Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

luận văn quản trị kinh doanh Một số giải pháp về chủng loại sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại công ty cổ phần Tràng An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.72 KB, 71 trang )

Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng
mạnh mẽ, cạnh tranh ngày càng khốc liệt, để có thể tồn tại và phát triển, đứng
vững trên thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải có một chiến lược
kinh doanh đúng đắn, nắm bắt nhanh chóng các cơ hội trên thị trường.
Đối với công ty cổ phần Tràng An nhờ thực hiện thành công cổ phần
hóa, chuyển đổi hình thức sở hữu, tách ra khỏi sự bao bọc của nhà nước đã
tạo ra cho công ty nhiều cơ hội và thách thức trong quá trình đổi mới và hoàn
thiện cơ cấu sản phẩm sao cho linh động, phù hợp với nhu cầu và thị hiếu
ngày càng tăng của người tiêu dùng. Để củng cố và phát triển vị thế của công
ty trên thị trường, tăng khả năng cạnh tranh, góp phần nâng cao hiệu quả kinh
doanh, công ty đã cam kết thực hiện mục tiêu xây dựng một hệ thống chủng
loại sản phẩm linh hoạt, không ngừng phát triển, vượt lên trên sự mong đợi
của khách hàng, nhờ đó sẽ tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, phong phú
về hình thức, đóng góp vào khối sức mạnh chung của các doanh nghiệp Việt
Nam.Tuy nhiên, quá trình thực hiện các quyết định về chủng loại sản phẩm lại
là một quá trình phức tạp, bị tác động bởi nhiều yếu tố chủ quan tại doanh
nghiệp và khách quan của môi trường bên ngoài, đòi hỏi công ty phải có
những chiến lược dài hạn và ngắn hạn bám sát từng giai đoạn cụ thể mới có
khả năng đạt được hiệu quả cao nhất.
Trên cơ sở nắm bắt tình hình thực tế tại công ty cùng với sự hướng dẫn
nhiệt tình, chu đáo của Thạc sỹ Nguyễn Sơn Lam em đã chọn đề tài: “ Một số
giải pháp về chủng loại sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 1
Luận văn tốt nghiệp
doanh tại công ty cổ phần Tràng An” là đề tài cho luận văn tốt nghiệp của
mình.
Do thời gian thực tập không nhiều, kiến thức và kinh nghiệm còn hạn
chế nên chắc chắn đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Qua đây, em


mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô để luận văn của em được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo trong chuyên ngành
Marketing, các anh chị trong công ty cổ phần Tràng An và đặc biệt là thầy
giáo Nguyễn Sơn Lam đã tận tình giúp đỡ để em hoàn thành đề tài tốt nghiệp
này.
Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa một số vấn đề lí luận về chủng loại sản phẩm và vai trò của
chính sách chủng loại sản phẩm đối với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
Thực trạng hoạt động kinh doanh và thực tế về việc thực hiện chính
sách chủng loại sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp về chủng loại sản phẩm nhằm
nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các chính sách về chủng loại sản
phẩm nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty cổ phần Tràng An.
Phạm vi nghiên cứu
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 2
Luận văn tốt nghiệp
Luận văn tập chung vào việc nghiên cứu các quyết định có liên quan tới
chủng loại sản phẩm của công ty Tràng An trong những năm qua.
Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề này sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử làm công cụ chủ đạo để thực hiện đề tài, đồng thời kết hợp chặt chẽ
phương pháp lịch sử, logic, phương pháp trừu tượng hoá khoa học, phương
pháp thống kê, so sánh, đối chiếu phân tích tổng hợp. Bên cạnh đó còn áp
dụng các lý thuyết về chủng loại sản phẩm vào thực tiễn hoạt động kinh
doanh của công ty.

Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì kết cấu của luận văn gồm 3
phần chính:
Chương 1 Những lý luận cơ bản về chủng loại sản phẩm trong việc nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Chương 2 Thực trạng về việc thực hiện chiến lược chủng loại sản phẩm nhằm
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại công ty cổ phần Tràng An trong
những năm qua
Chương 3 Một số giải pháp về chủng loại sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh tại công ty cổ phần Tràng An
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 3
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG 1 NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỦNG LOẠI SẢN PHẨM
TRONG VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA
DOANH NGHIỆP
1 Tổng quan về chủng loại sản phẩm
1.1.1 Khái niệm sản phẩm và chủng loại sản phẩm
1.1.1.1 Sản phẩm
Theo quan điểm của Marketing:
Sản phẩm là một thứ có thể chào bán trên thị trường, với mục đích thu
được sự chú ý, sự chấp nhận, sử dụng hoặc tiêu thụ, có khả năng thỏa
mãn được một nhu cầu hay một mong muốn.
Theo quan niệm này, sản phẩm có thể tồn tại dưới dạng vật chất
hay phi vật chất, bao gồm hàng hóa, dịch vụ, ý tưởng, con người, địa
điểm, tổ chức, có thể thỏa mãn một hay nhiều nhu cầu của thị trường ở
một thời điểm cụ thể.
Với quan điểm trên, có thể xem xét sản phẩm ở ba cấp độ sau:
- Cấp độ cơ bản nhất là lợi ích cốt lõi, chính là dịch vụ hay lợi ích cơ
bản mà khách hàng thực sự mua. Mỗi khách hàng, mỗi nhóm khách

