Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Một số giải pháp đổi mới phương pháp dạy học môn sinh học lớp 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.81 KB, 25 trang )



Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
1






Một số giải pháp đổi mới phương pháp dạy học
môn Sinh học lớp 8









A. PHẦN MỞ ĐẦU


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
2
I. Lý do chọn đề tài:
Đổi mới phương pháp dạy học là một yêu cầu quan trọng, tác động trực tiếp đến
khả năng tiếp thu bài giảng của học sinh trong từng tiết học và quyết định lâu dài đến chất
lượng của giáo dục đào tạo. Các nhà nghiên cứu phương pháp dạy học đã không ngừng
nghiên cứu, tiếp thu những thành tựu mới của lý luận dạy học hiện đại để đưa nền giáo dục


nước ta ngày càng tiến bộ, đáp ứng được nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân.
Những năm gần đây, định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được thống nhất theo tư
tưởng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh dưới sự tổ chức và hướng dẫn của giáo
viên. Học sinh tự giác chủ động tìm tòi, phát hiện, giải quyết nhiệm vụ nhận thức và có ý
thức vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kiến thức kỹ năng đã thu nhận được. Nhưng những
định hướng này cũng chỉ đến với giáo viên qua những tài liệu mang tính lý thuyết nhiều
hơn là hướng dẫn thực hành. Hoạt động chỉ đạo chuyên môn hay bồi dưỡng giáo viên vẫn
thiếu nhiều về việc tìm hiểu nội dung, chương trình môn học hơn là tìm hiểu những vấn đề
của chính phương pháp dạy học. Chính vì thế không tránh khỏi việc hiểu và vận dụng đổi
mới phương pháp dạy học một cách máy móc, thậm chí còn sai lệch ở một số giờ dạy, giáo
viên không có phương pháp tổ chức tốt tiết dạy của mình. Do đó nhiều tiết dạy không tạo
ra được hứng thú học tập cho học sinh, gây nên tâm lý chán học dẫn đến hiệu quả của giáo
dục trong mấy năm gần đây rất thấp.
Trước những khó khăn của thực tiển giáo dục, chúng ta phải thực sự đổi mới
phương pháp dạy học, phải chấp nhận một giải pháp quá độ mang tính cải tiến phương
pháp dạy học với phương châm đổi mới là dạy học tạo điều kiện để học sinh “suy nghĩ


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
3
nhiều hơn, làm nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn” nhằm đáp ứng yêu cầu mới của xã hội,
đáp ứng sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây không phải là vấn đề của
riêng nước ta mà là vấn đề đang được quan tâm ở mọi quốc gia trong chiến lược phát triển
nguồn lực con người phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy đã được hơn 30 năm, kinh nghiệm rất nhiều,
nhưng tôi vẫn còn băn khoăn về cách dạy để tạo hứng thú học tập cho học sinh, nhằm tổ
chức tốt giờ dạy của mình góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và hiệu quả đào tạo .
Qua thực tế thử nghiệm trong thời gian qua, trong năm học này tôi mạnh dạn đưa ra một số
cải tiến phương pháp dạy học để mong sự góp ý, bổ sung của hội đồng khoa học và của
bạn bè đồng nghiệp nhằm hoàn thiện hơn về các giải pháp dạy học của bộ môn, đem đến

hiệu quả trong công việc của người thầy giáo đứng trên bục giảng. Đó chính là lý do mà tôi
chọn đề tài này.
II. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu và thời gian thực hiện
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
- Được thực hiện trong phạm vi một lớp học.
- Học sinh lớp 8E của trường THCS Hồng Thủy.
Thời gian:
- Tiến hành thử nghiệm trong năm học 2011- 2012




Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
4


















B - PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Môn Sinh học nói chung và Sinh học 8 nói riêng, là một môn học khoa học thực
nghiệm mà đòi hỏi học sinh tiếp nhận kiến thức bài học, thông qua việc quan sát và nhận
xét từ đặc điểm hình thái cấu tạo, những quy luật hoạt động, những đặc điểm thích nghi


