Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

luận văn quản trị kinh doanh Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần chứng khoán MB

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.67 KB, 89 trang )

Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính bậc cao của nền kinh tế
và nó ngày càng đóng góp vai trò vô cùng to lớn vào sự tăng trưởng nền kinh tế
của đất nước. Cùng với sự phát triển như vũ bão của thị trường chứng khoán thế
giới, thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đã được hình thành và ngày càng
phát triển. Đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã phát triển được hơn
mười năm với bao khó khăn thử thách từng bước đứng vững, đi lên và gặt hái
được nhiều thành tựu đáng kể. Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển của
thị trường chứng khoán Việt Nam, là sự lớn mạnh của các tổ chức tài chính
trung gian, đặc biệt là các công ty chứng khoán. Sự trưởng thành của các công ty
chứng khoán Việt Nam không chỉ thể hiện về sự tăng trưởng số lượng và quy
mô vốn mà còn thể hiện rõ nét qua phương thức và chất lượng cung cấp dịch vụ
cho khách hàng, mô hình hoạt động,… Các công ty chứng khoán hoạt động với
mục tiêu mang lại hiệu quả hoạt động kinh doanh chứng khoán cao, nhằm tối đa
hóa lợi nhuận và giúp cho thị trường chứng khoán hoạt động công bằng, minh
bạch và hiệu quả.
Qua quá trình thực tập và tìm hiểu tại công ty chứng khoán MB, với mong
muốn đóng góp ý kiến giúp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty
để công ty có thế đứng vững và phát triển trong điều kiện kinh tế hiện nay, em
đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh của công ty cổ phần chứng khoán MB”.
Đề tài được nghiên cứu với ba mục tiêu cơ bản:
Thứ nhất, hệ thống lý luận chung về công ty chứng khoán và hiệu quả
hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán.
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
Thứ hai, khái quát quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần
chứng khoán MB. Phân tích và đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động của công


ty cổ phần chứng khoán MB.
Thứ ba, đưa ra một số giải pháp nhận thấy cần thiết nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh doanh chứng khoán tại công ty cổ phần chứng khoán MB và
những kiến nghị đối với các cơ quan quản lý liên quan.
Phạm vi nghiên cứu đề tài là những kiến thức cơ bản về thị trường chứng
khoán, hoạt động của công ty chứng khoán mà cụ thể là hoạt động kinh doanh
của MBS. Đề tài được nghiên cứu dựa trên các phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh – tổng
hợp, kết hợp quan sát thực tiễn thu thập số liệu,…
Ngoài lời mở đầu, phụ lục và kết luận, bài luận văn được kết cấu bao gồm
3 phần tương ứng với 3 chương của đề tài:
Chương 1: Tổng quan về công ty chứng khoán và hiệu quả hoạt động kinh
doanh của công ty chứng khoán.
Chương 2: Thực trạng hoạt động và hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty
cổ phần chứng khoán MB.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh chứng khoán
của công ty cổ phần chứng khoán MB.
Để hoàn thành đề tài này, em xin chân thành cảm ơn giảng viên Thạc sỹ
Lê Thị Hằng Ngân và các thầy cô giáo trong bộ môn đã hướng dẫn em tận tình,
cùng toàn thể các anh chị trong công ty cổ phần chứng khoán MB đã giúp em
hoàn thành bài luận văn của mình. Do thời gian còn hạn chế và trong khuôn khổ
phạm vi luận văn, đề tài của em không tránh khỏi có những thiếu sót. Em rất
mong nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN

1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN.
1.1.1 Khái niệm về công ty chứng khoán.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán, trao đổi
các loại chứng khoán. Để hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, một
yếu tố không thể thiếu được là các chủ thể tham gia trên thị trường. Các chủ thể
này bao gồm cả công chúng đầu tư, các doanh nghiệp, các tổ chức và chính
quyền. Mục tiêu của việc hình thành thị trường chứng khoán là thu hút vốn đầu
tư trung và dài hạn cho việc phát triển kinh tế và tạo ra tính thanh khoản cho các
loại chứng khoán. Do vậy, để thúc đẩy thị trường chứng khoán hoạt động một
cách có trật tự, công bằng và hiệu quả cần phải có sự ra đời của các công ty
chứng khoán.
“Công ty chứng khoán là tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực chứng
khoán thông qua việc thực hiện một hoặc vài dịch vụ chứng khoán với mục
đích tìm kiếm lợi nhuận.”
Theo Luật chứng khoán 2006 và NĐ số 14/2007/NĐ-CP quy định chi tiết
thi hành một số điều luật của chứng khoán thì: Công ty chứng khoán được tổ
chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy
định của Luật Doanh Nghiệp và được thực hiện một hoặc một số hoặc toàn bộ
các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán sau (điều 60/luật chứng khoán 2006):
- Môi giới chứng khoán
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
- Tự doanh chứng khoán
- Bảo lãnh phát hành chứng khoán
- Tư vấn đầu tư chứng khoán
Công ty chứng khoán chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát
hành chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán.
Ngoài các nghiệp vụ kinh doanh quy định trên, công ty chứng khoán được
cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính và các dịch vụ tài chính khác.