hàng khác nhau sẽ có những nhu cầu khác nhau gắn với những lợi
ích khác nhau, nó chính là cơ sở cho việc ra quyết định liên quan
đến sản phẩm. Điều quan trọng sống còn đối với doanh nghiệp là
nhà quản trị Marketing phải nghiên cứu tìm hiểu khách hàng để phát
hiện ra những đòi hỏi về các khía cạnh khác nhau tiềm ẩn trong nhu
cầu của họ. Chỉ có như vậy, doanh nghiệp mới có thể tạo ra những
sản phẩm có khả năng thỏa mãn được những lợi ích mà khách hàng
mong đợi.
- Cấp độ thứ hai là sản phẩm hiện thực: Doanh nghiệp sau khi nghiên
cứu nhu cầu và những lợi ích mà khách hàng muốn có sẽ đưa những
yếu tố này vào những sản phẩm cụ thể. Đó là những yếu tố phản ánh
sự có mặt trên thực tế của sản phẩm. Những yếu tố đó bao gồm: Các
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 4
Luận văn tốt nghiệp
chỉ tiêu phản ánh chất lượng, các đặc tính, bố cục bề ngoài, tên nhãn
hiệu và đặc trưng của bao gói. Trong thực tế, khi tìm mua những lợi
ích cơ bản, khách hàng dựa vào những yếu tố đó. Và cũng nhờ
những yếu tố này mà doanh nghiệp khẳng định sự hiện diện của
mình trên thị trường, để khách hàng tìm mua sản phẩm của doanh
nghiệp cũng như phân biệt sản phẩm của doanh nghiệp này với sản
phẩm của doanh nghiệp khác.
- Cấp độ thứ ba là sản phẩm bổ sung: Đó là những yếu tố như: tính
tiện lợi cho việc lắp đặt, những dịch vụ bổ sung sau khi bán, những
điều kiện bảo hành, và điều kiện hình thức tín dụng. Một số công ty
thành đạt nhất đã bổ sung cho sản phẩm của mình những lợi ích
không những chỉ thỏa mãn khách hàng mà còn làm họ vui lòng nữa.
Cách làm vui lòng là tạo thêm cho sản phẩm những điều kiện ngạc
nhiên bất ngờ.
Như vậy một sản phẩm trong kinh doanh không chỉ là một tập hợp

đơn sơ những thuộc tính cụ thể mà trên thực tế còn kèm theo cả những
dịch vụ sau khi hàng hóa đã bán cho khách hàng. Người tiêu dùng cảm
nhận những sản phẩm như một tập hợp những lợi ích đem lại sự thỏa
mãn nhu cầu của họ. Do đó, khi triển khai những sản phẩm trước hết
doanh nghiệp cần phải xác định những yêu cầu cốt lõi của khách hàng
mà sản phẩm sẽ phải thỏa mãn. Sau đó phải thể hiện được những lợi ích
của sản phẩm thông qua việc thiết kế những yếu tố của sản phẩm và tìm
cách bổ sung thêm đặc tính của sản phẩm để tạo ra tập hợp những lợi
ích nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của khách hàng một cách
tốt nhất.
1.1.1.2 Chủng loại sản phẩm
Chủng loại sản phẩm là một nhóm sản phẩm có liên quan chặt chẽ với
nhau do giống nhau về chức năng hay do bán chung cho cùng những
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 5
Luận văn tốt nghiệp
nhóm khách hàng, hay thông qua cùng những kiểu tổ chức thương mại
hay trong khuôn khổ cùng một dãy giá.
Mỗi chủng loại sản phẩm đòi hỏi một chiến lược Marketing
riêng. Các quyết định về chủng loại sản phẩm bao gồm một loạt các
quyết định quan trọng như:
+ Quyết định về bề rộng của chủng loại sản phẩm.
+ Quyết định phát triển chủng loại sản phẩm.
+ Quyết định bổ sung một loại sản phẩm.
+ Quyết định về danh mục sản phẩm.
+ Quyết định đa dạng hóa sản phẩm.
+ Quyết định làm nổi bật sản phẩm.
+ Quyết định thanh lọc sản phẩm.
1 Các quyết định liên quan đến chủng loại sản phẩm
1.1.2.1 Quyết định về bề rộng của chủng loại sản phẩm

Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp phải thông qua quyết
định về bề rộng của chủng loại sản phẩm. Chủng loại là quá hẹp nếu
như doanh nghiệp có thể tăng lợi nhuận bằng cách bổ sung những sản
phẩm mới, và là quá rộng nếu có thể tăng lợi nhuận bằng cách loại bỏ
một số sản phẩm.
Bề rộng của chủng loại sản phẩm cũng phụ thuộc vào mục tiêu
của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đang cố gắng để nổi tiếng là
người cung ứng một chủng loại đầy đủ hay đang phấn đấu để chiếm
lĩnh phần lớn thị trường hay mở rộng thị trường, thường có chủng loại
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 6
Luận văn tốt nghiệp
sản phẩm rộng. Họ sẽ ít lo lắng hơn khi có những mặt hàng do họ sản
xuất ra không sinh lời. Còn những doanh nghiệp quan tâm trước hết
đến tính sinh lời cao thì thường có chủng loại sản phẩm hẹp.
Cùng với thời gian thì chủng loại sản phẩm thường được mở
rộng ra. Doanh nghiệp có thể mở rộng chủng loại sản phẩm của mình
bằng hai cách: phát triển và bổ sung thêm.
2 Quyết định về phát triển chủng loại sản phẩm
Chủng loại sản phẩm của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng đều chỉ
là một bộ phận chủng loại sản phẩm chung của toàn ngành. Do đó
chủng loại sản phẩm sẽ được phát triển khi doanh nghiệp vượt ra ngoài
phạm vi sản xuất hiện tại. Việc phát triển này có thể hoặc là hướng
xuống dưới, hoặc là hướng lên trên, hoặc là đồng thời theo cả hai
hướng.
- Phát triển hướng xuống dưới: Nhiều doanh nghiệp lúc đầu chiếm
lĩnh đoạn phía trên của thị trường rồi về sau dần dần mở rộng chủng
loại sản phẩm của mình để chiếm lĩnh cả những đoạn thị trường phía
dưới. Việc làm này có mục đích kím hãm các đối thủ cạnh tranh,
tiến công họ hay xâm nhập vào những phần thị trường dang phát