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
5
với môi trường sống của giới sinh vật, thông qua quan sát trên tranh vẽ, mô hình và các thí
nghiệm dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Học sinh khi tiếp thu kiến thức, không phải thụ động từ bài giảng của giáo viên, mà
ngược lại phải độc lập chủ động quan sát và nghiên cứu thí nghiệm tranh vẽ, mẫu vật, mô
hình Từ đó rút ra kết luận và kiến thức hoàn chỉnh dưới sự chỉ dẫn của giáo viên. Có
như vậy mới làm cho học sinh thực sự tư duy, sáng tạo, biết làm việc, nghiên cứu khoa
học, giúp việc tiếp thu kiến thức được vững chắc, nhớ kỹ, nhớ lâu. Làm tốt được điều này,
chính là đã đáp ứng được yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học hiện nay mà ngành
giáo dục đặt ra.
Đặc biệt trong những năm qua toàn ngành đang hưởng ứng cuộc vận động “ Nói
không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” do Bộ trưởng bộ GD-
ĐT phát động. Do đó việc dạy một tiết sinh học theo yêu cầu đổi mới có hiệu quả là một
điều hết sức quan trọng, bởi lẽ học sinh muốn nắm chắc kiến thức, cần đòi hỏi các em phải
phát huy tính tư duy sáng tạo, chủ động khai thác kiến thức, hiểu bài và vận dụng vào thực
tế, đáp ứng với yêu cầu giáo dục trong giai đoạn mới.
II. THỰC TRẠNG DẠY HỌC MÔN SINH HỌC Ở TRƯỜNG THCS HỒNG
THỦY TRONG NHỮNG NĂM QUA.
Trong những năm qua, là một cán bộ quản lý, với cương vị Hiệu trưởng nhà trường,
bản thân tôi trực tiếp giảng dạy rất ít, tuy có kinh nghiệm nhưng chỉ dạy một tuần hai tiết,
trong quá trình đó, tôi thấy thực trạng của việc dạy học môn Sinh học ở trường THCS

Hồng Thuỷ như sau:
1. Về ưu điểm.


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
6
- Giáo viên nắm được hệ thống các phương pháp dạy học, phối hợp khá linh hoạt, tổ
chức lớp học khá đa dạng và phong phú nên đã tạo ra nhiều tiết dạy sinh động, hấp dẫn, lôi
cuốn được HS vào quá trình khám phá, tìm tòi lý thú, với sự hổ trợ tích cực của các ph-
ương tiện và thiết bị dạy học khá dồi dào.
- Cơ bản phân loại được hệ thống kiến thức trong chương trình theo quyết định 16
và chương trình giảm tải.
Từ đó, xác định được nhiệm vụ của người giáo viên khi dạy nhóm bài nào. Đồng
thời biết lựa chọn và sử dụng đúng thiết bị dạy học.
- Gắn công tác giảng dạy với thực tế cuộc sống, giúp học sinh khám phá được
những điều mới mẽ thông qua bài học. Đồng thời biết vận dụng được các kiến thức đã học
vào thực tế (như giải thích các hiện tượng xảy ra xung quanh mình)


- Các kỹ năng cơ bản về các thao tác biểu diễn trực quan, thao tác sử dụng thiết bị
dạy học trong thí nghiệm được giáo viên sử dụng khá linh hoạt nhuần nhuyễn, cơ bản đảm
bảo các nguyên tắc khi sử dụng thiết bị dạy học.
- Ban lãnh đạo nhà trường luôn quan tâm đến công tác đổi mới PPDH của giáo viên,
tạo điều kiện để tổ bộ môn thao giảng theo từng chuyên đề nhằm nâng cao hiệu quả tiết
dạy.
- Cơ sở vật chất không ngừng được tăng cường như phòng học bộ môn, tranh ảnh,
thiết bị dạy học đáp ứng cho yêu cầu đổi mới.
2. Tồn tại:



Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
7
Bên cạnh những ưu điểm rất cơ bản mà người giáo viên đạt được trong các tiết dạy
trên lớp, góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng giáo dục, thì việc dạy học môn
Sinh học vẫn còn gặp phải một số tồn tại cần phải khắc phục đó là:
2.1 Về phong thái:
- Có giáo viên đôi lúc lên lớp còn mất bình tĩnh, thiếu tự tin, đặc biệt khi có người
dự giờ, thể hiện một phong thái gấp gáp, dẫn đến hỏi học sinh dồn dập có khi người dự
cũng không theo dõi kịp.
- Khả năng truyền cảm khi diễn đạt của giáo viên còn có hạn chế nhất định, khó lôi
cuốn HS, khó gây hứng thú yêu thích học bộ môn.
2.2 Một bộ phận giáo viên nhiều khi lên lớp nghiên cứu bài dạy chưa kỉ, do vậy
không hiểu hết ý đồ của SGK, nên họ chưa hiểu sâu, cặn kẽ về kiến thức. Từ đó việc dẫn
dắt, hình thành kiến thức bài học cho học sinh đôi khi còn thiếu tính hệ thống. Khai thác
chưa đúng mức các thông tin ở kênh chữ và kênh hình. Nên bài dạy có một trong những
biểu hiện sau đây:
- Thiếu chặt chẽ, có tính áp đặt.
- Dàn trải, ghi nhiều
- Thiếu khắc sâu kiến thức, đồng thời đi kèm với nó thiếu sự cũng cố và sự mở rộng
cần thiết kiến thức cho học sinh.
- Thiếu sự liên hệ thực tế (hoặc bỏ qua hoặc không sát).
2.3 Việc hướng dẫn của GV thiếu tính cụ thể, học sinh chưa được định hướng đúng
khi khai thác thông tin. Mặt khác, hệ thống câu hỏi dẫn dắt có khi chưa được chọn lọc,


