệt trong thời gian dài do bị đối thủ bắt
trước rất nhanh và khó duy trì được giá cao.
Nói chung, để sử dụng có hiệu quả công cụ chất lượng sản phẩm trong cạnh
tranh, các Doanh nghiệp cần làm tốt công tác quản lý chất lượng sản phẩm. Quản lý
chất lượng là các hoạt động có tổ chức phối hợp nhằm định hướng và kiểm soát một
quy trình chặt chẽ về chất lượng sản phẩm. Nói theo cách khác quản lý chất lượng
sản phẩm bao gồm toàn bộ các hoạt động từ việc xây dựng các quy trình đảm bảo
chất lượng, thiết lập các văn bản xác định trình tự và tương tác các quy trình, đảm
bảo nguồn lực và thông tin cần thiết, theo dõi kiểm tra và phân tích các quá trình,
nhằm đảm bảo mục tiêu chất lượng đề ra, và hệ thống quản lý chất lượng là một hệ
thống để định hướng và kiểm soát một tổ chức về chất lượng đã đề ra, và hệ thống
quản lý chất lượng này là một hệ thống để định hướng và kiểm soát một tổ chức về
chất lượng, đây là một hệ thống không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp để phát

huy được tối đa lợi ích cạnh tranh đích thực từ sản phẩm.
Trên cơ sở nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của chất lượng sản phẩm và quản
lý chất lượng, các Doanh nghiệp cần xây dựng và tổ chức triển khai các hoạt động
19
đẩy nhanh quá trình cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, tận dụng tốt nhất
công cụ này cho nâng cao năng lực cạnh tranh.
* Giá cả sản phẩm.
Giá cả của hàng hóa là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh, phát triển
cùng với lịch sử ra đời và phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Ngày nay,
giá cả hiện diện trong tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, các ngành,
các khu vực của nền kinh tế, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Giá cả không chỉ là
sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa, nó còn biểu hiện tổng hợp các quan hệ
kinh tế như cung cầu hàmg hóa, tích luỹ tiêu dùng…Vì vậy giá cả hình thành thông
qua quan hệ cung cầu hàng hóa, thông qua sự thỏa thuận giữa người mua và người
bán, khi giá được chấp thuận là giá mà cả người mua và người bán đều thấy có lợi.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì giá bán sản phẩm là một trong
những công cụ quan trọng thường được sử dụng. Bởi giá bán sản phẩm có ảnh
hưởng trực tiếp đến sự hấp dẫn của sản phẩm và sản lượng tiêu thụ trên thị trường.
Ví dụ: hai hàng hóa có cùng công dụng và có chất lượng tương đương nhau, khách
hàng sẽ lựa chọn hàng hóa nào có giá bán thấp hơn. Trong thực tế có nhiều chính
sách giá khác nhau được Doanh nghiệp sử dụng nhằm đáp ứng và phù hợp với sản
phẩm, mục tiêu, tình hình thị trường và khả năng thanh toán của khách hàng. Trong
quá trình hình thành và xây dựng giá bán sản phẩm, Doanh nghiệp có thể tham khảo
một số chính sách xây dựng giá như sau:
+ Chính sách xây dựng giá thấp, là chính sách mà Doanh nghiệp xây dựng giá
bán sản phẩm thấp hơn giá cả thị trường, có hai cách áp dụng chính sách này.
- Doanh nghiệp xây dựng giá thấp hơn giá thị trường đối với sản phẩm cùng
loại, nhưng vẫn cao hơn giá thành sản xuất. Đây là trường hợp Doanh nghiệp áp
dụng khi sản phẩm mới thâm nhập thị trường, Doanh nghiệp cần thu hút khách
hàng, cạnh tranh với sản phẩm cùng loại để chiếm lĩnh thị phần, trong trường hợp

