Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Mối quan hệ giữa triết học và vật lý học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.59 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Phòng ĐTSĐH-KHCN&QHĐN
Lớp: Cao Học Khoa Học Máy Tính – Khóa 08
BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
MỐI QUAN HỆ TRIẾT HỌC
VÀ VẬT LÝ HỌC
Giảng viên phụ trách:
TS BÙI VĂN MƯA
Học viên thực hiện:
LÊ PHÚ QUÍ - CH1301108
TP. Hồ Chí Minh, 08 - 2014
ĐH CNTT – ĐHQG TP.HCM
LỜI CÁM ƠN
Đầu tiên, em xin chân thành cám ơn thầy TS Bùi Văn Mưa– ngườiđã truyền
đạt cho em những kiến thức quý báu trong môn Triết học.
Tiếp theo, em xin gửi lời cám ơn đến các thầy cô ở các khoa cũng như tại
các phòng ban tại trường ĐH Công Nghệ Thông Tin đã tận tình giúp đỡ em
trong thời gian học vừa qua.
Do kiến thức có hạn cũng như kinh nghiệm nghiên cứu trên thực tế không
nhiều nên bài làm của em không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự đóng góp quí báu của quí thầy cô.
TpHCM, ngày 10 tháng 08 năm 2014
Lớp Cao học KHMT khóa 8
Lê Phú Quí
HVTH: Lê Phú Quí
ĐH CNTT – ĐHQG TP.HCM
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………


………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
HVTH: Lê Phú Quí
ĐH CNTT – ĐHQG TP.HCM
Mục lục
HVTH: Lê Phú Quí
Lớp Cao học KHMT Khóa 8 ĐH CNTT – ĐHQG TP.HCM
I. Giới thiệu đề tài
Lý do chọn đề tài:

Chúng ta đang sống trong thời kỳ khoa hoc – công nghệ. Các ngành khoa
học phát triển rất mạnh mẽ trong đó có vật lý. Việc nghiên cứu mối quan triết
học và vật lý đã làm cho chúng ta thấy rõ bức tranh khoa hoc tự nhiên về thế giới
và từ những thí nghiệm thực tiễn, lý thuyết cũng đã chứng minh cho sự đúng đắn
của triết học. Bên cạnh, chúng ta cũng cần có một cơ sở lý luận nêu lên mối quan
hệ giữa triết học và vật lý nhằm giúp các nhà vật lý có cái nhìn đúng đắn hơn để
vận dụng vào quá trình công tác của bản thân. Đó là lý do em chọn đề tài mối
quan hệ giũa triết học và vật lý học.
HVTH: Lê Phú Quí Trang
Lớp Cao học KHMT Khóa 8 ĐH CNTT – ĐHQG TP.HCM
Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
Giới thiệu cho mọi người hiểu biết cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa triết
học và vật lý học cùng với những ý nghĩa của nó.
Nội dung nghiên cứu:
• Triết học là gì?
• Vật lí học là gì?
• Ảnh hưởng của triết học đối với vật lí học và ngược lại.
Ý nghĩa của đề tài:
Giúp bản thân nhận thức được sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa triết học
với vật lý học. Từ đó có cái nhìn đúng đắn hơn về tầm quan trọng của bộ môn
triết trong đời sống xã hội, trong sự phát triển của khoa học tự nhiên nói chung
và vật lý nói riêng.
II. Khái niệm triết học và vật lý học
2.1. Khái niệm triết học
Triết học ra đời vào khoảng thế kỉ thứ VIII đến thế kỉ thứ VI trước công
nguyên. Trải qua quá trình phát triển, đã có nhiều quan điểm khác nhau về triết
học nhưng khái quát lại, có thể cho rằng: triết học là một hệ thống tri thức lý luận
chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con
người trong thế giới đó.
Mãi đến những năm 40 của thế kỉ XIX triết học Mác ra đời. Sự ra đời của