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
8
thiếu câu hỏi gợi mở từ những câu lệnh của giáo viên, diễn đạt câu hỏi không thoát ý. Làm
cho HS khó hiểu, ít tham gia xây dựng bài, làm cho tiết học nặng nề.
2.4 Một số tiết dạy việc tổ chức học nhóm của giáo viên còn mang tính hình thức,

không thực chất, giao việc chưa rỏ cho các đối tượng. Nhiều tiết dự giờ cho thấy giáo viên
dành thời gian thảo luận cho học sinh quá ít, việc điều hành của nhóm còn nhiều hạn chế,
do vậy một số thành viên của nhóm chưa được làm việc, kết quả thảo luận từ các nhóm
còn vội vàng, hiệu quả chưa cao.
2.5 Cùng với việc tăng cường về số lượng và chất lượng của thiết bị dạy học thì
việc sử dụng thiết bị dạy học trên lớp là nhu cầu không thể thiếu được đối với việc giảng
dạy bộ môn Sinh học. Qua đó bồi dưỡng cho giáo viên kĩ năng sử dụng thiết bị và phương
tiện dạy học ngày càng hoàn thiện. Tuy vậy, cũng phải thấy rằng việc sử dụng thiết bị phư-
ơng tiện dạy học trong một chừng mực nào đó vẫn còn những sai sót nhất định (tuy không
lớn và không phổ biến) đó là:
- Nhiều tranh giáo viên tự vẽ không đảm bảo tính chính xác và tính khoa học.
- Khi biểu diễn các mẫu vật tự nhiên, nhiều khi nhiều học sinh không có mẫu vật để
quan sát (trong khi phải đảm bảo nguyên tắc là mẫu vật phải đến tận tay học sinh).
- Khi biểu diễn các thí nghiệm chứng minh, có khi giáo viên chuẩn bị thiếu chu đáo,
chưa thấy hết mọi khó khăn trong thao tác thí nghiệm, nên dẫn đến ngắt quảng giữa chừng,
thậm chí có khi không thành công.
2.6 Việc đổi mới phương pháp dạy học chỉ đạt kết quả cao khi học sinh có sự đổi
mới cách học. Nhưng có giáo viên chưa thật coi trọng công việc hướng dẫn học sinh chuẩn


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
9
bị bài ở nhà, cũng như hướng dẫn cách học bộ môn. Do vậy có một số tiết dạy hiệu quả
không được như mong muốn.
Từ những thực trạng trên, bản thân tôi xin đưa ra một số giải pháp để khắc phục và
hạn chế những tồn tại với mong muốn nâng cao hiệu quả dạy học môn Sinh học của giáo
viên đối với bộ môn Sinh học 8 ở trường phổ thông cơ sở. Nhằm góp phần thực hiện thành
công đổi mới giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN SINH
HỌC LỚP 8 Ở TRƯỜNG THCS.

1. Trước hết giáo viên phải nắm được mục tiêu đã lượng hoá của từng bài,
từng đơn đơn vị kiến thức được trình bày trong sách giáo viên.
Đã từ nhiều năm nay, trong các giáo án của giáo viên mục tiêu bài học thường được
viết chung chung. Ví dụ như: “Nắm được khái niệm bài tiết … ” Với cách trình bày mục
tiêu như vậy ta không có cơ sở để biết khi nào thì học sinh đã đạt được mục tiêu đó. Trong
thực tế mục tiêu còn được hiểu là những điều mà người thầy sẽ phải làm trong quá trình
giảng dạy.
Do đó với định hướng dạy học mới, mục tiêu của dạy học được thể hiện bằng lời
khẳng định về kiến thức, kĩ năng và thái độ mà người học phải đạt được ở mức độ nhất
định sau tiết học (chứ không phải là hoạt động của giáo viên trên lớp như trước đây). Mục
tiêu của bài học sẽ là căn cứ để đánh giá chất lượng học tập của học sinh và hiệu quả thực
hiện bài dạy của giáo viên. Do đó mục tiêu bài học phải cụ thể sao cho có thể đo được hay
quan sát được, tức là mục tiêu bài học phải được lượng hoá rõ ràng. Người ta thường


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
10
lượng hoá mục tiêu bằng các động từ hành động. Mỗi động từ có thể dùng ở các nhóm
mục tiêu khác nhau.
* Đối với nhóm mục tiêu kiến thức, ta lượng hoá theo 3 mức độ nhận thức như sau:
a. Mức độ nhận biết: Các động từ hành động thường được dùng để lượng hoá mục
tiêu ở mức độ này là: phát biểu, liệt kê, trình bày, nhận dạng…
b. Mức độ thông hiểu: Các động từ hành động thường được dùng để lượng hoá
mục tiêu ở mức độ này là: phân tích, so sánh, phân biệt, tóm tắt, liên hệ, xác định……
c. Mức độ nhận dạng vào các tình huống: Các động từ hành động thường được
dùng để lượng hoá mục tiêu ở mức độ này là: giải thích, chứng minh, vận dụng….
*Đối với nhóm mục tiêu kĩ năng, có thể đưa ra 2 mức độ:
** Làm được một công việc
** Làm thành thạo một công việc
Có thể lượng hoá mục tiêu kĩ năng bằng các động từ hành động sau: nhận dạng, liệt