triển nhanh nhất.
Những lý do của việc phát triển hướng xuống dưới:
+ Công ty bị đối thủ cạnh tranh tấn công ở đâu trên và quyết định
phản công bằng cách xâm nhập đầu dưới của đối thủ cạnh tranh.
+ Công ty thấy rằng sự tăng trưởng ngày càng chậm đang diễn ra ở
đầu trên.
+ Công ty lúc đầu xâm nhập đầu trên để tạo dựng hình ảnh chất
lượng và có ý định mở rộng xuống phía dưới.
+ Công ty đã bổ sung một đơn vị đầu dưới để bít một lỗ hổng thị
trường mà nếu không làm như vậy thì nó sẽ thu hút một đối thủ
cạnh tranh mới.
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 7
Luận văn tốt nghiệp
Khi tiến hành việc phát triển hướng xuống dưới công ty phải
đương đầu với những rủi ro. Mặt hàng ở đầu thấp có thể gây tổn hại
cho những mặt hàng ở đầu cao. Cũng có khi mặt hàng ở đầu thấp có
thể kích động các đối thủ cạnh tranh trả đũa bằng cách chuyển dịch
về phía đầu trên. Hay các đại lý của công ty có thể chưa sẵn sàng
hoặc không đủ khả năng kinh doanh những sản phẩm ở đầu dưới, vì
chúng có khả năng sinh lời nhỏ hơn hay làm lu mờ hình ảnh của họ
- Phát triển hướng lên trên: Những doanh nghiệp đang hoạt động ở
những đoạn thị trường phía dưới có thể muốn xâm nhập vào những
phần ở đoạn thị trường phía trên. Họ có thể bị hấp dẫn bởi nhịp độ
tăng trưởng cao hơn của những đoạn thị trường bên trên hay khả
năng sinh lời cao hơn của chúng. Cũng có thể doanh nghiệp chỉ
muốn xác lập vị trí của mình như là một nhà sản xuất chủng loại sản
phẩm đầy đủ.
Quyết định phát triển hướng lên trên có thể là mạo hiểm. Những đối
thủ cạnh tranh ở phía trên không những đã chiếm lĩnh vững chắc vị trí

của họ mà có thể chuyển sang phản công bằng cách xâm nhập vào đoạn
thị trường phía dưới. Những khách hàng tiềm năng có thể không tin
rằng một doanh nghiệp mới lại có đủ khả năng sản xuất những mặt
hàng chất lượng cao. Và hơn nữa bản thân những nhân viên bán hàng,
những người phân phối của doanh nghiệp có thể không đủ tài năng và
kiến thức để phục vụ đoạn thị trường cao cấp hơn.
- Phát triển theo cả hai hướng: Một doanh nghiệp đang hoạt động
trong đoạn thị trường ở giữa có thể quyết định phát triển chủng loại
sản phẩm của mình đồng thời theo hai hướng lên trên và hướng
xuống dưới. Để thực hiện mục tiêu này các doanh nghiệp thường
xâm nhập vào các đoạn thị trường phía trên bằng chính sách chất
lượng hoàn hảo giá cả rẻ hơn so với đối thủ cạnh tranh và xâm nhập
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 8
Luận văn tốt nghiệp
đoạn thị trường phía dưới bằng chính sách bảo đảm chất lượng và
giá thành hạ sao cho phù hợp với khả năng thanh toán ở đoạn thị
trường này. Khi đã chiếm được cả đoạn thị trường phía trên và đoạn
thị trường phía dưới, doanh nghiệp sẽ dễ dàng chiếm lĩnh vị trí chủ
đạo trên thị trường.
3 Quyết định bổ sung một loại sản phẩm
Việc mở rộng chủng loại sản phẩm có thể thực hiện bằng cách bổ sung
những mặt hàng mới trong khuôn khổ hiện có của nó. Có một số nguyên
nhân dẫn đến việc bổ sung chủng loại sản phẩm:
+ Doanh nghiệp mong muốn có thêm lợi nhuận.
+ Doanh nghiệp muốn lấp đầy khoảng trống chủng loại hiện có.
+ Doanh nghiệp muốn tận dụng năng lực sản xuất dư thừa.
+ Doanh nghiệp muốn trở thành vị trí chủ chốt với chủng loại sản phẩm
đầy đủ.
+ Doanh nghiệp muốn xóa bỏ những khoảng trống để hạn chế cạnh