triết học Mác không phải là một ngẫu nhiên mà là sự kết tinh có tính quy luật của
quátrình phát triển lịch sử tư tưởng triết học nhân loại và trên cơ sở các điều kiện
kinh tế - xã hội cũng như trình độ phát triển khoa học tự nhiên ở thế kỉ XIX.
Trong triết học Mác, phép biện chứng duy vật được xem là hình thức cao
nhất trong lịch sử phát triển phép biện chứng; là thế giới quan, phương pháp luận
phổ biến của nhận thức và thực tiễn. Nội dung các phép biện chứng duy vật bao
gồm hai nguyên lý, các cặp phạm trù cơ bản và ba quy luật về sự vận động, phát
triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
HVTH: Lê Phú Quí Trang
Lớp Cao học KHMT Khóa 8 ĐH CNTT – ĐHQG TP.HCM
2.2. Khái niệm vật lí học
Vật lí học là một môn khoa học nghiên cứu về “vật chất” và “sự tương tác”.
Cụ thể thì vật lí học nghiên cứu về các quy luật vận động của tự nhiên từ vi mô
cho đến vĩ mô. Từ lâu, vật lí học được xem là khoa học chủ đạo các nhóm ngành
khoa học tự nhiên vì những phát minh của vật lí học cả trong quá khứ lẫn hiện tại
không những mang lại cho chúng ta những quan niệm khoa học cơ ản mà còn
trang bị cho chúng ta những công cụ hiệu quả để đà sâu và mở rộng nhận thức
đúng đắn về thế giới.
III. Mối quan hệ triết học và vật lý học
3.1. Ảnh hưởng của triết học đối với vật lí học
Mối quan hệ giữa triết học và vật lí học biến đổi trong quá trình phát triển
của triết học cũng như của vật lí học.
Ở thời cổ đại, vật lí học chưa tồn tại như một khoa học độc lập. Tất cả tri
thức con người cổ đại về tự nhiên đều tập trung trong một bộ môn duy nhất gọi là
“triết học tự nhiên”. Triết học và tri thức về tự nhiên lúc đó thống nhất làm một,
và triết học giữ vị trí chủ đạo, tri thức về tự nhiên chỉ mới là những tri thức khái
quát nhất.
Tới thế kỉ XVI – XVII, vật lí học và các khoa học tự nhiên trở thành các
môn khoa học chuyên biệt, tách khỏi triết học, và tới thế kỉ XVII – XVIII cũng
hành thành triết học mới. Triết học mới không còn bao gồm các khoa học tự

nhiên, nó chủ yếu nghiên cứu những quy luật tổng quát nhất của tồn tại và nhận
thức, của quan hệ giữa tư duy và tồn tại… Tuy nhiên ở một mức độ nhất định, nó
vẫn tìm cách giải quyết những vấn đề thuộc đối tương nghiên cứu của các khoa
học tự nhiên như: bản chất của vật chất, cấu trúc của vật chất, tính chất vật lí của
không gian và thời gian…
Triết học duy vật biện chứng đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa triết
học và khoa học. Duy vật biện chứng là cơ sở phương pháp luận và là phương
pháp nhận thức của mọi khoa học. Nó không tự nhận là khoa học đứng trên các
khoa học, không giải quyết các vấn đề cụ thể của khoa học tự nhiên, không quyết
HVTH: Lê Phú Quí Trang
Lớp Cao học KHMT Khóa 8 ĐH CNTT – ĐHQG TP.HCM
định thuyết vật lí nào là đúng hay sai. Lênin nhấn mạnh: “Chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duytâm khác nhau ở cách giải quyết thế này hay thế khác vấn đề về
nguồn gốc nhận thức của chúng ta, về mối quan hệ của nhận thức với thế giới
vật lí, còn vấn đề về cấu trúc của vật chất, về các nguyên tử và các electron, thì
đó là một vấn đề chỉ cóliên quan đến cái ‘thế giới vật lí’ đó mà thôi”.
Do vật lí học gắn liền với kĩ thuật, với sản xuất và nhiệm vụ hàng đầu của
nó là phục vụ việc sản xuất ra của cải vật chất. Vì vậy, mặc dù có ảnh hưởng to
lớn, triết học cũng không thể làm thay đổi tiến trình phát triển của vật lí học, nó
chỉ có thể thức đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đó mà thôi. Những tư tưởng triết
học về cấu trúc nguyên tử của vật chất, về nguyên lí nhân quả, về sự bảo toàn vật
chất và vận động… đã trở thành những tư tưởng chỉ đạọ có vai trò thức đẩy mạnh
mẽ sự phát triển vật lí học. Trái lại, những hệ thống triết học phủ nhận sự tồn tại
của nguyên tử và phân tử đã có ảnh hưởng tiêu cực, làm chậm bước tiến của vật
lí học.
Nói chung, các triết học duy vật đã có ảnh hưởng tích cực và các triết học
duy tâm đã có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển vật lí học. Tuy nhiên, trong
các triết học duy tâm cũng có những tư tưởng hợp lí thức đẩy sự phát triển của
vật lí học ở những giai đoạn nhất định. Trong quá trình phát triển của vật lí học,
những sắc thái duy tâm cản trở sự phát triển của lí thuyết sẽ lần lượt được gạt bỏ

