Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tiểu luận môn triết hoc Mối quan hệ giữa triết học và khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.23 KB, 11 trang )

Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
I H C QU C GIA TH NH PH H CH MINHĐẠ Ọ Ố À Ố Ồ Í
TR NG I H C CÔNG NGH THÔNG TINƯỜ ĐẠ Ọ Ệ
PHÒNG O T O S H KHCN & QH NĐÀ Ạ Đ – Đ
ĐỀ TÀI: MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC
VÀ KHOA HỌC
Gi ng viên h ng d n:ả ướ ẫ TS. B I V N M AÙ Ă Ư
Sinh viên thực hiện: NGUYỄN HUỲNH THUÝ NGA
Mã số sinh viên: CH1301041
L pớ : CAO H C KHÓA 8Ọ –
TPHCM, tháng 8/ 2014
LỜI NÓI ĐẦU

Trong những năm gần đây, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại
phát triển như vũ bão, cũng như những biến động cách mạng lớn lao làm thay đổi
HVTH: Nguyễn Huỳnh Thuý Nga_MSSV: CH1301041 Trang 1/11

Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
tận gốc rễ bộ mặt của cuộc sống xã hội, đòi hỏi các nhà triết học và các nhà khoa
học chuyên môn giải quyết đúng đắn và kịp thời những yêu cầu lý luận và thực
tiễn cấp bách. Sự giải đáp này chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở nắm vững và
vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo thế giới quan và phương pháp luận triết
học của chủ nghĩa Mác – Lênin. Do đó việc nghiên cứu những vấn đề về mối
quan hệ giữa triết học và khoa học có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Triết học như là gốc rễ để khoa học vươn lên, sinh sôi và này nở. Cứ ở
đâu có triết học là ở nơi đó khoa học phát triển thêm tầm cao mới. Và ngược lại
khoa học càng phát triển cũng làm cho chúng ta thấy được hệ thống quan điểm
Triết học về thế giới và sự nhận thức thế giới ấy đóng vai trò không thể thiếu
trong cuộc sống của chúng ta.
Qua môn học “Triết học” Thầy TS. BÙI VĂN MƯA đã giúp em hình thành
những cái nhìn rất mới Triết học và Khoa học. Đặc biệt là mối liên hệ mật thiết


tác động qua lại giữa chúng.
Trong phạm vi của bài thu hoạch nhỏ này, chúng em sẽ trình bày
1. Mối liên hệ giữa Triết học và Khoa học.
2. Triết học với khoa học hiện đại
Em xin chân thành cảm ơn Thầy TS Bùi Văn Mưa. Những tiết giảng quý
báu của Thầy đã cung cấp cho em những kiến thức nền tảng về Triết học bước
khởi đầu giúp em nghiên cứu về Triết học trong nhiều lĩnh vực.

Học Viên Cao Học Khóa 8
NGUYỄN HUỲNH THUÝ NGA
* * *
PHẦN 1: MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC
1. Định nghĩa Triết học và Khoa học
Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, hệ thống các quan
điểm chung nhất của con người về thế giới và sự nhận thức thế giới ấy.
HVTH: Nguyễn Huỳnh Thuý Nga_MSSV: CH1301041 Trang 2/11

Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
Khoa học là toàn bộ hoạt động có hệ thống nhằm xây dựng và tổ chức kiến
thức dưới hình thức những lời giải thích và tiên đoán có thể kiểm tra được về vũ trụ.
2. Nhiệm vụ của Triết học đối với Khoa học
Một nền triết học phải là một nền khoa học theo đúng nghĩa của truyền thống
của nó. Ðó là một tri thức nguyên lý mà luôn đúng ở bất cứ thời đại nào, xã hội nào.
Lẽ tất nhiên, các triết gia Hy lạp và cận đại đều hiểu triết học theo nghĩa này, và do
đó họ nhận thấy tri thức triết học không khác chi tri thức toán học.
Từ đây những nhà toán học như Descartes, Leibniz, Pascal cho rằng nền
tảng của triết học phải là toán học. Từ một khía cạnh khác, tri thức không chỉ
luôn đúng, mà nó còn phải là nền tảng cho tri thức mới. Chỉ một tri thức như vậy
mới đáng gọi là triết học.
Triết học như vậy các nhiệm vụ sau:

- Triết học là một tri thức giúp chúng ta dự đoán một cách chính xác cái gì
sẽ xảy ra. Một tri thức như vậy được những người như Galileo, Newton, Bayle,
Locke, Hume hiểu như là một nền khoa học thực nghiệm hay kinh nghiệm, tức
nền vật lý học.
- Rà soát các khái niệm và giả định của khoa học để phê bình phân tích và
làm rõ những thuật ngữ được sử dụng trong khoa học. Cũng như làm thế nào để
khoa học có liên quan đến các thực thể lập luận mà triết học lập luận về thế giới.
- Khám phá ra tiêu chuẩn cho lý thuyết tốt, lời giải thích hợp lệ và phương
pháp khoa học thích hợp. Cung cấp một nhận thức luận không ngăn chặn mà kích
thích tiến bộ khoa học.
- Hướng dẫn và khám phá mục tiêu cho khoa học.
- Chỉ ra và trình bày rõ mối tương quan giữa các khái niệm khác nhau được
tìm thấy trong lĩnh vực khoa học tự nhiên cũng như các ngành khoa học xã hội
và nhân văn.
- Giải thích và hướng dẫn cách quan sát phù hợp hơn với cái nhìn rộng hơn
về thế giới.
3. Sự đối lập nhau giữa Triết học và Khoa học
a) Đối lập về định nghĩa
HVTH: Nguyễn Huỳnh Thuý Nga_MSSV: CH1301041 Trang 3/11

Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
- Triết học: Theo chữ Hán,từ triết gồm hai chữ chiết là bẻ gãy và khẩu là
miệng hội ý lại có nghĩa lời nói lí luận chặt chẻ để tìm hiểu thấu đáo một đối
tượng nào đó.
- Khoa học: Thông thường từ khoa học chỉ khoa học thực nghiệm như vật
lý, hóa học, sinh vật…Toán học, một môn lí trí trừu tượng nhưng rất chuẩn xác
được xếp vào hàng ngũ khoa học.
b) Phương pháp lý luận
- Triết học: Triết học là một bộ môn gồm có bốn môn: luận lý học, tâm lý
học, đạo đức học và siêu hình học. Nhưng luận lý là môn chủ đạo vì phải suy

luận sâu xa mới đạt đến triết được. Luận lý có hai phần lý thuyết và thực hành.
+ Những nguyên lý của lý trí, đồng nhất nhân quả khởi thủy cứu cánh định
mệnh tạo thành các phương pháp suy tưởng diễn dịch quy nạp trực giác và suy
luận phân tích và tổng hợp thuộc lý thuyết
+ Áp dụng lý thuyêt vào những môn thực tế như vũ trụ học, vật lý học, sinh
vật học là phần luận lý thực hành
+ Luận lý lý thuyết tạo nên một phương pháp nhận thức khách quan hệ thống tiến
đến sự thật.Phương pháp này mệnh danh phương pháp Khoa học
- Khoa học: trong Số học các con số áp dụng vào thực tế phải thật đúng
đắn. Trong Hình học đường thẳng đường cong hình vuông hình tròn rất chính
xác.
+ Thành ngữ Hán có cụm từ: Thập phần hoàn mĩ nói lên kết quả hoàn toàn
tốt đẹp.
+ Trong tác phẩm Truyện Kiều Nguyễn Du dùng số10 để tả vẻ đẹp hoàn
toàn của hai chị em Kiều: “Một người một vẻ mười phân vẹn mười”
+ Môn nào sử dụng phương pháp Khoa học mới đáng được gọi là một Khoa
học
* Kết luận: Tuy đối lập nhau nhưng phương pháp khoa học hay Khoa học
thực nghiệm có liên quan mật thiết với Triết học. Khoa học nằm trong luận lý
Triết học.
HVTH: Nguyễn Huỳnh Thuý Nga_MSSV: CH1301041 Trang 4/11

Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
4. Mối quan hệ Triết học và khoa học.
a) Mối quan hệ bất biến
- Triết học ban đầu không hoàn toàn đầy đủ, nhưng nó phải là một bước đầu
tiên hướng tới sự phát triển của mối quan hệ hiệp lực giữa triết học và khoa học
tự nhiên. Triết học cung cấp tiền đề biện minh cho lý thuyết khoa học cụ thể.
Trong khoa học:
• Một lý thuyết phải có những kết quả quan sát được kiểm tra và được đặt

làm giả thuyết.
• Lý thuyết mới cũng phải đồng nhất với các lý thuyết trước đó trong lĩnh
vực mà họ đã được thử nghiệm thành công.
Trong triết học:
- Lý thuyết mới phải phù hợp với lý thuyết hiện có. Vì vậy, làm thế nào để
phù hợp với triết lý trong khi phải duy trì sự chặt chẽ cần thiết cho nghiên cứu
khoa học? Là câu hỏi lớn mà các nhà triết học luôn hướng đến.
* Kết luận: Khoa học và triết học có mối quan hệ bất biến hỗ trợ lẫn nhau.
Chúng đã, đang và sẽ đồng hàng với nhau trong sự tiến bước.
b) Mối liên hệ không đồng nhất giữa Triết học và Khoa học
Triết học khác với khoa học, nhất là với những nền học khoa, tức khoa học
cá biệt. Triết học là môn học về nguyên lý chứ không phải về một tình trạng tri
thức cố định. Nó càng không thể tự đồng nghĩa với bất cứ học khoa nào như toán
học, vật lý, sinh vật, vân vân, bởi lẽ nó là nền tảng của những học khoa này.
Tôi đồng ý với Jaspers, đó là triết học không thể đồng nhất với khoa học,
cho dù là bất cứ nền khoa học nào. Triết học đi trước khoa học, và cũng đi sau
khoa học.
Nó luôn luôn đặt ra những câu hỏi bắt khoa học gia phải đi tìm giải đáp.
Nó đi trước đưa ra những viễn kiến, hay giả đề mà các nhà khoa học chấp nhận,
song phải phản tỉnh và phê phán.
Họ phải chứng minh xem các viễn kiến, giả thuyết có đúng hay không, có
hoàn toàn hay không. Nếu không thì, như Karl Popper từng chủ trương, họ phải
HVTH: Nguyễn Huỳnh Thuý Nga_MSSV: CH1301041 Trang 5/11

Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
gạt bỏ chúng, sửa đổi chúng. Họ phải tìm một giả thuyết mới, một cái nhìn mới,
một nguyên lý mới, tức một nền triết học mới.
Triết học đi sau khoa học, không phải như người hầu đi sau sách đồ cho chủ
hay như người nữ tì cho nền thần học thời Trung Cổ. Nó giúp khoa học phản
tỉnh. Nó cũng tự phản tỉnh để có thể đưa ra một giả thuyết mới, để rồi các khoa

học gia tiếp tục phê bình, sửa đổi hay gạt bỏ.
PHẦN II: TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC HIỆN ĐẠI
1. Sự khác nhau Khoa học hiện đại và truyền thống
Khoa học quan tâm chủ yếu đến hiệu quả ở mức cao nhất, trên phương diện
tính vật chất trực tiếp, nhằm dẫn tới những phát minh. Trái lại, truyền thống có
quyền không tính tới hiệu quả đối với tính vật chất không gian - thời gian, tính
vật chất trực tiếp của quan sát.
Khoa học hiện đại vẫn khác với truyền thống về bản chất, cả về phương
điện huy động và về mục đích. Chúng như hai cực của một mâu thuẫn, hai cái
nan hoa của một bánh xe. Tuy khác nhau, nhưng chúng luôn luôn hướng về một
tâm: đó là con người và sự tiến hóa của con người. Đây là nguyên lý về sự cần
thiết đối với truyền thống của khoa học hiện đại.
2. Triết học qua các thời kỳ khoa học
Trong lịch sử khoa học, người ta coi phát minh về lý thuyết tương đối của
A.Einstein là sự mở đầu cho khoa học hiện đại, bởi vì từ đây con người khám
phá ra một thế giới mới và gắn liền với nó là một phương pháp khoa học hoàn
toàn khác về chất so với khoa học cổ điển.
Trong cuốn Cơ cấu cách mạng khoa học, nhà triết học người Mỹ Thomas
Kuhn cho rằng mỗi thời kỳ phát triển bình thường của khoa học đều có một hệ
thống chuẩn tương ứng: hiện nay là hệ chuẩn kiểu Einstein, trước đó là hệ chuẩn
kiểu Newton
Vào đầu thế kỷ XX, Einstein cùng với Planck đã làm một cuộc “cách mạng
khoa học", đưa đến một hệ thống giá trị mới chi phối cuộc sống hàng ngày của
chúng ta. Sự khám phá một quy mô lượng tử không thể nhận biết được bằng giác
HVTH: Nguyễn Huỳnh Thuý Nga_MSSV: CH1301041 Trang 6/11

Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
quan với những định luật hoàn toàn khác với những định luật có thể nhận biết
được trong đời sống hàng ngày. Đó là đóng góp quan trọng nhất của khoa học
hiện đại vào tri thức nhân loại. Tư tưởng này đã đặt nền móng cho một cách nhìn

mới về thế giới: thế giới các sự kiện lượng tử hoàn toàn khác hẳn với thế giới mà
cách đây hơn một thế kỷ do Newton khám phá.
Cho đến thế kỷ XIX, vật lý học Newton là một chủ nghĩa quyết định bất di
bất dịch: vạn vật đều gắn bó với nhau, những nguyên nhân như nhau bao giờ
cũng sinh ra kết quả như nhau. Đó là những quy luật "thép" chi phối sự tiến hoá
không sao cưỡng lại được.
Vì sức sống của cái ngẫu nhiên nằm trong thực tại, cho nên thực tại bao
chứa cái không thể tiên đoán, cái bấp bênh. Và đó chính là nền tảng của lý thuyết
hỗn.độn. Như vậy, bản thân thực tại là hỗn độn, chứ không do sự bất cập của hệ
thống tri thức của chúng ta, hay không do sự không hoàn hảo của thiết bị kỹ thuật
của chúng ta.
Cùng với lý thuyết về hỗn độn, lý thuyết về phức hợp cũng không kém
phần bí ẩn. Nhà triết học người Pháp Edgar Morin cho rằng "Tín điều của một
thứ chủ nghĩa quyết định đã sụp đổ bởi vì vũ trụ không bị chi phối bởi chủ nghĩa
quyền tuyệt đối của trật tự mà còn bởi mối quan hệ dialogique giữa trật tự, rối
loạn và tổ chức". Phức hợp như vậy, một mặt, là sự liên kết, và mặt khác, là sự
chấp nhận thách thức của sự không chắc chắn. Nguyên lý dialogique đã nối hai
nguyên lý hay hai khái niệm đối kháng nhau, nhưng không tách rời nhau và đều
cần thiết để hiểu rõ thực tại. Niels Bohr cho rằng hạt vật lý vừa là hạt, vừa là
sóng. Bohr nói rõ hơn: “Sự ngược lại của sự thực thông thường là một sai lệch vô
lý, nhưng sự trái ngược của một sự thực sâu sắc thì bao giờ cũng là một sự thật
sâu sắc.
Trong trường phái lịch sử Mỹ, Wartofski là người tích cực nhất trong việc
phục hồi siêu hình học để phát triển khoa học. Ông đặc biệt kế thừa phạm trù
lương tri trong siêu hình học của triết học cổ điển đó là năng lực phân biệt cái
đúng, cái sai, (thật, giả) - những cái tồn tại một cách tự nhiên, ngang nhau ở mọi
con người. Từ đó, ông làm rõ nhiều chức năng của siêu hình học trong khoa học:
gợi mở cho khoa học, xây dựng các mô hình cơ bản của nhận thức khoa học, phê
HVTH: Nguyễn Huỳnh Thuý Nga_MSSV: CH1301041 Trang 7/11


Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
phán các luận cứ cơ bán của khoa học Nước Mỹ hiện nay có một nền khoa học
phát triển nhất thế giới. Điều đó không thể không biết tới sự đóng góp của các
nhà triết học về khoa học - những người cũng đi đầu trong việc khẳng định nhân
tố con người trong nhận thức khoa học.
Khoa học hiện đại, nói như Jaspers, nhờ “sự làm việc" của triết học mà gốc
là siêu hình học, đã vượt lên những bế tắc để phát triển mạnh mẽ như ngày nay.
Không chỉ khoa học tự nhiên mà cả khoa học xã hội cũng đã nhờ cái lực đẩy đó
mà trở thành khoa học nhân văn, khoa học con người. Khoa học nhân văn chỉ có
thể xuất hiện cùng lúc khi triết học về con người đã phát triển tới đỉnh cao. Đó là
một cuộc cách mạng trong nền văn hoá của loài người khi bước vào thế giới hiện
đại. Không chỉ có "văn học là nhân học", mà tất cả các khoa học xã hội, kể cả các
bộ môn lấy xã hội làm trung tâm như xã hội học, kinh tế cũng đều trở thành
khoa học nhân văn, một khi chúng gắn hữu cơ với triết học con người.
Hầu hết các thành tựu khoa học đều dựa trên lý thuyết về triết học. Thành
tựu khoa học đều có sự đóng góp rất lớn của các nhà Triết học.
3. Ảnh hưởng của Triết học với khoa học hiện đại
Khoa học hiện đại đã tạo dựng một quang cảnh mới và đã đóng lại thời kỳ
tôn thờ cái châm ngôn khoa học “càng đơn giản thì càng đẹp, càng đúng", đã mở
màn cho một châm ngôn khoa học mới "càng phức hợp, càng hỗn độn thì càng
hiện thực". Càng hiện thực bởi vì cái bị quy định theo tinh thần nhân quả máy
móc đã nhường bước cho cái khả thể, cái tất yếu không còn một mình thống trị
mà buộc phải chấp nhận có cả cái ngẫu nhiên.
Khoa học hiện đại đã đặt đúng vấn đề: khoa học cổ điển đã sa vào một cuộc
khủng hoảng nổi trội lên ở sự phi lý của lý trí thực nghiệm và từ đó xoá bỏ sự
hiện diện của con người với tư cách là chủ thể quan sát trong quá trình nhận thức
thực tại vật lý. Dường như khoa học hiện đại đang đứng tại chỗ dò những ngõ cụt
và những nghịch lý cản đường.
Nhà triết học người Đức Jaspers đã viết rằng: Cuộc khám phá vũ trụ cho ta
thấy khoa học thực nghiệm chưa hoàn thành được công việc. Triết học phải tiếp

tục công việc mà khoa học bỏ dở. Whitehead, nhà triết học Anh, nói rõ chỗ bỏ dở
HVTH: Nguyễn Huỳnh Thuý Nga_MSSV: CH1301041 Trang 8/11

Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
đó là khoa học nói chung không đi tới cùng những vấn đề mà nó nêu lên. Nhưng,
theo ông, bao giờ trong những điều kiện ít thuận lợi nhất, triết học học cũng tự
mình đứng ra để trả lời những vấn đề lớn nhất của thời đại. Sự phát triển của
khoa học hiện đại đang chứng minh điều khẳng định trên: nhà khoa học và nhà
triết học đã, đang và sẽ cùng nhau phát triển.
Thiên văn học hiện đại không thể không gợi nên những băn khoăn về ý
nghĩa tột cùng của vũ trụ. Đây không còn là vấn đề của khoa học mà là của triết
học. Thiên văn học, môn khoa học hình như đi tới gần cội nguồn của những điều
bí ẩn của tồn tại, đi tới những miền mà vật lý học hầu như hoà lẫn vào siêu hình
học.
Thế giới ngày nay hiện ra như một tấm thảm rộng mênh mông làm bằng
nhiều mảnh bị tung toé ra, không sao ghép lại một cách khoa học được. Triết học
sẽ làm cho con đường phát triển khoa học sáng lên. Khoa học đã nhìn thấy gốc
của mình ở siêu hình học và từ đó nó vươn vai đứng lên mạnh mẽ như ngày hôm
nay. Và bây giờ, đến lượt nó, nó lại chứng minh cho triết học theo nguyên lý của
lý thuyết phức hợp rằng tư duy lý trí và tư duy không lý trí, hoạt động của tư duy
khoa học và của tư duy siêu hình học vừa có sự phân biệt, vừa có sự liên kết
không tách rời.
Để làm rõ ý tưởng này, tôi xin đề cập tới phát minh khoa học của Roger
Sperry về chức năng cao cấp của não - phát minh đã đưa lại cho ông giải thưởng
Nobel về sinh lý và y học. Trước khi có phát minh này, nhà thần kinh học người
Pháp Pierre Paul Broca đã chứng minh rằng vùng tiếng nói nằm ở bán cầu trái
của não. Còn nhà sinh lý học người Nga Paplov cho rằng ở nhà nghệ sĩ thì trội ở
bán cầu phải - bán cầu mang tính tổng thể, còn ở nhà tư tưởng thì trội ở bán cẩu
trái - bán cầu có tính phân tích. Roger Sperry đã đề xướng một lý thuyết chặt chẽ
về chức năng riêng của từng bán cầu. Hoạt động của bán cầu trái mang tính phân

tích, trình tự duy lý. Hoạt động của bán cầu phải mạng tính tổng hợp, tổng thể ,
trực giác. Ông khẳng định rằng não chỉ đạt tới mức hoạt động cao nhất khi có sự
hợp tác các chức năng giữa hai bán cầu.
Như vậy, trong sinh lý học chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa phi duy lý, khoa
học và siêu hình học không còn chỉ là những tư biện, những điều bày đặt của nhà
HVTH: Nguyễn Huỳnh Thuý Nga_MSSV: CH1301041 Trang 9/11

Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
triết học, mà đã có những chứng cứ mạnh mẽ. Vấn đề lớn nhất đặt ra cho triết
học là trong não người không phải chức năng này tiêu diệt chức năng kia, mà là
cùng hợp tác để tạo nên con người.
KẾT LUẬN

- Khoa học và triết học luôn học hỏi nhau, tương tác sâu sắc lẫn nhau. Triết
học giúp chúng ta đạt được một sự hiểu biết sâu sắc hơn về ý nghĩa xã hội và
triển vọng chung của những khám phá khoa học và ứng dụng kỹ thuật. Những
thành tựu ấn tượng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, những mâu
thuẫn và hậu quả xã hội đã khơi dậy, nâng cao vấn đề triết học sâu sắc.
- Triết học rất hữu ích và rất cần cho Khoa học. Thể hiện qua việc các nhà
khoa học thực sự thường nắm bắt lý thuyết mạnh mẽ, chưa bao giờ quay lưng lại
với triết học.
- Khoa học không thể sống thiếu Triết học. Quả thật tư tưởng khoa học là
triết học cốt lõi, cũng như suy nghĩ thực sự triết học là khoa học sâu sắc, bắt
nguồn từ sự tổng hợp tổng số thành tựu khoa học. Triết học cung cấp cho các nhà
khoa học một chiều rộng và thâm nhập, một phạm vi rộng lớn hơn đặt ra và giải
quyết vấn đề. Những phẩm chất này được thể hiện rực rỡ, như trong tác phẩm
của Marx, hoặc trong các quan niệm khoa học tự nhiên trên phạm vi rộng của
Einstein.
- Triết học và Khoa học có quan hệ bất biến hỗ trợ lẫn nhau nhưng không
đồng nhất nhau. Triết học đi trước khoa học, và cũng đi sau khoa học. Nó luôn

luôn đặt ra những câu hỏi bắt khoa học gia phải đi tìm giải đáp. Nó giúp khoa
học phủ định để tìm ra các thành tựu khoa học mới. Nó cũng tự phủ định để có
thể đưa ra một giả thuyết mới, để rồi các khoa học gia tiếp tục phê bình, sửa đổi
hay gạt bỏ.
- Nhưng có những câu hỏi tuyệt vời của thời đại mà chúng ta không thể
được trả lời bằng khoa học cao nhất của vật lý, bởi toán học, điều khiển học, hóa
học, sinh học, hoặc khoa học tự nhiên như một toàn thể, tuyệt vời mặc dù những
khám phá của họ có được. Những câu hỏi này liên quan đến cuộc sống ngày hôm
nay và trong tương lai, phải được trả lời bởi triết lý khoa học.
HVTH: Nguyễn Huỳnh Thuý Nga_MSSV: CH1301041 Trang 10/11

Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] TS. Bùi Văn Mưa. Các Slide bài giảng chuyên đề “Triết học” – 2014.
[2] TS. Bùi Văn Mưa. Triết học và Bức tranh Vật lý học về thế giới – 2014.
[3] TS. Bùi Văn Mưa. Giáo trình Triết học -2014.
[4] TS. Bùi Văn Mưa. Triết học–Phần 1–Đại cương Lịch sử Triết học – 2010
[5] Dialectical Materialism (A. Spirkin). Philosophy and Science.
[6] Triết học duy vật biện chứng và khoa học tự nhiên, Tạp chí Khoa học
Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, Số 5(40).2010
[7] Gs. Trần Văn Ðoàn. Triết Học Và Nguyên Lý Khoa Học , Đại học quốc
gia Đài Loan.
[8] />[9] Sebastian de Haro. Science and Philosophy: A Love-Hate Relationship
– 2013.
[10] Julian Baggini. Philosophy v science: which can answer the big
questions of life?
HVTH: Nguyễn Huỳnh Thuý Nga_MSSV: CH1301041 Trang 11/11


×