tranh.
Việc bổ sung những loại sản phẩm quá mức sẽ dẫn đến làm giảm tổng
lợi nhuận, bởi vì các mặt hàng sẽ cản trở việc tiêu thụ của nhau, còn
người tiêu dùng thì lúng túng trước quá nhiều sự lựa chọn. Khi sản xuất
những mặt hàng mới doanh nghiệp phải nắm chắc là sản phẩm mới sẽ
khác hẳn những sản phẩm đã sản xuất.
Công ty phải kiểm tra xem mặt hàng được đề xuất có đáp ứng
một nhu cầu của thị trường hay không hay là chỉ được bổ sung để thỏa
mãn một nhu cầu nội bộ.
4 Quyết định về danh mục sản phẩm
Nếu như một doanh nghiệp có nhiều nhóm chủng loại sản phẩm
thì người ta nói đến danh mục sản phẩm.
Danh mục sản phẩm là tập hợp tất cả các nhóm sản phẩm và các
đơn vị sản phẩm do một người bán cụ thể đem chào bán cho người
mua.
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 9
Luận văn tốt nghiệp
Danh mục sản phẩm của doanh nghiệp có thể mô tả theo các chỉ
tiêu: bề rộng, mức độ phong phú, bề sâu và mức độ hài hòa.
+ Bề rộng của danh mục sản phẩm: Là tổng số các nhóm chủng loại sản
phẩm do doanh nghiệp sản xuất.
+ Mức độ phong phú của danh mục sản phẩm của doanh nghiệp: Là
tổng số những mặt hàng thành phần của danh mục sản phẩm.
+ Bề sâu của danh mục sản phẩm của doanh nghiệp: Là các phương án
chào bán từng mặt hàng riêng trong khuân khổ nhóm chủng loại.
+ Mức độ hài hòa của danh mục sản phẩm: Là mức độ gần gũi của
hàng hóa thuộc các nhóm chủng loại khác nhau xét theo góc độ mục
đích cuối cùng của chúng, những yêu cầu về tổ chức sản xuất, các kênh
phân phối hay các chỉ tiêu khác nào đó, các nhóm chủng loại sản phẩm

của một doanh nghiệp có thể coi được hài hòa, nếu như tất cả chúng
đều là hàng có cùng chức năng và thông qua cùng những kênh phân
phối.
Bốn chỉ tiêu đặc trưng cho danh mục sản phẩm này giúp doanh
nghiệp xác định chính sách sản phẩm của mình. Doanh nghiệp có thể
mở rộng hoạt động của mình bằng cách bổ sung thêm những chủng loại
sản phẩm mới. Có thể tăng mức độ phong phú của những nhóm chủng
loại sản phẩm đã có đưa doanh nghiệp tiến dần đến vị trí của doanh
nghiệp có chủng loại sản phẩm đầy đủ. Có thể đưa ra nhiều phương án
cho từng mặt hàng sẵn có, tức là phát triển bề sâu của danh mục sản
phẩm. Và cuối cùng, tùy theo mục tiêu của doanh nghiệp là muốn giành
được uy tín vững chắc trong một lĩnh vực nào đó hay muốn phát triển
trong nhiều lĩnh vực thì doanh nghiệp có thể phấn đấu theo hướng tăng
hay giảm mức độ hài hòa giữa các mặt hàng thuộc các nhóm chủng loại
khác nhau.
5 Quyết định đa dạng hóa sản phẩm
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 10
Luận văn tốt nghiệp
Đa dạng hóa sản phẩm là quá trình phát triển cải biến, sáng tạo ra nhiều
loại sản phẩm từ những sản phẩm truyền thống sẵn có, đồng thời cải biến và
nhập ngoại nhiều loại sản phẩm cùng loại, phong phú về chủng loại và mẫu
mã từ những sản phẩm thô đến sản phẩm qua chế biến.
- Thực chất của đa dạng hóa sản phẩm
Trong hệ thống mục tiêu kinh tế - xã hội của mỗi doanh nghiệp có hai
mục tiêu được coi là cơ bản, tạo tiền đề cho các mục tiêu khác đó là việc tạo
ra sản phẩm với chất lượng cao phù hợp với nhu cầu của thị trường và xã hội
và việc đạt được lợi nhuận tối đa sau mỗi chu kỳ kinh doanh trên cơ sở nâng
cao hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Để thực hiện có hiệu quả
hệ thống mục tiêu kinh tế-xã hội nói chung và hai mục tiêu nói riêng mỗi

doanh nghiệp phải xác định được cơ cấu sản phẩm hợp lý của mình. Tính hợp
lý của mỗi cơ cấu sản phẩm chỉ thích ứng với những điều kiện nhất định trong
mỗi kỳ kinh doanh do đó khi những điều kiện ấy có sự thay đổi thì cơ cấu sản
phẩm cũng phải thay đổi để đạt tính hợp lý mới điều đó có nghĩa là cơ cấu sản
phẩm của công ty phải mang tính động để thích ứng với nền kinh tế thị trường
cạnh tranh sôi động.
Sự hoàn thiện và đổi mới cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp được thực
hiện theo nhiều cách khác nhau như :
Thu hẹp danh mục sản phẩm bằng cách loại bỏ những sản phẩm lỗi
thời, những sản phẩm kém sức cạnh tranh và những sản phẩm không có khả
năng tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp.
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 11
Luận văn tốt nghiệp
Giữ nguyên chủng loại sản phẩm đang sản xuất nhưng cải tiến, hoàn
thiện những sản phẩm ấy về hình thức, về nội dung, tạo thêm nhiều kiểu dáng
và thế hệ sản phẩm mới .
Bổ sung thêm vào danh mục sản phẩm những sản phẩm mới phù hợp
với nhu cầu thị trường và xu hướng phát triển của khoa học, công nghệ.
Chuyển hoá vị trí các sản phẩm trong cơ cấu sản phẩm của doanh
nghiệp, đưa những sản phẩm ở vị trí hàng thứ lên vị trí hàng đầu hoặc ngược
lại bằng cách thay đổi định lượng sản xuất mỗi loại.
Trong thực tế, các hướng trên đây được thực hiện xen kẽ lẫn nhau. Nếu
cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp thay đổi theo hướng thu hẹp lại, đảm bảo
sự tập trung cao hơn về sản xuất thì doanh nghiệp phát triển theo hướng
chuyên môn hoá. Ngược lại cơ cấu sản phẩm được mở rộng ra, doanh nghiệp
phát triển theo hướng đa dạng hoá Trong những thời kì nhất định và trên một
thị trường nhất định doanh nghiệp có thể thực hiện đa dạng hoá thông qua
hình thức cải tiến, hoàn thiện sản phẩm đã có hoặc là đưa ra những sản phẩm
mới hoàn toàn có thể cùng loại hoặc khác biệt so với những sản phẩm cũ