để chỉ còn giữ lại cốt lõi đúng đắn của lí thuyết.
3.2. Ảnh hưởng của vật lí học đối với sự phát triển của triết học
• Vật lý học cung cấp những tài liệu, những tri thức khoa học làm căn cứ để
triết học đúc kết, rút ra những quy luật chung nhất, khái quát thành
những nguyên lý triết học.
Trước hết, chúng ta tìm hiểu về vai trò của vật lý học đối với triết học.
Ngay từ thời cổ đại, khi Vật lý học cũng như các ngành khoa học khác vẫn chưa
tách rời khỏi triết học, các nhà vật lý học cũng đồng thời là các nhà triết học, toán
học, sinh vật học…Và những tư tưởng đầu tiên về bức tranh của thế giới ra đời
thể hiện những tư tưởng triết học đầu tiên về thế giới. Trong số những tư tưởng
HVTH: Lê Phú Quí Trang
Lớp Cao học KHMT Khóa 8 ĐH CNTT – ĐHQG TP.HCM
đó, có tồn tại những tư tưởng duy vật ngây thơ, chất phát, đan xen với những tư
tưởng duy tâm. Vào thời kỳ này, xuất hiện những tư tưởng vật lý học như tư
tưởng của Aristote: “Một vật đang chuyển động sẽ dừng lại khi lực đẩy nó không
thể tácdụng để đẩy nó đi nữa”. Hay tư tưởng: “Vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ”,
hoặc “Trái đất là trung tâm của vũ trụ…”. Những tư tưởng vật lý này được khái
quát từ những quan sát trực quan, theo kinh nghiệm của con người. Đó chỉ là
những phỏng đoán, không được kiểm nghiệm, chứng minh. Nhưng trình độ nhận
thức lúc bấy giờ chưa nhận ra những sai lầm trong những tư tưởng này, và nhiều
người đã tin tưởng tuyệt đối vào chúng. Do vậy, ở thời cổ đại, triết học và cả vật
lý học chưa có những bước phát triển đáng kể, chỉ là những tư tưởng rời rạc,
mang đậm tính chất tôn giáo, duy tâm.
Sau đó, khi vật lý học ngày càng phát triển và đủ sức để tách ra thành một
ngành khoa học cụ thể, độc lập với triết học thì cả vật lý học và triết học phát
triển mạnh mẽ. Trong giai đoạn này, chúng ta có thể thấy rõ hơn vai trò của vật
lý học đối với triết học. Vào đầu những năm 40 của thế kỷ XIX, C.Mac là một
nhà duy tâm khách quan, ông rất xem trọng triết học Hêghen, tinh thần biện
chứng cách mạng của triết học Hêghen được Mác xem như là một chân lý.
C.Mác cho rằng: “tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phảiởtriết học