Không phải CTCK nào cũng được thực hiện tất cả các nghiệp vụ trên. Để
có thể được thực hiện mỗi nghiệp vụ, CTCK phải đảm bảo được một số vốn
nhất định và phải được phép của cơ quan có thẩm quyền.
1.1.2. Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán hoạt động theo hai nhóm nguyên tắc cơ bản: nhóm
nguyên tắc tài chính và nhóm nguyên tắc đạo đức.
 Nhóm nguyên tắc tài chính.
- Có năng lực tài chính (có đủ vốn theo quy định của pháp luật, cơ
cấu vốn hợp lý), đảm bảo nguồn tài chính trong cam kết với khách hàng đủ năng
lực tài chính để giải quyết những rủi ro có thể phát sinh trong quá trình kinh
doanh.
- Cơ cấu tài sản hợp lý, có khả năng thanh khoản và có chất lượng tốt
để thực hiện kinh doanh với hiệu quả cao.
- Thực hiện chế độ tài chính theo quy định của nhà nước.
- Phải tách bạch tài sản của mình và tài sản của khách hàng, không
được dùng vốn, tài sản của khách hàng để làm nguồn tài chính phục vụ kinh
doanh của công ty.
 Nhóm nguyên tắc đạo đức.
- Công ty chứng khoán phải hoạt động theo đúng theo quy định của
pháp luật, chấp hành nghiêm các quy chế, tiêu chuẩn hành nghề liên quan.
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
- Kinh doanh có kỹ năng, tận tụy, có tinh thần trách nhiệm cao.
- Giao dịch trung thực công bằng,vì lợi ích khách hàng, đặt lợi ích
khách hàng lên trên lợi ích công ty. Trong trường hợp có sự xung đột giữa lợi
ích của công ty với lợi ích của khách hàng phải ưu tiên lợi ích của khách hàng.
- Cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin cần thiết cho khách hàng,
bảo vệ tài sản của khách hàng, bí mật các thông tin về tài khoản của khách hàng
trừ trường hợp khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc theo yêu cầu của cơ quan

quản lý nhà nước.
- Không được sử dụng các lợi thế của mình làm tổn hại đến khách
hàng và ảnh hưởng xấu đến hoạt động chung của thị trường, không được thực
hiện các hoạt động có thể làm khách hàng và công chúng đầu tư hiểu nhầm về
giá cả, giá trị và bản chất của chứng khoán.
- Không được làm các công việc có cam kết nhận hay trả những
khoản thù lao ngoài khoản thu nhập thông thường.
- Nghiêm cấm thực hiện các giao dịch nội gián, các công ty chứng
khoán không được sử dụng các thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán cho
chính mình, gây thiệt hại cho khách hàng.
- Ở nhiều nước, CTCK phải đóng góp quỹ bảo vệ nhà đầu tư chứng
khoán để bảo vệ lợi ích khách hàng trong trường hợp CTCK mất khả năng thanh
toán.
1.1.3 Mô hình hoạt động của công ty chứng khoán.
Hoạt động của các CTCK rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với các doanh
nghiệp sản xuất hay thương mại dịch vụ thông thường vì CTCK là một loại hình
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
định chế tài chính đặc biệt nên vấn đề xác định mô hình tổ chức kinh doanh của
nó cũng có nhiều điểm khác nhau ở các nước. Hiện nay trên thế giới tồn tại phổ
biến hai mô hình tổ chức CTCK : Mô hình công ty chứng khoán đa năng và mô
hình công ty chứng khoán chuyên doanh.
1.1.3.1 Mô hình công ty chứng khoán đa năng.
Mô hình công ty đa năng, theo mô hình này CTCK là một bộ phận cấu
thành của ngân hàng thương mại, được tổ chức dưới hình thức một tổ hợp dịch
vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán, kinh doanh tiền tệ và
các dịch vụ tài chính. Hay nói cách khác, ngân hàng thương mại kinh doanh trên
cả hai lĩnh vực là tiền tệ và chứng khoán. Mô hình này được biểu hiện dưới 2
hình thức sau:

Mô hình công ty chứng khoán đa năng một phần: theo mô hình này, các
ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải thành lập
công ty con, hạch toán độc lập và hoạt động tách rời với hoạt động kinh doanh
tiền tệ. Mô hình này được áp dụng ở một số nước như Anh, Canada, Australia,

Mô hình công ty chứng khoán đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng được
kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ. Mô
hình này không có sự tách bạch nào giữa hoạt động Ngân hàng và kinh doanh
chứng khoán.
* Ưu điểm của mô hình này là:
- NHTM kinh doanh nhiều lĩnh vực nên có thể giảm bớt được rủi ro hoạt
động kinh doanh chung bằng việc đa dạng hóa danh mục đầu tư, làm tăng khả
năng chịu đựng được các biến động lớn trên thị trường tài chính.
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
- NHTM là tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ có lịch sử
lâu đời, có thế mạnh về tài chính và chuyên môn trong lĩnh vực tài chính. Do đó
cho phép các NHTM tham gia kinh doanh chứng khoán sẽ tận dụng được thế
mạnh của ngân hàng, tạo động lực cho sự phát triển của thị trường chứng khoán.
* Hạn chế:
- Do có thế mạnh về tài chính, chuyên môn, nên NHTM tham gia kinh
doanh chứng khoán có thể gây lũng đoạn thị trường, trong trường hợp quản lý
nhà nước về lĩnh vực chứng khoán và quản trị điều hành thị trường còn yếu.
- Do tham gia nhiều lĩnh vực sẽ làm giảm tính chuyên môn hóa, khả năng
thích ứng và linh hoạt kém.
- Trong trường hợp thị trường chứng khoán có nhiều rủi ro, ngân hàng có
xu hướng bảo thủ rút khỏi thị trường chứng khoán, tập trung kinh doanh tiền tệ.
1.1.3.2 Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh.
Theo mô hình này, hoạt động chuyên doanh chứng khoán sẽ do các công