kê, thu thập, vẽ, phân loại, tính toán, làm thí nghiệm, sử dụng …
* Đối với nhóm mục tiêu thái độ, có thể lượng hoá bằng các động từ sau: tuân thủ,
tán thành, hưởng ứng, chấp nhận, bảo vệ, hợp tác…
Dưới đây là một ví dụ về trình bày mục tiêu về kiến thức và kĩ năng của bài học
“Bài tiết nước tiểu” (thuộc chương trình lớp 8)
Nếu ta yêu cầu học sinh phải “nắm vững khái niệm bài tiết nước tiểu, tác dụng
của bài tiết nước tiểu …” thì thực tế mục tiêu này chưa được lượng hoá vì ta không có cơ
sở để biết khi nào thì học sinh đã nắm vững những kiến thức này.
Có thể lượng hoá mục tiêu này bằng các động từ hành động như sau:


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
11
- Nêu được tên các quá trình cơ bản của quá trình tạo thành nước tiểu ở một đơn vị
chức năng của thận (mức độ “nhận biết”)
- Xác định được sự bài tiết các chất độc không cần thiết ở thận là cơ chế ổn định
một số thành phần của máu giúp cân bằng nội môi (mức độ “thông hiểu”)
- Biết vận dụng kiến thức đã học để giải thích được tại sao có thể chạy thận nhân tạo
và có thể giải thích được cơ sở khoa học cho bài sau (mức độ kiến thức “vận dụng” và mức
độ kĩ năng “làm được”)
Với những yêu cầu mới của xã hội đối với giáo dục, mục tiêu dạy học không chỉ là
những yêu cầu thông hiểu, ghi nhớ, tái hiện kiến thức và lặp lại đúng, thành thạo các kĩ
năng như trước đây, mà còn đặc biệt chú ý đến năng lực nhận thức, năng lực tự học của
học sinh. Những nội dung mới về mục tiêu này chỉ có thể hình thành dần dần qua hệ thống
nhiều bài học, nhiều môn học, và chỉ có thể đánh giá được sau một giai đoạn học tập xác
định (sau một học kỳ, một năm học hoặc một cấp học …) nên thường ít được thể hiện
trong mục tiêu của một bài học cụ thể.
2. Nghiên cứu các cách tổ chức cho học sinh hoạt động chiếm lĩnh kiến thức và
kĩ năng phù hợp với mục tiêu đã được lượng hoá
2.1. Lựa chọn nội dung kiến thức để tổ chức cho học sinh hoạt động

Sách giáo khoa đã trình bày các đơn vị kiến thức theo định hướng hoạt động. Trong
từng đơn vị kiến thức, giáo viên có thể tổ chức những hoạt động khác nhau để giúp học
sinh chiếm lĩnh kiến thức. Căn cứ vào nội dung kiến thức trong sách giáo khoa, tuỳ điều
kiện thiết bị cụ thể, thời gian học tập cho phép cũng như khả năng học tập của học sinh lớp
học, giáo viên cân nhắc và lựa chọn nội dung để tổ chức cho học sinh hoạt động


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
12
Dưới đây xin gợi ý một số hoạt động thường gặp trong dạy học môn sinh học:
a. Tổ chức tình huống học tập (chủ yếu là xác định nhiệm vụ học tập):
- Đặt câu hỏi nghiên cứu
- Nêu dự đoán
- Đề ra giả thuyết
b. Thu thập thông tin:
- Quan sát các sự kiện, hiện tượng, thí nghiệm.
- Tìm được những thông tin cần thiết từ sách, báo…
- Lập kế hoạch khám phá (ví dụ như: thiết kế thí nghiệm; lựa chọn dụng cụ,
thiết bị; chỉ ra những điều cần xác định trong thí nghiệm, những yếu tố cần giữ
nguyên không không thay đổi khi làm thí nghiệm).
- Tiến hành khám phá (ví dụ như: bố trí, lắp đặt dụng cụ thiết bị thí nghiệm; thực
hiện thí nghiệm theo hướng dẫn; thay đổi phương án thí nghiệm nếu kết quả không phù
hợp với vấn đề đặt ra)
- Ghi các kết quả khám phá (ví dụ như: đọc số chỉ của các dụng cụ thí nghiệm ở
mức độ cẩn thận và chính xác cần thiết; lập bảng kết quả; biểu diễn kết quả bằng đồ thị, sơ
đồ, …)
c. Xử lý thông tin, ví dụ như:
- Lập bảng, biểu, vẽ đồ thị theo những cách khác nhau, từ đó phân tích dữ liệu và
nêu ý nghĩa của chúng
- Tìm quy luật từ biểu, bảng, đồ thị



Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
13
- Phân loại dấu hiệu giống nhau, khác nhau, nhận biếi những dấu hiệu bản chất của
những nhóm đối tượng đã quan sát …
- So sánh, phân tích, tổng hợp dữ liệu và rút ra kết luận
d. Thông báo kết quả làm việc, ví dụ như:
- Mô tả những thí nghiệm đã làm
- Trình bày, giải thích những việc đã làm
- Nêu kết luận đã tìm thấy được
e. Vận dụng, ghi nhớ kiến thức bằng cách:
- Trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa
- Làm đồ chơi, dụng cụ học tập …
- Học thuộc lòng phần ghi nhớ
Trong từng hoạt động, giáo viên có thể phát huy tính tích cực học tập của học sinh
ở những mức độ khác nhau (Giáo viên thực hiện hoàn toàn hay có thể hướng dẫn học sinh
tìm tòi thực hiện một vài phần hoặc để học sinh tự thực hiện hoàn toàn)
Kinh nghiệm cho thấy khi dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức
của học sinh trong thời gian một tiết học 45 phút giáo viên thường bị cháy giáo án vì khi
phát huy tính tích cực của các em càng cao thì càng có thể xảy ra nhiều tình huống khác
với dự kiến của giáo viên. Do đó giáo viên cần cân nhắc, xác định hoạt động trọng tâm
(tuỳ thuộc mục tiêu đã được lượng hoá của bài học cũng như cơ sở thiết bị dạy học cho
phép), Phân bổ thời gian hợp lý để điều khiển hoạt động học tập của học sinh.
2.2. Dự kiến hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh hoạt động


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
14
Trong mỗi hoạt động nên dự kiến hệ thống câu hỏi xen kẽ với những yêu cầu học

sinh hoạt động để hướng dẫn học sinh tiếp cận, tự phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức mới.
Mỗi hoạt động nêu trên đều nhằm mục tiêu chiếm lĩnh một kiến thức hay rèn luyện
một kĩ năng cụ thể và phục vụ cho việc đạt được mục tiêu chung của bài học. Song, hệ
thống câu hỏi của giáo viên nhằm hướng dẫn học sinh tiếp cận, phát hiện và chiếm lĩnh
kiến thức trong từng hoạt động giữ vai trò chỉ đạo, quyết định chất lượng lĩnh hội của lớp
học. Muốn vậy, giáo viên phải:
a. Giảm số câu hỏi có yêu cầu thấp về mặt nhận thức, mang tính chất kiểm tra, chỉ
yêu cầu nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, thường chỉ có một câu trả lời
đúng, ngắn gọn, không cần suy luận. Loại câu hỏi này thường được sử dụng khi cần đặt
mối liên hệ giữa kiến thức đã học với kiến thức sắp học, khi học sinh đang thực hành,
luyện tập hoặc củng cố kiến thức vừa mới học.
b. Tăng số câu hỏi then chốt, nhằm vào những mục đích nhận thức cao, đòi hỏi sự
thông hiểu, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, hệ thống hoá, vận dụng kiến thức đã học
cũng như các câu hỏi mở có nhiều phương án trả lời. Loại câu hỏi này thường được sử
dụng khi học sinh đang được cuốn hút vào các cuộc thảo luận tìm tòi, khi họ tham gia giải
quyết vấn đề cũng như khi vận dụng các kiến thức đã học trong tình huống mới.
Tăng cường câu hỏi có yêu cầu nhận thức cao không có nghĩa là xem thường câu
hỏi kiểm tra sự nghi nhớ vì không tích luỹ kiến thức, sự kiện đến một mức độ nhất định
nào đó thì khó mà tư duy sáng tạo.
Vấn đề trong thực tế dạy học hiện nay, giáo viên không mấy khi sử dụng thành
thạo loại câu hỏi hỏi để kích thích tư duy. Mục tiêu của việc đặt câu hỏi thường bị thất bại


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
15
vì người giáo viên không biết cách đặt câu hỏi như thế nào và khi nào thì nên dùng nó.
Chẳng hạn khi nghiên cứu về PXKĐK và PXCĐK (bài 52 SGK sinh học 8) ta đã hỏi: “Khi
tay chạm phải vật nóng, rụt tay lại” là PXKĐK có đúng không? Đây là câu hỏi đã chứa
đựng kiến thức và chỉ yêu cầu học sinh trả lời đúng hoặc không. Không hỏi học sinh tư
duy tìm ra mối quan hệ giữa các yếu tố của cung phản xạ. Nhiều khi các em trả lời đúng

câu hỏi này nhưng có thể chưa biết thế nào là PXKĐK. Còn câu hỏi “Phân biệt sự khác
nhau giữa 2 hình thức phản xạ: ăn mơ chua tiết nước bọt- Nhìn thấy chua tíêt nước
bọt” đòi hỏi học sinh tư duy tìm ra các yếu tố của cung phản xạ, thông qua đó giáo viên có
thể phân tích giúp học sinh hiểu rõ PHKĐK và PXCĐK.
Dưới đây xin gợi ý một số kĩ năng đặt câu hỏi theo các mức độ nhận thức tăng
dần.
- Câu hỏi “biết”: Mục tiêu của loại câu hỏi này để kiểm tra trí nhớ của học sinh về
các dự kiện, số liệu, các định nghĩa, tên tuổi, các địa điểm ….
- Việc trả lời các câu hỏi này giúp học sinh ôn lại những gì đã học, đã đọc hoặc đã
trải qua.
- Các từ để hỏi thường là: “cái gì……, bao nhiêu…., hãy định nghĩa….,em biết
những gì về….,khi nào ……, cái nào….,………
- Ví dụ:+ Hãy phát biểu định nghĩa mô là gì?
+ Hãy liệt kê các yếu tố của một cung phản xạ?
Câu hỏi "Hiểu"