Hêghen tuyệt nhiênkhông ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày
một cách bao quát và có ý thức hình thái vận động chung của phép biện chứng
ấy. Ở Hêghen phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất, chỉ cần dựng nó lại
sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó đằng sau lớp vỏ thần bí”. Và
C.Mác đã dựa vào truyền thống chủnghĩa duy vật triết học mà trực tiếp là chủ
nghĩa duy vật của Phơbách, đồng thời cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục
tính siêu hình và những hạn chế lịch sử của nó. Từ đó Mác và Angghen xây dựng
nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
thống nhất với nhau một cách hữu cơ, gọi là chủnghĩa duy vật biện chứng, một
hình thức mới, một giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa duy vật triết học.
Sự hình thành tư tưởng triết học mới của Mác diễn ra trong sự tác động
HVTH: Lê Phú Quí Trang
Lớp Cao học KHMT Khóa 8 ĐH CNTT – ĐHQG TP.HCM
qua lại với quá trình ông cải tạo các lý luận về kinh tế, xã hội. Cùng với nguồn
gốc lý luận, những thành tựu của khoa học tự nhiên có vai trò quan trọng không
thể thiếu được cho sự ra đời của triết học Mác. Những phát minh lớn của khoa
học tự nhiên làm bộc lộ rõ tính hạn chế, chật hẹp và bất lực của phương pháp tư
duy siêu hình trong việc nhận thức thế giới, đồng thời cung cấp cơ sở tri thức
khoa học để phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật.
Trong số những thành tựu của khoa học tự nhiên, có ba phát minh nổi bật có ý
nghĩa đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng được xác định là: thuyết
bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hoá. Thuyết bảo
toàn và chuyển hóa năng lượngđã cho thấy vật chất gắn liền với vận động, vận
động không do ai sinh ra và khôngthể bị tiêu diệt. Thuyết tiến hóa đã khẳng định
nguồn gốc sinh vật của con người, xoá bỏ những quan điểm duy tâm cho rằng
nguồn gốc con người từ thần thánh. Thuyết tế bào tiếp tục khẳng định con người
có liên hệ với thế giới sinh vật, bác bỏ những ám ảnh về tôn giáo. Và những phát
minh trên đã khẳng định con người là một bộ phận của giới tự nhiên, con người
thuộc về thế giới hữu sinh. Theo Angghen, với những phát minh lớn của khoa
học tự nhiên đã làm cho “quan niệmmới về giới tự nhiên đã được hoàn thành

trên những nét cơ bản, tất cả những cái gì cứng nhắc đều bị tan rã, tất cả những
cái gì cố định đều bị tan thành mây khói, và tất cả những cái gì đặc biệt mà
người ta cho là tồn tại vĩnh cửu thì đã trở thành nhất thời, và người ta đã chứng
minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một dòng và một tuần hoàn
vĩnh cửu”.Như vậy, qua quá trình hình thành quan điểm duy vật biện chứng ở
C.Mac, ta có thể thấy những thành tựu của khoa học tự nhiên đã đóng một vai trò
rất quan trọng, giúp C.Mác khái quát nên những tư tưởng triết học phù hợp với
thời đại, giúp triết học trở thành một ngành có tác dụng định hướng cho các
ngành khoa học khác.
• Những thành tựu của khoa học tự nhiên, đặc biệt là vật lí học làm sáng tỏ,
khẳng định tính chất đúng đắn của những nguyên lý, những quy luật của
triết học.
HVTH: Lê Phú Quí Trang 10
Lớp Cao học KHMT Khóa 8 ĐH CNTT – ĐHQG TP.HCM
Những tư tưởng triết học được khái quát từ những thành tựu của khoa học
tự nhiên, sau khi xuất hiện và thực hiện vai trò định hướng của mình đối với hoạt
động nhận thức và thực tiễn, có thể vẫn chưa được hoàn thiện, còn sai lầm. Khi
đó, những thành tựu tiếp theo của khoa học tự nhiên lại tiếp tục ảnh hưởng lên
triết học với vai trò khẳng định, làm sáng tỏ những tư tưởng đúng hay loại bỏ, bổ
sung những tư tưởng chưa hoàn thiện. Chẳng hạn, từ thời cổ đại, đã xuất hiện
những giả thuyết vềnguyên tử: sinh vật chia mãi, chia mãi, đến một lúc nào đó
không chia được nữa gọi là nguyên tử, nguyên tử là hạt vật chất nhỏ nhất, là khởi
nguyên của thế giới.Nguyên tử là hạt nhỏ nhất,do đó nó không có cấu trúc và nó
đồng nhất về chấtlượng, nguyên tử có vô vàn hình dạng nhưng không khác nhau
về bản chất. Từ đó, xuất hiện quan điểm triết học vật chất là vô cùng vô tận. Tuy
nhiên, cuối thế kỷXIX, đầu thế kỷ XX, vật lý học hiện đại đã đi sâu và nghiên
cứu thế giới vi mô và phát hiện ra những hạt electronn, proton, nơtron, từ đó
khẳng định rằng nguyên tử chưa phải là hạt nhỏ nhất cấu tạo nên vật chất. Những
phát minh này giúp khẳng định, làm sáng tỏ thêm tư tưởng triết học rằng thế giới
vật chất là vô cùng vô tận. Sau này, Lênin đã kế thừa những quan điểm triết học