ty độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân
hàng, tổ chức tài chính, công ty bảo hiểm không được tham gia kinh doanh
chứng khoán. Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước, trong đó đáng chú ý là
Mỹ, Nhật, Hàn Quốc,
Ưu điểm của mô hình này là khắc phục được hạn chế của mô hình đa
năng, giảm rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các công ty chứng
khoán kinh doanh chuyên môn hóa, thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng
khoán.
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
Ngày nay với sự phát triển của thị trường chứng khoán, để tận dụng thế
mạnh của lĩnh vực tiền tệ và lĩnh vực chứng khoán, các quốc gia có xu hướng
nới lỏng ngăn cách giữa hoạt động tiền tệ và chứng khoán, bằng cách cho phép
hình thành công ty đa năng một phần – các NHTM thành lập công ty con để
chuyên kinh doanh chứng khoán.
1.1.4. Vai trò của công ty chứng khoán.
Công ty chứng khoán là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Với mỗi chủ thể
khác nhau trên thị trường chứng khoán thì vai trò của CTCK là khác nhau:
1.1.4.1 Đối với tổ chức phát hành.
Các tổ chức phát hành khi tham gia vào thị trường chứng khoán đều với
mục đích là huy động vốn từ việc phát hành chứng khoán. Mặc dù, các ngân
hàng, các quỹ đầu tư… đều là các trung gian tài chính với vai trò huy động vốn
nhưng CTCK với các nghiệp vụ của mình như môi giới, bảo lãnh phát hành
chứng khoán đã tạo ra chiếc cầu nối, đồng thời là kênh dẫn cho vốn chảy từ nơi
thừa vốn của nền kinh tế đến nơi thiếu vốn mà độ an toàn cao hơn. Công ty
chứng khoán còn giúp bình ổn giá của những chứng khoán mới phát hành qua
việc mua vào hay bán ra chứng khoán.
1.1.4.2 Đối với nhà đầu tư trên thị trường.

Các công ty chứng khoán đảm nhận chức năng chuyển đổi chứng khoán
có giá thành tiền mặt và ngược lại trong môi trường ổn định, giúp cho nhà đầu
tư ít chịu thiệt hại nhất khi tiến hành đầu tư. CTCK với đầy đủ các dịch vụ tiện
ích không chỉ nhận lệnh mà còn tư vấn, nghiên cứu, phân tích thị trường rồi
cung cấp thông tin để khách hàng biết mà có quyết định đúng trong đầu tư,đánh
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
giá chính xác giá trị của các khoản đầu tư; giảm thiểu rủi ro, nâng cao lợi nhuận;
làm giảm chi phí, thời gian giao dịch từ đó nâng cao hiệu quả đầu tư.
Với nghiệp vụ lưu ký chứng khoán của mình, CTCK đã giúp đỡ nhà đầu
tư rất nhiều trong việc nắm giữ và bảo quản chứng khoán. Nhà đầu tư đã giảm
thiểu được những khả năng như bị mất cắp, mối mọt, rách nát hay cháy xém,…
Chứng khoán được cất giữ an toàn, tiện lợi cho nhà đầu tư. CTCK cũng cung
cấp cho thị trường cơ chế xác lập giá thông qua hệ thống khớp giá hoặc khớp
lệnh giúp nhà đầu tư hoàn toàn có thể chủ động đặt giá một cách khách quan.
1.1.4.3 Đối với thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán hoạt động theo nguyên tắc trung gian, người mua
và người bán không được gặp nhau trực tiếp để trao đổi về giá cả, hàng hóa mà
phải tiến hành giao dịch thông qua CTCK. Do đó, giá cả chứng khoán là do thị
trường quyết định. CTCK là thành viên của thị trường cũng sẽ góp phần tạo lập
giá cả. Đôi khi để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, cho các nhà đầu tư hay cho
chính bản thân mình, CTCK dành ra một phần vốn của mình theo tỷ lệ nhất định
để tiến hành giao dịch với mục đích là để bình ổn thị trường như khi giá chứng
khoán giảm quá nhiều có thể gây ảnh hưởng xấu tới thị trường thì công ty mua
vào và bán chứng khoán ra khi giá chứng khoán lên quá cao.
Ngoài ra, CTCK còn có vai trò làm tăng tính thanh khoản cho các tài sản
tài chính. Dựa vào hoạt động bảo lãnh phát hành trên thị trường sơ cấp, CTCK
đã đưa vào thị trường lượng chứng khoán lớn và nó sẽ được giao dịch trên thị
trường thứ cấp, chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại nhờ hoạt

động mua đi bán lại của nhà đầu tư, tổ chức. Điều này làm giảm rủi ro, tạo tâm
lý yên tâm cho nhà đầu tư.
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
1.1.4.4 Đối với các cơ quan quản lý thị trường.
Công ty chứng khoán có vai trò cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường
chứng khoán cho cơ quan quản lý thị trường để thực hiện mục tiêu quản lý. Việc
cung cấp thông tin này là theo quy định của pháp luật, vừa là nguyên tắc nghề
nghiệp của công ty chứng khoán vì công ty chứng khoán cần hoạt động minh
bạch. Dựa vào thông tin do CTCK cung cấp, các cơ quan quản lý thị trường có
thể kiểm soát, chống hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường. Các
công ty chứng khoán giúp nhà nước thực thi tính các chính sách kinh tế vĩ mô.
Thông qua ban hành các quy đinh, luật điều chỉnh hoạt động của các CTCK,
Chính phủ có thể kiểm soát các hoạt động của thị trường.
1.2 HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN.
1.2.1 Các hoạt động kinh doanh chủ yếu trong công ty chứng khoán.
1.2.1.1 Môi giới chứng khoán.
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian mua bán chứng khoán cho
khách hàng để hưởng hoa hồng, làm dịch vụ nhận các lệnh mua, lệnh bán chứng
khoán của khách hàng, chuyển các lệnh mua bán đó vào Sở giao dịch chứng
khoán và hưởng hoa hồng môi giới. Theo đó, các công ty chứng khoán làm đại
diện - được ủy quyền thay mặt khách hàng mua bán một hoặc một số chứng
khoán, mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của
việc giao dịch đó.
1.2.1.2 Tự doanh chứng khoán.
Theo luật chứng khoán 2006 Việt Nam về chứng khoán và thị trường
chứng khoán thì: Tự doanh là việc CTCK mua và bán chứng khoán cho chính
mình. Hoạt động tự doanh là hoạt động mua đi bán lại chứng khoán, nói cách
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01

Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
khác là hoạt động kinh doanh nhằm thu chênh lệch giá (mua thấp bán cao) để
thu chênh lệch giá.
Hoạt động tự doanh chứng khoán có thể được thực hiện trên thị trường
giao dịch tập trung hoặc trên thị trường OTC. Tại một số nước, hoạt động tự
doanh của các CTCK còn được thưc hiện thông qua hoạt động tạo lập thị
trường. Trong hoạt động này, CTCK đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nắm
giữ một số lượng chứng khoán nhất định và thực hiện mua bán với khách hàng
nhằm hưởng phí giao dịch và chênh lệch giá.
+ Mục đích của hoạt động tự doanh chứng khoán:
- Dự trữ đảm bảo khả năng thanh toán: Các CTCK, ngân hàng đều là các
tổ chức kinh doanh trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Do đó, phạm vi kinh
doanh bị phụ thuộc vào nguồn vốn và mức dự trữ đảm bảo khả năng thanh toán.
Chứng khoán là một công cụ tài chính có chức năng thanh khoản cao và khả
năng tạo lợi nhuận lớn.
- Kinh doanh đầu tư: Việc đầu tư chứng khoán đem lại cho CTCK các
khoản lợi nhuận từ lợi tức chứng khoán và chênh lệch giá. Ngược lại, khi thị giá
bị sụt giảm thì các khoản lãi khó có thể bù đắp được phần mất giá. Vì vậy, các
công ty rất thận trọng trong việc hoạch định chiến lược đầu tư và đầu cơ chứng
khoán.
- Kinh doanh hùn vốn: Bằng việc mua cổ phiếu, trái phiếu chuyển đổi hay
kèm quyền chuyển đổi, các CTCK đầu tư vào các CTCP sẽ là các cổ đông.
- Can thiệp bảo vệ giá: Khi giá chứng khoán bị biến động bất lợi do tình
hình hoạt động chung của thị trường, các CTCK thực hiện các giao dịch mua
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
bán nhằm ổn định lại thị trường theo yêu cầu can thiệp của cơ quan quản lý và
tự bảo vệ mình khi thực hiện các đợt phát hành hay bảo lãnh phát hành.

- Thu lợi: Về bản chất, mục đích hoạt động KDCK của các CTCK là
nhằm thu lợi tức và chênh lệch giá mua vào và bán ra. Với lợi thế về thông tin
và sở trường phân tích, ngoài mục đích tích lũy chứng khoán phục vụ khách
hàng, hoạt động đầu tư chứng khoán của CTCK thường là đầu cơ chờ chênh
lệch giá hoặc nhằm thực hiện các giao dịch arbit khi có chênh lệch giá tại các thị
trường khu vực.
1.2.1.3 Bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh tham gia một
cách trực tiếp hay gián tiếp vào quá trình phát hành chứng khoán nhằm tư vấn
tài chính cho nhà phát hành, giúp nhà phát hành thực hiện các thủ tục trước khi
chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và bình ổn giá
chứng khoán trong thời gian đầu sau đợt phát hành chứng khoán.
Tổ chức bảo lãnh chịu trách nhiệm mua và chào bán chứng khoán của tổ
chức phát hành nhằm thực hiện việc phân phối chứng khoán để hưởng phí bảo
lãnh phát hành hay một tỷ lệ hoa hồng trên số tiền thu được. Hoạt động này
chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của các công ty chứng
khoán. Phí bảo lãnh là mức chênh lệch giữa giá bán chứng khoán cho người đâu
tư và số tiền tổ chức phát hành nhận được.
Việc bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các
phương thức bảo lãnh phát hành chứng khoán sau:
- Bảo lãnh theo phương thức cam kết chắc chắn:
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
Tổ chức bảo lãnh sẽ nhận mua toàn bộ số chứng khoán mới phát hành của
tổ chức phát hành cho dù có phân phối được hết chứng khoán hay không theo
giá thỏa thuận (mức giá chiết khấu so với mức giá chào bán ra công chúng
POP), và phân phối lại cho công chúng tại mức giá POP.
- Bảo lãnh theo phương thức dự phòng:
Đây là phương thức bảo lãnh mà tổ chức bảo lãnh cam kết nếu chứng