nhưng doanh nghiệp cũng có thể kết hợp cả hai hình thức trên nhằm thỏa mãn
đáp ứng cao nhất nhu cầu của thị trường.
Như vậy đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp là việc mở rộng
danh mục sản phẩm, nó gắn liền với quá trình đổi mới và hoàn thiện cơ cấu
sản phẩm, nhằm đảm bảo doanh nghiệp thích ứng được với sự biến động của
môi trường kinh doanh.
- Lý do của việc đa dạng hóa sản phẩm.
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 12
Luận văn tốt nghiệp
Nhu cầu thị trường ngày càng phong phú, đa dạng và thường xuyên biến
đổi
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, đời sống xã
hội cũng ngày càng được nâng cao về nhiều mặt. Trong cuộc sống ngày nay,
nhu cầu của con người không chỉ bó gọn ở mức độ thấp như có ăn, có mặc mà
phải là ăn ngon mặc đẹp ngoài ra còn có nhu cầu vui chơi, giải trí, nhu cầu
thẩm mĩ rất cao. Như vậy so với trước kia trong thời kì kế hoạch hoá tập trung
tự cung tự cấp, nhu cầu thị trường mang tính cứng nhắc và bị áp đặt bởi chính
các yếu tố cung, giờ đây nhu cầu mới là nhân tố thực sự quyết định sự vận
động của thị trường. Các sản phẩm không thể đáp ứng được nhu cầu của thị
trường khi chúng chỉ mang " ích lợi cốt lõi " đơn thuần mà còn phải mang
tính thẩm mĩ, sự tiện nghi và phong phú về chủng loại. Việc một loại sản
phẩm có cùng giá trị sử dụng nhưng có thêm một số đặc tính khác để thoả
mãn từng đoạn thị trường nhất định chính là một biểu hiện của hoạt động đa
dạng hoá sản phẩm. Đa dạng hoá sản phẩm tạo ra nhiều mặt hàng mới phong
phú với chất lượng cao tăng phương án sản phẩm để người tiêu dùng có nhiều
cơ hội lựa chọn.
Do tiến bộ của khoa học công nghệ nên chu kỳ sống của sản phẩm bị rút
ngắn
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra với tốc độ

nhanh như vũ bão. Một khối lượng đồ sộ các phát minh sáng chế ra đời đã tạo
ra ngày càng nhiều công nghệ, máy móc thiết bị, nguyên liệu mới. Điều đặc
biệt là hàm lượng tri thức hay tỷ trọng phần mềm trong các công nghệ mới
này là rất lớn chính vì vậy thời gian tồn tại của các công nghệ này rất ngắn và
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 13
Luận văn tốt nghiệp
điều này cũng đồng nghĩa với việc sản phẩm của doanh nghiệp bị đào thải
nhanh hơn.
Xu hướng chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng hoá trong sản xuất kinh
doanh
Việc nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa chuyên môn hoá và đa dạng
hoá sản phẩm của doanh nghiệp công nghiệp là cơ sở để xác định đúng đắn
con đường, phương hướng và điều kiện phát triển các hình thức tổ chức sản
xuất tương ứng.
Về hình thức, khi mức độ đa dạng hoá sản phẩm càng cao trình độ
chuyên môn hoá sản xuất của doanh nghiệp càng thấp nhưng xét về nội dung
đó không phải là hai quá trình độc lập mà có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau.
Thứ nhất, bản thân sản phẩm chuyên môn hoá của doanh nghiệp cũng phải
được hoàn thiện, cải tiến về hình thức và nội dung, tăng thêm kiểu cách, mẫu
mã để đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường.
Thứ hai, với nhiều doanh nghiệp việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn
hoá thường không sử dụng hết các nguồn lực sẵn có. Bởi vậy trong khi coi
nâng cao một cách hợp lý trình độ chuyên môn hoá là phương hướng chủ đạo
của phát triển doanh nghiệp, doanh nghiệp vẫn cần mở rộng danh mục sản
phẩm để tận dụng các nguồn lực sản xuất.
Thứ ba, có rất nhiều phương thức thực hiện đa dạng hoá sản phẩm nhưng đa
dạng hóa sản phẩm dựa trên cơ sở nền tảng các điều kiện vật chất kĩ thuật của
chuyên môn hoá ban đầu mang lại, sẽ giảm bớt được nhu cầu đầu tư. Đây
chính là ràng buộc của chuyên môn hoá đến việc thực hiện đa dạng hoá sản

phẩm của doanh nghiệp.
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 14
Luận văn tốt nghiệp
Như vậy, để xây dựng cơ cấu sản phẩm động mang tính linh hoạt thì
bản thân sản phẩm chuyên môn hoá của doanh nghiệp cũng phải được đa
dạng hoá và đây được coi là xu hướng tất yếu đảm bảo cho doanh nghiệp
đứng vững trong môi trường kinh doanh.
Phân tán rủi ro, đảm bảo an toàn trong kinh doanh
Mục tiêu chính của các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh
là lợi nhuận nhưng trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, sự thành
công của doanh nghiệp bị đe dọa bởi rất nhiều yếu tố chủ quan và khách
quan. Một cơ hội kinh doanh có khả năng thu lợi càng lớn thì mức độ rủi ro
kinh doanh xảy ra đối với doanh nghiệp càng cao. Rủi ro kinh doanh xảy ra
có thể gây thiệt hại rất lớn cho doanh nghiệp về nhiều mặt vì vậy khi xây
dựng các phương án kinh doanh, doanh nghiệp rất quan tâm đến việc ngăn
ngừa rủi ro đảm bảo độ an toàn cao nhất cho doanh nghiệp. Một trong những
biện pháp giúp doanh nghiệp giảm thiểu những rủi ro là thực hiện đa dạng
hoá sản phẩm để tạo ra các tuyến sản phẩm với nhiều thang, dòng bổ sung lẫn
nhau thay vì chỉ tập trung sản xuất một sản phẩm khi các yếu tố khách quan
biến động có thể dẫn đến sự phá sản của doanh nghiệp.
Đa dạng hoá góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung
của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn
lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm đạt được các mục tiêu kinh doanh.
Việc đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở các nguồn lực sẵn có cho phép doanh
nghiệp tăng năng lực sản xuất, đạt được lợi nhuận tối đa ngoài ra còn tăng
thêm thu nhập cho người lao động, giải quyết việc làm và các mục tiêu xã hội
khác.
SV: Nguyễn Thị Nhung