trước đây và những thành tựu khoa học để cho ra đời “Luận điểm về tính vô tận
của thế giới”.
• Những thành tựu của khoa học tự nhiên nói chung và những thành tựu vật
lí học chuyên ngành nói riêng giúp cho triết học nhận ra những hạn chế
của mình và thúc đẩy triết học bổ sung, hoàn thiện những tư tưởng đã
được xem là chân lý trong quá khứ, để phù hợp với yêu cầu hiện tại và
tiếp tục định hướng cho tương lai.
Vào thế kỷ XIX, trong lịch sử triết học và khoa học, người ta nói đến
phương pháp siêu hình là một phương pháp nhận thức khoa học, được đưa và
khoa học từ nửa cuối thế kỷ XV và là yếu tố quan trọng thức đẩy sự phát triển
của khoa học. Đó là phương pháp nhận thức áp dụng trong khoa học với nội
dung là tập hợp, phân loại các tài liệu, sau đó mới so sánh, phân tích chia ra từng
loại, từng hạng và tìm mối quan hệ giữa các đối tượng tĩnh tại. Về phương pháp
HVTH: Lê Phú Quí Trang 11
Lớp Cao học KHMT Khóa 8 ĐH CNTT – ĐHQG TP.HCM
này, Angghen nhận xét:“Những phương pháp nghiên cứuấy cũng đồng thời
truyền lại cho chúng ta thóiquen là xem xét các sự vật và các quá trình tự nhiên
trong trạng thái cô lập của chúng, ở bên ngoài mối quan hệ to lớn chung, và đo
đó không xem xét chúng trong vận động mà là trong trạng thái tĩnh, không xem
xét chúng về căn bản là biến hóa mà lại vĩnh viễn, cố định, không xem xét chúng
trong trạng thái sống mà lại xem xét chúng trong trạng thái chết”.Và khi những
nhận xét này được Bêcơn và Lốccơđem từ khoa học tự nhiên sang triết học thì nó
đã tạo ra một sự hạn chế đặc biệt của những thế kỷ vừa qua, tạo ra phương pháp
tư duy siêu hình. Như vậy, từ một phương pháp nhận thức khoa học, khi chuyển
sang triết học đã trở thành một phương pháp tư duy có ý nghĩa phổ biến trong các
hoạt động khoa học thời bấy giờ và cả trong mọi hoạt động của con người.
Tuy nhiên, ta cũng đã có đề cập đến những hạn chế của phép siêu hình và
chủ nghĩa duy tâm đã nhằm vào những khó khăn này để tấn công vào chủ nghĩa
duy vật.
Do đó yêu cầu đặt ra là phải tìm cách khắc phục những hạn chế của phép