khoán không được bán hết, tổ chức bảo lãnh sẽ mua số chứng khoán còn lại của
tổ chức phát hành, sau đó bán ra công chúng.
Phương thức này thường được áp dụng đối với các CTCP lớn, mang tính
đại chúng khi muốn phát hành bổ sung cổ phiếu mới để tăng vốn.
- Bảo lãnh theo phương thức cố gắng cao nhất:
Đây là phương thức bảo lãnh mà tổ chức bảo lãnh đóng vai trò như một
đại lý phát hành và cam kết sẽ cố gắng để bán được nhiều nhất chứng khoán ra
thị trường theo mức giá đã xác định qua quá trình tư vấn. Số chứng khoán không
bán hết sẽ được trả lại cho tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh nhận được hoa
hồng bảo lãnh trên số chứng khoán bán được hoặc trên số vốn huy động được.
- Bảo lãnh theo phương thức tất cả hoặc không:
Theo phương thức bảo lãnh này tổ chức phát hành yêu cầu một mức bán
chứng khoán nhất định, nếu tổ chức bảo lãnh không bán được trên mức này,
toàn bộ đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ, tiền đặt mua chứng khoán được trả cho các
nhà đầu tư và tổ chức bảo lãnh không nhận được bất kỳ một khoản hoa hồng
nào.
- Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu hoặc tối đa:
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
Đây là phương thức kết hợp giữa phương thức cố gắng cao nhất và tất cả
hoặc không. Theo phương thức này, nếu bán dưới mức tối thiểu mà tổ chức phát
hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh (mức sàn) đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ, nếu bán
vượt trên mức tối thiểu tổ chức bảo lãnh được phép bán đến mức tối đa quy định
(mức trần).
1.2.1.4 Tư vấn đầu tư chứng khoán.
Tư vấn đầu tư chứng khoán là các hoạt động tư vấn liên quan đến chứng
khoán hoặc công bố và phát hành các báo cáo phân tích đưa ra lời khuyên có
liên quan đến chứng khoán hoặc thực hiện một số công việc có tính chất dịch vụ
cho khách hàng.

Hoạt động tư vấn đòi hỏi nhiều kiến thức, kinh nghiệm và kĩ năng chuyên
môn mà không đòi hỏi vốn lớn. Đây là hoạt động nghiệp vụ có sự quản lý chặt
chẽ và có yêu cầu cao khi hành nghề vì tính chất đặc thù của kinh doanh chứng
khoán. Những báo cáo phân tích của nhà tư vấn đầu tư chứng khoán có tác động
tâm lý rất lớn đến người được tư vấn và có thể làm cho người được tư vấn
hưởng lại hay bị thiệt hại. Nhà tư vấn phải luôn là những người thận trọng khi
đưa ra những lời bình luận về giá trị của các loại chứng khoán. Nếu nhà đầu tư
thu được lợi, kiếm được tiền từ lời tư vấn này thì họ sẽ vui mừng nhưng nếu họ
bị thiệt hại thì họ sẽ tìm kiếm những nhà tư vấn để phàn nàn, thậm chí bắt bồi
thường.
1.2.2 Các hoạt động kinh doanh hỗ trợ trong công ty chứng
khoán.
1.2.2.1 Hoạt động lưu ký chứng khoán.
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
Lưu ký chứng khoán là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách
hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán đã
lưu ký như: quyền nhận cổ tức, trái tức, cổ phiếu thưởng, Đây là một hoạt
động hết sức quan trọng và cần thiết trên TTCK tập trung. Lưu ký chứng khoán
đảm bảo quá trình thanh toán trên SGDCK được nhanh chóng. Các chứng khoán
đều được lưu ký tại trung tâm lưu ký dưới hình thức ghi sổ hoặc bằng chứng chỉ
vật chất và mọi giao dịch đều được thanh toán bù trừ qua trung tâm lưu ký.
Công ty chứng khoán khi cung cấp dịch vụ này sẽ thu được một khoản phí
lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán.
1.2.2.2 Quản lý thu nhập của khách hàng.
Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ theo dõi
tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi
trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng. Thông thường
các công ty chứng khoán không trực tiếp quản lý, lưu ký một số loại chứng

khoán tại công ty mà lưu ký tại trung tâm lưu ký chứng khoán.
1.2.2.3 Hoạt động tín dụng.
Đây là một hoạt động thông dụng tại các TTCK phát triển nhưng ở các
TTCK mới nổi thì hoạt động này bị hạn chế. Thậm chí ở một số nước hoạt động
này còn bị cấm. Nghiệp vụ tín dụng của CTCK có thể hiểu là CTCK cho vay
chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống hoặc cho khách hàng
vay tiền để họ thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ, cầm cố chứng khoán, ứng trước
tiền bán.
Hoạt động này mang lại nguồn thu nhập cho CTCK, làm đa dạng hơn các
sản phẩm dịch vụ cung ứng giúp TTCK phát triển.
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của CTCK cho khách hàng của
mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp
cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do CTCK
ứng trước tiền thanh toán. Đến kỳ hạn thoả thuận khách hàng phải hoàn trả đủ cả
gốc và lãi cho CTCK. Trường hợp khách hàng không trả được nợ thì CTCK có
quyền phát mãi số chứng khoán đã mua để thu hồi khoản vay.
Rủi ro đối với CTCK là các chứng khoán được thế chấp có thể bị giảm tới
mức giá trị của chúng thấp hơn giá trị khoản vay ký quỹ mà khách hàng không
có khả năng thanh toán phần tín dụng phải trả để đảm bảo khoản tín dụng lớn
hơn hoặc bằng 50% tổng giá trị thị trường của chứng khoán. Vì thế khi cho vay
ký quỹ chứng khoán CTCK phải có những nguyên tắc riêng để đảm bảo thu hồi
vốn, tránh tình trạng tập trung vào một khách hàng hay một loại chứng khoán
nhất định.
1.3 HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN.
1.3.1 Khái niệm hiệu quả hoạt động kinh doanh của CTCK.
Hiệu quả hoạt động nói chung được hiểu là các lợi ích kinh tế, xã hội đạt