Lớp: CQ47/32.01 Page 15
Luận văn tốt nghiệp
Tóm lại, thực hiện đa dạng hóa sản phẩm được coi là một xu hướng tất
yếu khách quan đối với các doanh nghiệp công nghiệp giúp doanh nghiệp tồn
tại, phát triển vững chắc trong nền kinh tế thị trường hiện hay.
Trong quá trình mở rộng kinh doanh các doanh nghiệp có thể thực hiện
đa dạng hoá sản phẩm với những hình thức khác nhau. Sau đây là một số hình
thức đa dạng hoá sản phẩm.
Biến đổi chủng loại
Đó là quá trình hoàn thiện và cải tiến các loại sản phẩm đang sản xuất
để giữ vững thị trường hiện tại và thâm nhập vào thị trường mới, nhờ sự đa
dạng về kiểu cách, cấp độ hoàn thiện của sản phẩm thoả mãn thị hiếu, điều
kiện sử dụng và khả năng thanh toán của những khách hàng khác nhau. Sự
hoàn thiện ấy có thể thuần tuý về hình thức sản phẩm hoặc về nội dung sản
phẩm hoặc cả về hình thức và nội dung sản phẩm.
Đổi mới chủng loại
Loại bỏ những sản phẩm lỗi thời, những sản phẩm khó tiêu thụ và bổ
sung những sản phẩm mới vào danh mục sản phẩm của doanh nghiệp. Những
sản phẩm được bổ sung này có thể là sản phẩm mới tuyệt đối ( đối với doanh
nghiệp và với thị trường ) hoặc sản phẩm mới tương đối ( mới với doanh
nghiệp nhưng không mới với thị trường ).
Việc thực hiện hình thức đa dạng hoá sản phẩm này gắn liền với việc
doanh nghiệp rời bỏ một số thị trường cũ và gia nhập những thị trường mới.
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 16
Luận văn tốt nghiệp
Hình thức hỗn hợp
Kết hợp một số nội dung của hình thức thứ nhất và thứ hai vừa nêu.
Nghĩa là doanh nghiệp vừa cải tiến, hoàn thiện một số sản phẩm đang sản
xuất, vừa loại bỏ những sản phẩm không sinh lợi, vừa bổ sung những sản

phẩm mới vào danh mục sản phẩm của mình.
1.1.2.6 Quyết định làm nổi bật sản phẩm
Người quản lý loại bỏ sản phẩm thường lựa chọn một hay một vài mặt
hàng trong loại sản phẩm của mình để làm nổi bật lên. Họ có thể làm nổi bật
mẫu mã khuyến mãi ở đầu dưới để phục vụ cho việc mở đường. Ngược lại có
những nhà quản lý làm nổi bật mặt hàng ở đầu trên để tạo uy tín cho loại sản
phẩm của mình.
1.1.2.7 Quyết định thanh lọc sản phẩm
Người quản lý sản phẩm thường xuyên, định kỳ có kế hoạch rà soát lại
những mặt hàng của mình để thanh lọc bớt chúng. Có hai trường hợp cần phải
thanh lọc.
Thứ nhất là khi loại sản phẩm đó có mặt hàng không đem lại lợi nhuận,
những mặt hàng yếu kém có thể xác định được thông qua việc phân tích
doanh số bán và chi phí.
Thứ hai là khi công ty thiếu năng lực sản xuất. Nhà quản trị phải tập
trung vào sản xuất những mặt hàng đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Các công ty
thường rút ngắn các loại sản phẩm khi nhu cầu căng thẳng và kéo dài các loại
sản phẩm của mình khi nhu cầu thấp.
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 17
Luận văn tốt nghiệp
Như vậy chính sách sản phẩm là một lĩnh vực hoạt động nhiều chiều và
phức tạp đòi hỏi phải thông qua những quyết định về những đặc điểm cụ thể
của danh mục sản phẩm, chủng loại sản phẩm, việc sử dụng tên nhãn hiệu,
bao bì, dịch vụ, cũng như phát triển sản phẩm mới. Các nhà quản trị doanh
nghiệp cần phải phối hợp các yếu tố của sản phẩm chặt chẽ và thống nhất với
nhau, tùy vào tình hình thực tế của từng thời điểm cụ thể để đưa ra được các
quyết định về sản phẩm một cách chính xác và hiệu quả cao.
2 Vai trò của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đối với
doanh nghiệp