siêu hình.Nhưng phép siêu hình vẫn tiếp tục tồn tại trong thời gian dài, và nó chỉ
được thay thế khi xuất hiện cuộc khủng hoảng trong vật lý học.
Quá trình phát triển của vật lý học luôn gắn liền với việc củng cố và mở
rộng các quan niệm nền tảng (nguyên lý, luận điểm cơ bản và tổng quát) của vật
lý học. Quá trình này làm cho bức tranh vật lý học về thế giới được mở rộng
không ngừng, và cuối cùng, nó sẽ thay đổi. Cơ chế của quá trình này có thể được
mô tả tóm tắt như sau:
- Trước tiên, trong lịch sử khoa học hình thành những yếu tố cơ sở của bức
tranh vật lý học đầu tiên, những yếu tố này xuất hiện từ trong quá trình
tổng hợp tài liệu kinh nghiệm dựa theo những ý tưởng triết học nào đó
tương ứng.
- Sau đó, sử dụng các công cụ toán học phù hợp để xử lý các tài liệu kinh
nghiệm và những yếu tố cơ sở đó của bức tranh khoa học đầu tiên nhằm
tiến tới xây dựng một lý thuyết vật lý học cơ bản.
HVTH: Lê Phú Quí Trang 12
Lớp Cao học KHMT Khóa 8 ĐH CNTT – ĐHQG TP.HCM
- Quá trình phát triển tiếp theo là mở rộng bức tranh để bao quát một hiện
tượng vật lý khả dĩ, hay nói cách khác, mọi hiện tượng vật lý có thể xảy ra
đều có một vị trí hợp lý trong bức tranh. Quá trình này đưa đến sự hình
thành nhiều lý thuyết mới mang tính ứng dụng và cụ thể. Tuy nhiên, nếu
không sớm thì muộn, những nghiên cứu kinh nghiệm cũng ghi nhận được
những tài liệu mới không thể lý giải được từ giác độ lý thuyết cơ bản của
bức tranh hiện tồn: nghĩa là, những tài liệu kinh nghiệm mới này không có
một vị trí hợp lý trong bức tranh, mâu thuẫn giữa lý luận và kinh nghiệm
xuất hiện.
Mâu thuẫn được nỗ lực giải quyết thông qua các giả thuyết (dựa trên nền
tảng của bức tranh hiện tồn) được đưa ra để lý giải các tài liệu kinh nghiệm. Tuy
nhiên, các giả thuyết này càng lúc càng tỏ ra giả tạo và tự mâu thuẫn. Khi nào
còn chưa xuất hiện những ý tưởng độc đáo cho phép lý giải các tài liệu mới này
thì khi ấy trong vật lý học còn tồn tại những khó khăn này có thể đưa vật lý học

rơi vào tình thế khủng hoảng.
Để thoát khỏi tình thế khủng hoảng trong vật lý học không thể không cần
đến một cuộc cách mạng trong vật lý. Một bức tranh vật lý học mới về thế giới
từng bước được hình thành trên cơ sở một lý thuyết cơ bản mới tổng quát và
chính xác hơn sẽ thay thế cho bức tranh cũ đang sụp đổ cùng lý thuyết cơ bản
tương ứng của nó đang bộc lộ tính chật hẹp và kém chính xác của chính mình.
Cụ thể hơn, khi bước sang thời kỳ hiện đại, với đối tượng nghiên cứu là
thế giới vi mô, có nhiều đặc điểm khác hẳn thế giới vĩ mô nên hệ thống khái
niệm của vật lý cổ điển xây dựng trên nền móng siêu hình không còn phù hợp,
phép siêu hình hoàn toàn bị phá sản. Việc này làm cho nhiều nhà khoa học và
triết học trượt sang chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa bất khả tri. Trước tình hình
đó, các trường phái duy tâm đã dựa trên những khó khăn này để tấn công chủ
nghĩa duy vật siêu hình. Họ đã góp phần tạo nên cuộc khủng hoảng trong vật lý
học vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Và giai đoạn này, vật lý
học liên tiếp có những phát hiện quan trọng. Vào năm 1895, Rơnghen phát hiện
HVTH: Lê Phú Quí Trang 13
Lớp Cao học KHMT Khóa 8 ĐH CNTT – ĐHQG TP.HCM
ra tia X. Vào 1897, Thomson phát hiện ra sự tồn tại của điện tử. Những thành tựu
này đã làm đảo lộn những quy luật cũ và những nguyên lý cơ bản, gạt bỏ thực tại
khách quan ở bên ngoài ý thức, thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa bất
khả tri. Đứng trước tình hình này, khi mà những quy luật, những nguyên lý bị
lung lay trước những phát hiện mới, cộng thêm sự đả kích của chủ nghĩa duy
tâm, Lênin đã vạch rõ bản chất của cuộc khủng hoảng và chỉ ra điều kiện tất yếu
để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng là: “Chủ nghĩa duy vật biện chứng phải thay
thế chủ nghĩa duy vật siêu hình”.
Từ đó, Lênin đã không ngừng đấu tranh quyết liệt chống lại những quan
điểm duy tâm và chủ nghĩa xét lại trong triết học, bảo vệ và phát triển triết học
Mác.Lênin đã dành công sức để nghiên cứu các thành tựu của vật lý học hiện đại,
tuy mới phôi thai, từ đó vạch ra được thực chất và con đường thoát ra khỏi khủng
hoảng của vật lý học về mặt triết học là thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình bằng

chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trong quá trình hình thành bức tranh vật lý học về thế giới, các ý tưởng
(quan điểm, tư tưởng) triết học có một vai trò không nhỏ. Những ý tưởng triết
học đó không phải là những quan điểm duy tâm hay tư tưởng thần bí, vì chủ
nghĩa thần bí hay chủ nghĩa duy tâm chỉ coi thực tại vật lý là sản phẩm của một
linh hồn vũ trụ nào đó hay là những ký hiệu hình thức thuần túy của hoạt động tư
duy con người. Những ý tưởng triết học có ảnh hưởng đến quá trình hình thành
bức tranh vật lý học về thế giới phải là những quan điểm duy vật, những tư tưởng
biện chứng.
Khi xây dựng các bức tranh vật lý học về thế giới và các lý thuyết vật lý
khác nhau, các nhà khoa học thường sử dụng các ý tưởng triết học khác nhau,
thậm chí, đối lập nhau.Ví dụ, trong bức tranh cơ học về tính gián đoạn của vật
chất (nguyên tử luận) được sử dụng. Trong bức tranh điện động lực học, ý tưởng
triết học về tính liên tục của vật chất (lý luận éther) được lấy làm cơ sở
Như vậy, dựa trên những dữ kiện lịch sử mà chúng ta đã nói ở trên có thể
thấy sự giằng co, sự khăng khít của vật lí học và triết học trên con đường tìm ra
HVTH: Lê Phú Quí Trang 14
Lớp Cao học KHMT Khóa 8 ĐH CNTT – ĐHQG TP.HCM
những phương pháp luận mới cho riêng mình. Hai ngành khoa học đã cùng dùi
dắt nhau trên con đường khoa học đầy chông gai để rồi cả hai cùng đạt đến
những thành tựu to lớn như ngày hôm nay. Điều đó hoàn toàn dựa vào mối quan
hệ tương hỗ, biện chứng của vật lí học và triết học. Cũng phải nói rằng, trong quá
khứ sự ảnh hưởng của triết học và vật lí học đan xen lẫn nhau, ban đầu vật lí học
dựa trên phương pháp luận của triết học cũ, sau khi cảm thấy không còn phù hợp
với mâu thuẫn nội tại của chính mình thì chính những phát minh của vật lý học
có thể làm cho những nguyên tắc, nguyên lý triết học bị lung lay, làm cho quan
điểm triết học tồn tại lâu đời bị hoài nghi, tạo nên một bước chuyển mình lớn,
đưa chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành một hệ thống tư tưởng phù hợp, kịp
thời khắc phục khủng hoảng, tiếp tục vai trò chỉ đạo của mình trong nhận thức và
trong thực tiễn. Lúc đó lại đến lượt triết học tiếp tục vai trò dẫn dắt của mình trên

nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng để đưa vật lí học lên một tầm cao
mới. Có thể nói quá khứ và hiện tại lẫn tương lai đều cho thấy vật lí học và triết
học là “đôi bạn” đồng hành trên con đường phát triển của nhân loại.
IV. Tổng kết
Ta thấy rằng giữa vật lí và triết học có mối quan hệ với nhau trong quá trình phát
triển chung của thế giới. Trong đó, các nguyên lý các quy luật và các cặp phạm
trù của triết học được thể hiện trong vật lí học và vật lí phát triển cũng làm cho
triết học hoàn chỉnh hơn.
V. Tài liệu tham khảo
[1] TS. Bùi Văn Mưa, Bài giảng mônTriết học, ĐH Công Nghệ Thông tin.
[2] Đào Văn Phúc, Lịch sử vật lý, NXB Giáo Dục
[3] TS. Bùi Văn Mưa, Triết học và bức tranh vật lý học về thế giới, NXB Đại học
Kinh tế Tp.HCM.
HVTH: Lê Phú Quí Trang 15

×