này Doanh nghiệp sẽ nhanh chóng chiếm được thị phần mà lợi nhuận vẫn đạt được
mặc dù không lớn.
20
- Doanh nghiệp chấp nhận xây dựng giá sản phẩm thấp hơn giá thị trường và
thấp hơn giá thành sản xuất, đây là trường hợp mà doanh nghiệp chấp nhận thua lỗ
tạm thời để phát triển thị trường, chiếm lĩnh thị phần, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ
hàng hóa, tăng nhanh vòng quay của đồng vốn, Tạo tiền đề cho chiến lược xây dựng
giá bán cao cho sản phẩm sau này.
+ Chính sách xây dựng giá bán cao.
Đây là chính sách mà Doanh nghiệp định giá bán sản phẩm của mình cao
hơn giá thị trường và cao hơn giá thành sản phẩm. Trong trường hợp này áp dụng
cho những sản phẩm mới lần đầu được tung ra thị trường, chưa có sản phẩm cạnh
tranh, người tiêu dùng chưa biết rõ về sản phẩm và chưa có điều kiện để so sánh về
giá cả và chất lượng. Giai đoạn này Doanh nghiệp tranh thủ chiếm lĩnh thị trường
sau đó sẽ dần giảm giá để tương đương với giá thị trường, nhưng vẫn đảm bảo cao
hơn giá thành sản phẩm Doanh nghiệp vẫn thu được lợi nhuận như mong muốn.
- Chính sách ổn định giá, theo đó Doanh nghiệp sẽ xây dựng và đưa ra một
mức giá phù hợp và sẽ được áp dụng trong một thời gian dài để tạo uy tín và củng
cố niềm tin của khách hàng về sự ổn định của thị trường đối với sản phẩm. Nó giúp
sản phẩm có những nét độc đáo, khác biệt, nhằm phân biệt với những sản phẩm
cùng loại của đối thủ cạnh tranh, từ đó có điều kiện mở rộng thị trường và chiếm
lĩnh thị phần của sản phẩm.
- Chính sách bán phá giá, là chính sách mà doanh nghiệp dùng biện pháp hạ
giá bán ở mức rất thấp, Doanh nghiệp chấp nhận thua lỗ trong một thời gian nhất
định, nhằm làm cho đối thủ cạnh tranh không thể bán sản phẩm cùng loại trong một
thời gian, từ chỗ thua lỗ do không cạnh tranh được về giá đối thủ cạnh tranh buộc
phải rút khỏi thị trường. Khi đó Doanh nghiệp độc chiếm thị trường, độc quyền với
sản phẩm và lúc đó Doanh nghiệp sẽ chủ động nâng giá lên cao và thu lại lợi nhuận.
Chính sách bán phá giá được coi là rất mạo hiểm, nó là con dao hai lưỡi do vậy ít
Doanh nghiệp sử dụng chính sách này để bán hàng, và hiện nay chính sách bán phá

giá được coi là phương thức cạnh tranh không lành mạnh, và bị cấm ở một số quốc
gia trên thế giới.
21
Chính sách phân biệt giá, đó là chính sách xây dựng và đưa ra những mức
giá khác nhau đối với cùng một loại sản phẩm khi bán cho các đối tượng khách
hàng khác nhau, cho các khu vực thị trường khác nhau, khách hàng mua với số
lượng hàng hóa khác nhau hoặc trong những thời điểm khác nhau. Với chính sách
này Doanh nghiệp sẽ làm thỏa mãn được nhiều đối tượng khách hàng có nhu cầu
khác nhau, có điều kiện tài chính khác nhau, tạo nên sự linh hoạt về giá nhằm hấp
dẫn khách hàng đồng thời vẫn đảm bảo được lợi ích cho Doanh nghiệp khi sản xuất
những sản phẩm có chất lượng cao hơn, hoặc phải vận chuyển sản phẩm đến nhiều
địa điểm khác nhau.
* Hệ thống phân phối
Chúng ta có thể hiểu kênh phân phối là một tập hợp các cá nhân hoặc tổ chức
tham gia vào quá trình làm cho sản phẩm bán ra tới được tay khách hàng, do vậy
nếu Doanh nghiệp lựa chọn kênh phân phối không hợp lý có thể sẽ làm giảm sản
lượng tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến hàng hóa ế ẩm, không tiêu thụ được và Doanh
nghiệp sẽ thất bại trong cạnh tranh. Đặc biệt là hiện nay các kênh phân phối càng thể
hiện được vai trò quan trọng của mình trên thị trường bởi vì.
+ Chi phí vận chuyển thường tăng lên sau mỗi lần biến động giá nhiên liệu,
điều đó đặt ra cho mỗi Doanh nghiệp phải tìm ra cho mình những phương thức vận
chuyển hợp lý nhất, tiết kiệm nhất trong lưu thông cho sản phẩm của mình.
+ Với tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật nhanh như hiện nay những Doanh
nghiệp chỉ dựa vào lợi thế về công nghệ để cạnh tranh thì khó tồn tại lâu, bởi đối
thủ rất dễ bắt trước hoặc họ đầu tư những công nghệ thế hệ sau sẽ hiện đại hơn. Hơn
nữa hiệu quả sản xuất không thể tăng vô hạn, khi đó nó gần như đã đạt điểm tối đa
nên các Doanh nghiệp khó có thể hy vọng vượt trội ở mặt này, do vậy các Doanh
nghiệp cạnh tranh phần lớn đặt nhiều hy vọng vào kênh phân phối của minh
+ Hiện nay các sản phẩm ngày càng đa dạng và phong phú về mẫu mã, chất
lượng, kích cỡ, chính vì vậy các Doanh nghiệp sẽ rất dễ gặp khó khăn trong thời