1.2.1 Lý luận cơ bản về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp
1.2.1.1 Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện
tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ
khai thác các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tiền vốn ) và trình độ chi phí
các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất để đạt được các mục tiêu
kinh doanh.
1.2.1.2 Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh
Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất
lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có quan hệ
mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế. Để đạt được mục tiêu kinh doanh
các doanh nghiệp phải chú trọng và phát huy tối đa năng lực, hiệu năng
của các yếu tố sản xuất, tiết kiệm mọi chi phí. Tuy vậy, để hiểu rõ bản
chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh cần phân biệt hai khái niệm Hiệu
quả và Kết quả sản xuất kinh doanh.
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 18
Luận văn tốt nghiệp
Kết quả là phạm trù sản xuất phản ánh những cái thu được sau một
khoảng thời gian sản xuất kinh doanh được biểu hiện bằng đơn vị hiện vật
(tấn, tạ, Kg ) và đơn vị giá trị (đồng, triệu đồng ). Kết quả còn phản ánh
qui mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiệu quả là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất
hay phản ánh mặt chất lượng của quá trình kinh doanh. Việc xác định hiệu
quả kinh doanh cũng rất phức tạp bởi kết quả kinh doanh và hao phí nguồn
lực gắn với một thời kỳ cụ thể nào đó đều rất khó xác định một cách chính
xác.
Yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là phải đạt Lợi nhuận
tối đa với chi phí tối thiểu.

1.2.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp
Các nhân tố bên ngoài
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ giữa kết
quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó, nó phản ánh trình độ lợi
dụng các nguồn lực đầu vào để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Các đại
lượng kết quả đạt được và chi phí bỏ ra chịu tác động rất nhiều nhân tố khác
nhau với các mức độ khác nhau. Do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
kinh doanh của các doanh nghiệp. Các nhân tố bên ngoài bao gồm:
Môi trường khu vực và quốc tế: Môi trường kinh tế cũng như chính trị
trong khu vực và trên thế giới ổn định là cơ sở, tiền đề thuận lợi giúp các
doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đạt hiệu
quả cao.
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 19
Luận văn tốt nghiệp
Môi trường kinh tế quốc dân bao gồm môi trường chính trị, pháp luật
và môi trường kinh tế, môi trường văn hoá xã hội, điều kiện tự nhiên và cơ sở
hạ tầng, trình độ Khoa học kĩ thuật công nghệ. Đây là các nhân tố vô cùng
quan trọng tác động trực tiếp tới hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp
Môi trường ngành: Trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, trong
hầu hết các lĩnh vực kinh doanh, môi trường ngành là nhân tố góp phần ảnh
hưởng không nhỏ tới hiệu quả sản xuất kinh doanh, nó bao gồm các doanh
nghiệp trong ngành, khả năng gia nhập mới của các doanh nghiệp khác, các
sản phẩm thay thế, người cung ứng và khách hàng. Trong đó khách hàng là
vấn đề vô cùng quan trọng và được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm chú ý.
Các nhân tố bên trong
Bao gồm cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị, đặc tính về sản phẩm, công
tác tiêu thụ sản phẩm, công tác đảm bảo nguyên vật liệu, cơ sở vật chất kỹ

thuật, tình hình tài chính, lao động, tiền lương và môi trường làm việc.
Đặc tính về sản phẩm: Ngoài chất lượng của sản phẩm những đặc tính
mang hình thức bên ngoài của sản phẩm như mẫu mã, bao bì, nhãn hiệu là
những yếu tố cạnh tranh không thể thiếu được. Các đặc tính của sản phẩm là
nhân tố quan trọng quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, góp
phần lớn vào việc tạo uy tín, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm làm cơ sở
cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nên có ảnh hưởng rất lớn tới
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm: Tiêu thụ là khâu cuối cùng trong
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó quyết định tới các khâu
khác của quá trình sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 20
Luận văn tốt nghiệp
có tiêu thụ được hay không mới là điều quan trọng nhất. Tốc độ tiêu thụ sản
phẩm quyết định tốc độ sản xuất và nhịp độ cung ứng Nguyên vật liệu.
Công tác đảm bảo nguyên vật liệu: Nguyên vật liệu là một trong những
yếu tố đầu vào không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp sản xuất. Số
lượng, chủng loại, cơ cấu, chất lượng, giá cả của nguyên vật liệu và tính đồng
bộ của việc cung ứng nguyên vật liệu ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Cơ sở vật chất kĩ thuật: Cơ sở vật chất kĩ thuật là yếu tố vật chất hữu
hình quan trọng phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cơ sở vật chất dù chiếm tỷ trọng lớn hay nhỏ trong tổng tài sản của doanh
nghiệp thì nó vẫn có vai trò quan trọng thúc đẩy các hoạt động kinh doanh và
thể hiện bộ mặt kinh doanh của doanh nghiệp qua hệ thống nhà xưởng, kho
tàng, bến bãi
Tình hình tài chính: Tình hình tài chính của doanh nghiệp tác động rất
mạnh tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Khả năng tài chính của
doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của doanh nghiệp, tới khả năng

chủ động sản xuất kinh doanh, tới tốc độ tiêu thụ và khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp, ảnh hưởng tới mục tiêu tối thiểu hoá chi phí bằng cách chủ
động khai thác sử dụng tối ưu các nguồn lực đầu vào.
Lao động và tiền lương: lao động là một trong các yếu tố đầu vào quan
trọng, nó tham gia vào mọi hoạt động, mọi quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh
doanh. Bên canh đó tiền lương và thu nhập của người lao động cũng ảnh
hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp vì tiền lương là một
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 21
Luận văn tốt nghiệp
bộ phần cấu thành lên chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đồng
thời nó còn tác động tới tâm lý của người lao động trong doanh nghiệp.
Môi trường làm việc: Bao gồm môi trường văn hoá và môi trường
thông tin, hai yếu tố này cũng trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh trong doanh nghiệp.
1.2.1.4 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp
Đối với doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh không chỉ là thước đo chất
lượng phản ánh trình độ tổ chức quản lí kinh doanh mà còn là vấn đề sống
còn của doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng mở rộng,
muốn tồn tại và phát triển thì đòi hỏi doanh nghiệp kinh doanh phải có hiệu
quả. Hiệu quả kinh doanh càng cao, doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng
và phát triển hoạt động kinh doanh, đối với doanh nghiệp hiệu quả kinh tế
chính là lợi nhuận thu được trên cơ sở không ngừng mở rộng sản xuất, tăng
uy tín và thế lực của doanh nghiệp trên thương trường
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại là vấn đề phức tạp
có quan hệ đến toàn bộ các yếu tố của quá trình kinh doanh. Doanh nghiệp chỉ
có thể đạt được hiệu quả kinh doanh khi sử dụng các yếu tố cơ bản của quá
trình kinh doanh có hiệu quả.