được từ quá trình kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh bao gồm hiệu quả kinh tế và
hiệu quả xã hội, trong đó hiệu quả kinh tế đóng vai trò quyết định. Hiệu quả hoạt
động kinh doanh của CTCK gắn với mục tiêu kinh tế xã hội mà trước hết là mục
tiêu công ty, mục tiêu ngành và toàn bộ nền kinh tế.
Công ty chứng khoán cũng như bất cứ một doanh nghiệp nào khác đều
phải lấy an toàn và hiệu quả kinh tế làm tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá
hoạt động kinh doanh của mình. Do vậy, mọi công ty chứng khoán đều mong
muốn hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao. Hiệu quả kinh tế hoạt động
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
kinh doanh của CTCK cũng là sự so sánh giữa doanh thu thu được và chi phí bỏ
ra để đạt được doanh thu đó. Hiệu quả kinh tế của CTCK có thể xem xét dưới
dạng số tuyệt đối hoặc số tương đối. Sự khác biệt giữa CTCK đối với các loại
hình định chế tài chính khác xuất phát từ các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán
do CTCK thực hiện. Các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán chủ yếu của CTCK
gồm có: môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tự doanh chứng
khoán, bảo lãnh và phát hành chứng khoán. Do đó, hiệu quả kinh tế hoạt động
kinh doanh của CTCK phải là chỉ tiêu tổng hợp của các hoạt động kinh doanh
chủ yếu trên.
Xét về phương diện mục tiêu các chủ sở hữu công ty, một CTCK được coi
là hoạt động hiệu quả khi công ty thực hiện được tối đa hóa giá trị tài sản của
chủ sở hữu. Điều này giúp làm giảm các chi phí hoạt động và tăng năng suất lao
động trên cơ sở tự động hóa và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ nhân viên.
Xét về phương diện quyền lợi của khách hàng, hiệu quả hoạt động của
CTCK là công ty giúp các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách có
hiệu quả thông qua các hoạt động tư vấn, môi giới,… giúp tiết kiệm thời gian và
chi phí cho khách hàng, giúp khách hàng đạt được kết quả kinh doanh như mong
muốn.
Còn xét về phương diện quan điểm của các nhà quản lý thị trường, CTCK

được coi là hoạt động hiệu quả khi công ty cung cấp thông tin một cách đầy đủ,
chính xác về tình hình thị trường cho các cơ quan quản lý, thực hiện các nghiệp
vụ kinh doanh chứng khoán theo đúng quy định của pháp luật.
Qua những khía cạnh được xem xét như trên, chúng ta có thể hiểu: “Hiệu
quả hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán phản ánh mặt chất lượng
của các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
được mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đó
chính là mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận”.
1.3.2 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ở
công ty chúng khoán trong điều kiện hiện nay.
Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường cạnh tranh hiện nay đòi hỏi
các doanh nghiệp phải xác định cho mình một phương thức hoạt động riêng, xây
dựng các chiến lược, các phương án kinh doanh một cách phù hợp và có hiệu
quả. Trong đó việc nâng cao hiệu quả kinh doanh vô cùng quan trọng, nó được
thể hiện thông qua:
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả kinh doanh là cơ sở cơ bản để đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp. Do yêu cầu tồn tại và phát triển của mỗi
doanh nghiệp đòi hỏi nguồn thu nhập của doanh nghiệp phải không ngừng
tăng lên. Nhưng trong điều kiện hiện nay, khi mà nguồn vốn và các yếu tố kỹ
thuật cũng như các yếu tố khác của quá trình sản xuất chỉ thay đổi trong
khuôn khổ nhất định thì để tăng lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp buộc phải
nâng cao hiệu quả kinh doanh có nghĩa là đạt kết quả cao nhất với chi phí thấp
nhất. Vì vậy hiệu quả kinh doanh chính là điều kiện hết sức quan trọng để đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, sự tồn tại mới chỉ là
yêu cầu mang tính chất giản đơn còn sự phát triển và mở rộng của doanh nghiệp
mới là yêu cầu quan trọng. Sự tồn tại của doanh nghiệp luôn luôn phải đi kèm
với sự phát triển mở rộng của doanh nghiệp, đòi hỏi phải có sự tích luỹ đảm bảo

cho quá trình tái sản xuất mở rộng theo đúng quy luật phát triển.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh và
tiến bộ trong kinh doanh. Trong khi thị trường ngày càng phát triển thì cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
lúc này không còn là cạnh tranh về mặt hàng mà cạnh tranh cả về chất lượng, giá
cả và các yếu tố khác. Để đạt được mục tiêu là tồn tại và phát triển mở rộng thì
doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh trên thị trường. Do đó doanh
nghiệp phải có hàng hoá dịch vụ chất lượng tốt, giá cả hợp lý. Mặt khác hiệu quả
kinh doanh là đồng nghĩa với việc giảm giá thành tăng khối lượng hàng hoá bán,
chất lượng không ngừng được cải thiện nâng cao
Thứ ba, mục tiêu bao trùm, lâu dài của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi
nhuận. Để thực hiện mục tiêu này, doanh nghiệp phải tiến hành mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm cung cấp cho thị trường. Muốn vậy,
doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn lực sản xuất xã hội nhất định. Doanh
nghiệp càng tiết kiệm sử dụng các nguồn lực này bao nhiêu sẽ càng có cơ hội để
thu được nhiều lợi nhuận bấy nhiêu. Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh
tính tương đối của việc sử dụng tiết kiệm các nguồn lực xã hội nên là điều kiện
để thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh
càng cao càng phản ánh doanh nghiệp đã sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản
xuất. Vì vậy nâng cao hiệu quả kinh doanh là đòi hỏi khách quan để doanh
nghiệp thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Chính sự
nâng cao hiệu quả kinh doanh là con đường nâng cao sức cạnh tranh và khả năng
tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp.
Thứ tư, hiệu quả kinh doanh là công cụ hữu hiệu để các nhà quản trị doanh
nghiệp thực hiện nhiệm vụ quản trị kinh doanh của mình thông qua đó sẽ thể
hiện trình độ sử dụng lao động và quản lý doanh nghiệp: Khi tiến hành bất kỳ
một hoạt động kinh doanh nào thì các doanh nghiệp đều phải huy động và sử