hạn giao sản phẩm có chất lượng của mình cho khách hàng đúng hẹn, và nhiệm vụ
quan trọng này Doanh nghiệp lại tin tưởng đặt lên vai của những nhà phân phối.
22
+ Trong thời buổi công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, các Doanh
nghiệp sản xuất đã có nhiều thay đổi lớn trong phương pháp quản lý hàng tồn kho.
Nếu để số lượng hàng hóa tồn kho lớn sẽ làm tăng chi phí bảo quản, lưu kho và làm
giảm chất lượng của sản phẩm. Khi đó các Doanh nghiệp có xu hướng giảm hàng
tồn kho xuống mức cần thiết thấp nhất để giảm chi phí giá thành. Điển hình nhất
trong phương pháp quản lý này là phương pháp quản lý “ vừa kịp lúc” của Nhật bản
chính phương pháp quản lý này đã giúp cho các Doanh nghiệp Nhật bản có được lợi
thế cạnh tranh rất lớn trên thương trường và đã thắng được các Doanh nghiệp Mỹ.
Để thực hiện hiệu quả phương pháp quản lý này không gì tốt hơn là các Doanh
nghiệp phải lựa chọn được kênh phân phối hợp lý nhất và tốt nhất cho mình.
+ Trên thực tế để xây dựng hoặc thay đổi được một kênh phân phối cần rất
nhiều thời gian và công sức bởi nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan khác
chứ không đơn thuần là mong muốn chủ quan của Doanh nghiệp sản xuất. Để lựa
chọn và tiến hành xây dựng một kênh phân phối vận hành một cách trơn tru có khi
Doanh nghiệp phải mất nhiều năm, chính vì vậy nếu Doanh nghiệp chọn được kênh
phân phối có chất lượng tốt sẽ đảm bảo khả năng tiêu thụ sản phẩm, duy trì và nâng
cao năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp.
* Nhãn hiệu/Thương hiệu:
Nhãn hiệu hàng hóa được hiểu là những dấu hiệu dung phân biệt sản phẩm
cùng loại của các doanh nghiệp khác nhau. Nhãn hiệu có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc
sự kết hợp các yếu tố được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sác. Nhãn hiệu được
coi là một loại tài sản vô hình của doanh nghiệp và trong từng trường hợp nó còn là
tài sản vô giá của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tốn rất nhiều chi phí để có được
một nhãn hiệu sản phẩm ưng ý và khoảng thời gian còn dài hơn để nhãn hiệu đó được
công chúng biết đến và nhớ đến.
Thương hiệu là dấu hiệu của nhà sản xuất gắn lên mặt hàng hóa, bao bì nhằm
khẳng đinh chất lượng và xuất xứ sản phẩm. Thương hiệu thường gắn liền với quyền

sở hữu của nhà sản xuất và thường được ủy quyền cho người đại diện thương mại
chính thức.
23

×