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
16
- Mục tiêu của loại câu hỏi này là để kiểm tra cách học sinh liên hệ, kết nối các dữ
kiện, số liệu, tên tuổi, địa điểm, các định nghĩa,
- Việc trả lời các câu hỏi này cho thấy học sinh có khả năng diễn tả bằng lời nói,
nêu ra được các yếu tố cơ bản hoặc so sánh các yếu tố cơ bản trong nội dung đang học.
- Các cụm từ để hỏi thường là: " Tại sao ?, Hãy phân tích ?, Hãy so sánh ,
Hãy liên hệ , Hãy phân tích các yếu tố cơ bản "
- Ví dụ: + Hãy phân tích cấu trúc của một tế bào người?
+ Hãy so sánh PXKĐK và PXCĐK?
Câu hỏi " vận dụng":
- Mục tiêu của loại câu hỏi này là để kiểm tra khả năng áp dụng các dữ kiện, các
khái niệm, các quy luật, các phương pháp vào hoàn cảnh và điều kiện mới.

- Việc trả lời các câu hỏi áp dụng cho thấy học sinh có khả năng hiểu được các quy
luật các khái niệm , có thể lựa chọn tốt các phương án để giải quyết vấn đề, vận dụng
các phương án này vào thực tiễn.
- Khi đặt câu hỏi cần tạo ra những tình huống mới khác với điều kiện đã học trong
bài học và sử dụng cụm từ như " Làm thế nào , Em có thể giải quyết khó khăn về như
thế nào?"
- Ví dụ: + Hãy tính khẩu phần ăn trung bình cho một học sinh lớp 8 (15tuổi)
+ Làm thế nào để đo được huyết áp ?


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
17
Câu hỏi:"phân tích"
- Mục tiêu của loại câu hỏi này là để kiểm tra khả măng phân tích nội dung
vấn đề, từ đó đi đến kết luận, tìm ra mối quan hệ hoặc chứng minh một luận điểm.
- Việc trả lời câu hỏi này cho thấy học sinh có khả năng tìm ra được các mối quan
hệ mới, tự diễn giải hoặc đưa ra kết kuận .
- Việc đặt các câu hỏi phân tích đòi hỏi học sinh phải giải thích được các nguyên
nhân từ thực tế :"Tại sao "?,đi đến kết luận :"Em có nhận xét gì về ," "hãy chứng
minh (một luận điểm nào đó )" các câu hỏi phân tích thường có nhiều lời giải.
- Ví dụ: + Từ kết quả thí nghiệm tìm hiểu chức năng tuỷ sống ,hãy nhận xét về mối
quan hệ giữa cường độ kích thích với kết quả quan sát.
+Hãy chứng minh cận thị là tật mà mắt chỉ có khả năng nhìn gần.
- Câu hỏi: " Tổng hợp"
- Mục tiêu của loại câu hỏi này là để kiểm tra xem học sinh đưa ra những dự đoán,
giải quyết một vấn đề, đưa ra câu trả lời hoặc đề xuất có tính sáng tạo.
- Câu hỏi tổng hợp thúc đẩy sự sáng tạo của học sinh, các em phải tìm ra những nhân
tố và những ý tưởng mới để có thể bổ sung cho nội dung.
- Việc trả lời câu hỏi tổng hợp khiến học sinh phải: dự đoán, giải quyết vấn đề và đưa
ra các câu trả lời sáng tạo. Cần nói cho học sinh biết rõ rằng các em có thể tự do đưa ra

những ý tưởng, giải pháp mang tính sáng tạo, tưởng tượng của riêng mình. Các câu hỏi này