dụng các nguồn lực mà doanh nghiệp có khả năng có thể tạo ra kết quả phù hợp
với mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra. Để thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận
cũng như các mục tiêu khác, các nhà doanh nghiệp phải sử dụng nhiều phương
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
pháp, nhiều công cụ khác nhau. Hiệu quả kinh doanh là một trong các công cụ
hữu hiệu nhất để các nhà quản trị thực hiện chức năng quản trị của mình. Thông
qua việc tính toán hiệu quả kinh doanh không những cho phép các nhà quản trị
kiểm tra đánh giá tính hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, mà còn cho phép các nhà quản trị phân tích tìm ra các nhân tố ảnh hưởng
đến các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để từ đó đưa ra được
các biện pháp điều chỉnh thích hợp trên cả hai phương diện giảm chi phí tăng kết
quả nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Do vậy xét trên phương diện lý luận và thực tiễn thì phạm trù hiệu quả
kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng và không thể thiếu được trong việc kiểm
tra đánh giá và phân tích nhằm đưa ra các giải pháp tối ưu nhất, lựa chọn được
các phương pháp hợp lý nhất để thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp đã đề
ra.
Thứ năm, nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ có sự tác động trực tiếp và tạo
điều kiên nâng cao đời sống cho người lao động. Nếu như doanh nghiệp làm ăn
có hiệu quả cao, tạo công ăn việc làm, cuộc sống được nâng lên nhờ tăng lương,
các khoản thưởng, chế độ xã hội, ngược lại nếu như các doanh nghiệp làm ăn
không có hiệu quả sẽ có nhiều người lao động bị thất nghiệp, lương thấp ảnh
hưởng tới đời sống của họ.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra kết luận: Nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh chính là cơ sở để doanh nghiệp phát triển và mở rộng thị trường,
qua đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ, giảm được các chi phí về nhân lực và tài lực. Nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh đồng nghĩa với phát triển doanh nghiệp theo

chiều sâu, nâng cao đời sống người lao động, góp phần vào sự phát triển của
xã hội và đất nước .
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
1.3.3 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của công
ty chứng khoán.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng
các nguồn lực của doanh nghiệp nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Để đánh
giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chúng ta sử dụng các chỉ
tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính.
1.3.3.1 Chỉ tiêu định lượng.
Bao gồm các nhóm chỉ tiêu chủ yếu sau:
1.3.3.1.1 Nhóm chỉ tiêu đánh giá về tính thanh khoản.
(1) Chỉ tiêu mức vốn khả dụng
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng trả nợ của công ty và khả năng chống đỡ
các rủi ro mà công ty có thể gặp phải trong quá trình hoạt động kinh doanh. Do
tập quán, quan niệm và chế độ tài chính khác nhau của từng nước khác nhau nên
việc tính toán cụ thể về mức vốn khả dụng của các công ty ở các quốc gia khác
nhau cũng khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản đều thống nhất quan điểm: “Vốn
khả dụng là các tài sản có độ rủi ro thấp, dễ dàng chuyển thành tiền mặt để đáp
ứng nhanh nhu cầu thanh toán của công ty”. Có thể rút ra công thức chung mang
tính khái quát để tính mức vốn khả dụng cho công ty chứng khoán như sau:
Vốn khả
dụng
=
Tổng giá trị
tài sản
-
Các khoản tài

sản giảm trừ
+
Các khoản
gia tăng
Trong đó:
- Tổng giá trị tài sản: là toàn bộ giá trị các tài sản hiện có thuộc sở hữu và
thuộc trách nhiệm quản lý của công ty chứng khoán tại thời điểm tính toán.
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
- Các khoản tài sản giảm trừ: là những khoản tài sản mà công ty chứng
khoán khó huy động để chuyển thành tiền mặt trong một thời gian ngắn để đáp
ứng các nhu cầu thanh khoản.
- Các khoản gia tăng: là những khoản không nằm trong bảng cân đối kế
toán của công ty chứng khoán nhưng công ty chứng khoán có thể huy động được
để chuyển ra tiền mặt đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong những trường hợp cần
thiết.
Để đánh giá khả năng thanh toán tổng quát của công ty chứng khoán,
người ta thường sử dụng các chỉ tiêu liên quan đến vốn khả dụng như:
Khả năng thanh toán tổng quát =
Vốn hoạt động ròng
Tổng rủi ro
x 100%
Trong đó:
Vốn hoạt động ròng = Vốn khả dụng - Tổng nợ điều chỉnh
Tổng nợ điều chỉnh = Tổng nợ - Các khoản nợ giảm trừ
Tổng
rủi ro
=
Rủi ro thị