Hiệu quả kinh doanh = Kết quả thu được – Chi phí bỏ ra
Để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp người
ta thường dùng các chỉ tiêu sau:
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 22
Luận văn tốt nghiệp
Chỉ tiêu Doanh thu một đồng chi phí trên cho biết với một đồng Chi phí bỏ ra,
doanh nghiệp tạo ra được mấy đồng Doanh thu.
Chỉ tiêu Doanh thu trên một đồng vốn kinh doanh phản ánh một đồng Vốn
kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng Doanh thu.
Chỉ tiêu doanh lợi theo chi phí cho biết bỏ ra một đồng Chi phí đem lại bao
nhiêu đồng Lợi nhuận.
Chỉ tiêu Doanh lợi theo vốn kinh doanh cho biết một đồng vốn kinh doanh
đem lại bao nhiêu đồng Lợi nhuận.
Chỉ tiêu Doanh lợi doanh thu thuần phản ánh một đồng Doanh thu thuần đem
lại bao nhiêu đồng Lợi nhuận.
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 23
Luận văn tốt nghiệp
1.2.2 Tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
trong doanh nghiệp
Như vậy trong cơ chế thị trường việc nâng cao hiệu quả kinh doanh vô
cùng quan trọng, nó được thể hiện thông qua:
• Thứ nhất: nâng cao hiệu quả kinh doanh là cơ sở cơ bản để đảm bảo
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được
xác định bởi sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường, mà hiệu quả kinh
doanh lại là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự tồn tại này, đồng thời mục tiêu của
doanh nghiệp là luôn tồn tại và phát triển một cách vững chắc. Do đó việc
nâng cao hiệu quả kinh doanh là một đòi hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả
các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay. Do yêu cầu của

sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp đòi hỏi nguồn thu nhập của
doanh nghiệp phải không ngừng tăng lên. Nhưng trong điều kiện nguồn vốn
và các yếu tố kỹ thuật cũng như các yếu tố khác của quá trình sản xuất chỉ
thay đổi trong khuôn khổ nhất định thì để tăng lợi nhuận đòi hỏi các doanh
nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh. Như vậy, hiệu quả kinh doanh là
điều kiện hết sức quan trọng trong việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp.
Một cách nhìn khác là sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi
sự tạo ra hàng hoá, của cải vật chất và các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của xã
hội, đồng thời tạo ra sự tích luỹ cho xã hội. Để thực hiện được như vậy thì
mỗi doanh nghiệp đều phải vươn lên để đảm bảo thu nhập đủ bù đắp chi phí
bỏ ra và có lãi trong quá trình hoạt động kinh doanh. Có như vậy mới đáp ứng
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 24
Luận văn tốt nghiệp
được nhu cầu tái sản xuất trong nền kinh tế. Và như vậy chúng ta buộc phải
nâng cao hiệu quả kinh doanh một cách liên tục trong mọi khâu của quá trình
hoạt động kinh doanh như là một yêu cầu tất yếu. Tuy nhiên, sự tồn tại mới
chỉ là yêu cầu mang tính chất giản đơn còn sự phát triển và mở rộng của
doanh nghiệp mới là yêu cầu quan trọng. Bởi vì sự tồn tại của doanh nghiệp
luôn luôn phải đi kèm với sự phát triển mở rộng của doanh nghiệp, đòi hỏi
phải có sự tích luỹ đảm bảo cho quá trình tái sản xuất mở rộng theo đúng qui
luật phát triển. Như vậy để phát triển và mở rộng doanh nghiệp mục tiêu lúc
này không còn là đủ bù đắp chi phí bỏ ra để phát triển quá trình tái sản xuất
giản đơn mà phải đảm bảo có tích luỹ đáp ứng nhu cầu tái sản xuất mở rộng,
phù hợp với qui luật khách quan và một lần nữa nâng cao hiệu quả kinh doanh
được nhấn mạnh.
• Thứ hai, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh
tranh và tiến bộ trong kinh doanh. Chính việc thúc đẩycạnh tranh yêu cầu các
doanh nghiệp phải tự tìm tòi, đầu tư tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh.

Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Trong khi thị trường
ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt
và khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh lúc này không còn là cạnh tranh về mặt hàng
mà cạnh tranh cả về chất lượng, giá cả và các yếu tố khác. Trong khi mục tiêu
chung của các doanh nghiệp đều là phát triển thì cạnh tranh là yếu tố làm các
doanh nghiệp mạnh lên nhưng ngược lại cũng có thể là các doanh nghiệp
không tồn tại được trên thị trường. Để đạt được mục tiêu là tồn tại và phát
triển mở rộng thì doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh trên thị
trường. Do đó doanh nghiệp phải có hàng hoá dịch vụ chất lượng tốt, giá cả
hợp lý. Mặt khác hiệu quả kinh doanh là đồng nghĩa với việc giảm giá thành
SV: Nguyễn Thị Nhung
Lớp: CQ47/32.01 Page 25

×