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
18
đòi hỏi một thời gian chuẩn bị khá dài, vì vậy hãy để cho HS có đủ thời gian tìm ra câu trả
lời.
- Ví dụ:
+ Hãy đề ra những biện pháp vệ sinh hệ thần kinh. Tại sao đề ra như vậy?
+ Hãy tìm cách xác định chức năng của tuỷ sống.
Câu hỏi:" Đánh giá"
- Mục tiêu của loại câu hỏi này là để kiểm tra xem học sinh có thể đóng góp ý kiến và
đánh giá các ý tưởng, giải pháp dựa vào những tiêu chuẩn đã đề ra.
- Ví dụ: Theo em làm thế nào để ngăn chặn đại dịch AIDS.
Hiệu quả kích thích tư duy học sinh khi đặt câu hỏi ở mức độ nhận thức thấp hay
cao phụ thuộc rất nhiều vào khả năng của học sinh. Sẽ hoàn toàn vô tác dụng nếu giáo viên
đặt câu hỏi khó để học sinh không có khả năng trả lời được. Giáo viên cần có nhận xét,
động viên ngay những câu trả lời đúng cũng như câu trả lời chưa đúng. Nếu tất cả học sinh
đều trả lời sai thì giáo viên cần đặt những câu hỏi đơn giản hơn để học sinh có thể trả lời
được vì học sinh chỉ hứng thú học khi họ thành công trong học tập. Dưới đây xin gợi ý một
số kỹ thuật trong khi hỏi.
* Nên:
- Dừng một chút sau khi đặt câu hỏi
- Nhận xét một cách khuyến khích đối với câu trả lời của học sinh .


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
19
-Tạo điều kiện cho nhiều học sinh trả lời 1 câu hỏi .
- Tạo điều kiện để mỗi học sinh đều được trả lời câu hỏi ít nhất một lần trong giờ

học.
- Đưa ra những gợi ý nhỏ cho các câu trả lời hoặc dựa vào một phần nào đó trong
câu trả lời để đặt tiếp câu hỏi khác.
- Yêu cầu học sinh giải thích câu trả lời của mình.
- Yêu cầu học sinh liên hệ câu trả lời với những kiến thức khác.
* Không nên:
- Nhắc lại câu hỏi của mình.
- Tự trả lời câu hỏi của mình đưa ra.
- Nhắc lại câu trả lời của học sinh.
2.3. Nghiên cứu tổ chức cho học sinh hoạt động trên lớp dưới những hình thức
học tập khác nhau.
Để tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, ngoài hình thức tổ chức học toàn
lớp như hiện nay, nên tăng cường tổ chức cho học sinh học tập cá nhân và học tập theo
nhóm ngay tại lớp.
2.3.1.Hình thức học tập cá nhân.


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
20
Hình thức học tập cá nhân là hình thức học tập cơ bản nhất vì nó tạo điều kiện cho
mỗi học sinh trong lớp bộc lộ khả năng tự học của mình (được tự nghĩ, được tự làm việc
một cách tích cực) nhằm đạt tới mục tiêu học tập.
Việc tổ chức học tập cá nhân có thể như sau:
- Làm việc chung với cả lớp: Giáo viên nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức và
hướng dẫn (gợi ý) học sinh làm việc.
- Làm việc cá nhân: Học sinh ghi kết quả ra vở hoặc trả lời vào phiếu học tập.
- Làm việc chung với cả lớp: Giáo viên chỉ định một vài học sinh báo cáo kết quả.
Các học sinh khác theo dõi, gợi ý và bổ sung.
2.3.2. Hình thức học tập theo nhóm.
Trong khâu tổ chức lên lớp, vấn đề mới mà ta cân đưa ra thử nghiệm là tổ chức cho HS

học theo nhóm trên lớp. Các bước tiến hanh tổ chức học tập theo nhóm có thể như sau:
- Làm việc chung cả lớp: Giáo viên nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức, chia
lớp thành các nhóm, giao nhiệm vụ cho từng nhóm và hướng dẫn gợi ý cho mỗi nhóm các
vấn đề cần lưu ý khi trả lời câu hỏi, hoàn thành bài tập.
- Làm việc theo nhóm: Phân công trong nhóm (cử nhóm trưởng, thư ký, phân việc
cho các thành viên trong nhóm). Từng cá nhân làm việc độc lập, sau đó thảo luận trong
nhóm và cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ của nhóm. Mỗi nhóm cử đại diện trình bày kết
quả làm việc của nhóm (không nhất thiết phải là nhóm trưởng hay thư ký, mà có thể là một
thành viên bất kỳ của nhóm).


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
21
- Làm việc chung cả lớp (thảo kuận tổng kết chung toàn lớp ): Đại diện học sinh rút
ra kết luận, lớp nhận xét, bổ sung. Giáo viên tổng kết và chuẩn xác kiến thức.
Tổ chức cho học sinh tập theo nhóm ngay tại lớp bị hạn chế bởi không gian chật hẹp
của lớp học, bởi thời gian hạn định của tiết học nên giáo viên phải biết tổ chức hợp lý mới
có kết quả. Không nên lạm dụng các hoạt động nhóm và cần đề phòng xu hướng hình thức.
Ở trường THCS, mỗi tiết học chỉ nên tổ chức từ một đến hai hoạt động nhóm đối vối
những câu hỏi, vấn đề dặt ra khó và phức tạp, đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa các cá nhan
mới cò thể hoàn thành nhiệm vụ. Nhớ rằng trong hoạt động nhóm, tư duy tích cực của học
sinh phải được phát huy và ý nghĩa quan trọng của nó là rèn luyện năng lực hợp tác giữa
các thành viên trong tổ chức lao động.
3. Sử dụng thiết bị thí nghiệm và đồ dùng dạy học theo hướng tích cực
- Các thiết bị dạy học như thí nghiệm, mô hình, tranh vẽ, biểu bảng, băng hình, sách
giáo khoa, được sử dung không chỉ minh hoạ kiến thức, lời giảng giải của giáo viên mà
chủ yếu là nguồn tri thức, là phương tiện để học sinh khai thác tìm tòi, phát hiện và chiếm
lĩnh kiến thức. Ví dụ như:
+ Tạo điều kiện để học sinh được tự tay làm thí nghiệm, tự mình quan sát, rút ra nhận
xét, kết kuận (tức là được trải nghiệm trong thực tế).