trường
+
Rủi ro
đối tác
+
Rủi ro tập
trung tín
dụng
+
Rủi ro
cơ bản
+
Rủi ro
bù trừ
Chỉ tiêu này phản ánh các công ty chứng khoán phải duy trì lượng vốn
hoạt động ròng ít nhất là bằng 100% so với tổng rủi ro của nó.
Khả năng
chống đỡ rủi ro
=
Vốn hoạt động ròng
Tổng nợ điều chỉnh
x 100% >= A%
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
Lượng tài sản khả dụng của công ty phải có khả năng chống đỡ rủi ro này
của CTCK phải lớn hơn hoặc bằng một tỷ lệ A nhất định, tỷ lệ này cao hay thấp
còn tùy thuộc vào mỗi quốc gia khác nhau cũng như từng rủi ro của từng loại
hình kinh doanh của CTCK.
(2) Chỉ tiêu nợ trên tài sản có tính thanh khoản

Chỉ tiêu nợ trên tài sản có tính thanh khoản là thước đo cho biết khả năng
đáp ứng các nhu cầu về tài chính của CTCK. Chỉ tiêu này cũng xác định khả
năng chi trả cho người đầu tư chứng khoán trong trường hợp cần thiết. Chỉ tiêu
này được tính như sau:
Tỷ lệ % nợ
trên tài sản
có tính
thanh khoản
=
Tổng nợ (phân theo kỳ hạn nợ phải thanh toán)
Tài sản có tính thanh khoản (phân theo kỳ hạn
tài sản có khả năng chuyển hóa thành tiền mặt)
x 100%
Nếu giá trị tài sản của CTCK khi được phân loại, đánh giá lại giá trị theo
kỳ hạn, loại trừ các loại cổ phiếu và tài sản khác không có khả năng chuyển hóa
thành tiền mặt mà nhỏ hơn nợ phải thanh toán cùng kỳ hạn thì có thể dẫn đến
tình trạng mất khả năng thanh toán tạm thời tại những thời điểm nhất định.
(3) Chỉ tiêu nợ thanh toán giao dịch chứng khoán trên nguồn vốn
Chỉ tiêu nợ trong thanh toán giao dịch chứng khoán trên nguồn vốn là
quan hệ tỷ lệ giữa các khoản phải thu từ nhà đầu tư với nguồn vốn của công ty
chứng khoán. Chỉ tiêu này được tính theo công thức sau:
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
Tỷ lệ khoản phải thu
từ nhà đầu tư trên
nguồn vốn
=
Khoản phải thu từ nhà đầu tư
chứng khoán

Ngu
ồn vốn
x 100%
Chỉ tiêu này cho biết mức độ phụ thuộc của khả năng thanh toán của công
ty chứng khoán vào một loại tài sản thường không thể chuyển đổi thành tiền
(Khoản phải thu của nhà đầu tư chứng khoán). Chỉ tiêu này còn để phân biệt
công ty chứng khoán hoạt động lành mạnh với CTCK có khó khăn về tài chính.
(4) Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số thanh toán nhanh =
Tiền và các khoản tương đương tiền + các
khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
N
ợ ngắn hạn
Hệ số thanh toán nhanh là hệ số đánh giá về việc huy động các tài sản có
khả năng chuyển đổi thành tiền để thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn mà các
chủ nợ yêu cầu.
(5)Hệ số khả năng thanh toán hiện thời
Hệ số thanh toán hiện thời =
Giá trị tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán hiện thời cho biết mỗi đồng nợ ngắn hạn mà
doanh nghiệp đang giữ,doanh nghiệp có bao nhiêu đồng tài sản lưu động có thể
sử dụng để thanh toán. Nếu tỷ số này nhỏ hơn 1 nghĩa là doanh nghiệp không đủ
tài sản có thể sử dụng ngay để thanh toán khoản nợ ngắn hạn sắp đáo hạn.
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01
Học viện tài chính Luận văn tốt
nghiệp
1.3.3.1.2 Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng hoạt động.
Các chỉ tiêu đánh giá khả năng hoạt động được sử dụng để đánh giá khả
năng hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp.

(1) Chỉ tiêu đánh giá thay đổi về nguồn vốn
Đây là chỉ tiêu rất quan trọng bởi nó đánh giá về mức thay đổi nguồn vốn
giữa năm nay và năm trước, chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá mức độ cải
thiện hoặc giảm sút về khả năng tài chính của công ty trong năm.
Mức độ thay đổi
Về nguồn vốn
=
Chênh lệch nguồn vốn
giữa năm nay và năm trước
Nguồn vốn năm trước
x 100%
(2) Chỉ tiêu về số trích dự phòng giảm giá chứng khoán
Tỷ lệ % số trích dự
phòng giảm giá CK
trên nguồn vốn
=
Số trích dự phòng giảm giá
chứng khoán
Nguồn vốn
x 100%
Số trích dự phòng giảm giá chứng khoán bao gồm dự phòng giảm giá
chứng khoán từ hoạt động tự doanh, ủy thác đầu tư, chứng khoán đầu tư dài hạn,
ngắn hạn…
Mức dự
phòng giảm
giá CK
=
Số CK bị
giảm giá tại
thời điểm

31/12
*
{
Giá hạch
toán trên sổ
kế toán
-
Giá đóng
cửa ngày
31/12
}
Bản chất của “dự phòng giảm giá tài sản” là giúp giá trị tài sản ghi trong
báo cáo tài chính phản ánh xác thực hơn giá trị thị trường hiện tại của tài sản đó,
SV: Ninh Văn Ngọc Lớp: CQ47/17.01

×