+ Tạo điều kiện để học sinh tìm hiểu cấu tạo, cách sử dụng một thiết bị.
+ Thông qua việc nghiên cứu các số liệu đã cho trong bảng để rút ra kết luận.


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
22
+ Khai thác hình vẽ với vai trò là nguồn thông tin, chứ không phải là hình ảnh minh
hoạ lời trình bày của SGK.
+ Tạo điều kiện cho đa số học sinh (càng nhiều càng tốt) được sử dụng thiết bị dạy học
để hoàn thiện nhiệm vụ học tập.
+ Nếu có điều kiện, giáo viên nên sử dụng những phương tiện dạy học hiện đại như
băng hình, đĩa CD trong tiết học.
Như vậy do đặc điểm tình thế giới nói chung và nước ta noí riêng nhất thiết chúng
ta phải không ngừng học hỏi, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ tìm ra được phương pháp tối
ưu nhất để tạo hứng thú học tập cho học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục. Đây là vấn đề
tôi đã quan tâm và đi sâu nghiên cứu, thử nghiệm trong quá trình giảng dạy.
IV- KẾT QUẢ:
Qua quá trình nghiên cứu phương pháp dạy học tôi đã áp dụng trong giảng dạy môn
Sinh học lớp 8 trong trường THCS Hồng Thủy, và nhận thấy học sinh có ý thức học tập
nghiêm túc hơn, nắm chắc kiến thức sau mỗi bài học, biết vận dụng, giải thích một số hiện
tượng thực tế có liên quan. Quan trọng hơn là tạo được hứng thú học tập cho học sinh đối
với môn sinh học.
Kết quả số lượng học sinh đạt điểm giỏi tăng lên rõ rệt còn số học sinh dưới
điểm giảm đáng kể so với bài khảo sát lần thứ nhất. Sau đây là kết quả cụ thể của học sinh
lớp 8E về bài khảo sát sau tiết học (tính tại thời điểm tháng 4-2012 với tổng số học sinh 40
em).


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
23

ĐIỂM KÉM ĐIỂM YẾU ĐIỂM TB
TRỞ LÊN
ĐIỂM KHÁ ĐIỂM GIỎI
SL % SL % SL % SL % SL %
0 0 4 10,0 36 90,0 12 30,0 8 20,0













C. PHẦN KẾT LUẬN


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
24
Tóm lại phương pháp dạy học vô cùng đa dạng vì hoạt động dạy học chịu sự chi
phối của nhiều yếu tố phức tạp: Tính chất nội dung trí dục, tính đa dạng của mục đích lý
luận dạy học, sự phong phú của các thao tác trong hoạt động dạy, hoạt động học, nghệ
thuật biểu diễn của từng giáo viên. Nhưng quan trọng hơn cả đó là lòng say mê, tâm huyết
với nghề nghiệp, không ngừng học hỏi đồng chí, đồng nghiệp, trau dồi chuyên môn nghiệp
vụ và tích cực thử nghiệm thực tập trong từng tiết dạy.
Như vậy, trước đây khi chưa sử dụng kinh nghiệm này trong các tiết dạy tôi nhận

thấy nhiều em còn lơ đảng, ít quan tâm đến việc tiếp thu bài trên lớp thì nay trong tiết dạy
học sinh rất hứng thú học tập, tích cực nghiên cứu thông tin, trao đổi theo yêu cầu của giáo
viên và tự lực hơn trong việc phát hiện kiến thức mới, tự giải quyết vấn đề và rút ra kết
luận còn giáo viên phải tăng cường đầu tư thời gian nhiều hơn vào bài soạn để thiết kế
chương trình, phương án thật linh hoạt cho học sinh thực hiện.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ về cải tiến phương pháp dạy học mà tôi đã và
đang áp dụng trong năm học 2011- 2012. Tôi sẽ tiếp tục áp dụng và nghiên cứu các khía
cạnh khác của vấn đề trong thời gian tới, nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy góp phần
thực hiện mục tiêu đào tạo của nước nhà.
Hồng Thủy , ngày 15 tháng 5 năm 2012

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC Người thực hiện
CỦA TRƯỜNG THCS HỒNG THỦY


Võ Thành Đồng Sáng kiến kinh nghiệm
25


Võ Thành Đồng




×