BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Trần Thị Ngọc Anh
SỰ CHUYỂN ĐỔI DIỄN NGÔN
LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ THỜI KỲ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY
Chuyên ngành : Lý luận văn học
Mã số : 62.22.01.20
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI, 2015
Công trình được hoàn thành tại:
TRường Đại học Sư phạm Hà Nôi
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Trần Đình Sử
Phản biện 1: PGS.TS Trịnh Bá Đĩnh
Phản biện 2 PGS.TS Lí Hoài Thu
Phản biện 3: PGS.TS Đào Thủy Nguyên
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại:
Vào hồi … giờ … ngày … tháng… năm
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
:
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Lý luận, phê bình văn học từ thời kỳ đổi mới đến nay là một đề tài
lớn nhận được nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu văn học. Các công trình
đã được thực hiện dường như có chung một quy luật, chủ yếu bàn về lý luận,
phê bình văn học từ góc độ nhận thức luận. Đó là sự phân tích và chỉ ra những
giới hạn đúng – sai, rộng – hẹp, mới – cũ, thành tựu – hạn chế trong lý luận,
phê bình văn học mà bỏ qua vai trò trung gian của ngôn ngữ trong nhận thức
khoa học văn học. Đây là một cách nhìn cần được bổ sung. Bởi vì, ngoài việc
mang các tính chất, quy luật khoa học một cách thuần túy, lý luận, phê bình văn
học cũng là một hệ thống ký hiệu về văn học được biểu hiện qua ngôn ngữ. Mọi
sự chuyển đổi, cách tân lý luận, phê bình văn học đều thể hiện qua sự thay đổi
bộ mặt ngôn ngữ của nó. Lý luận, phê bình văn học vì vậy, có thể xem như là
một không gian ngôn ngữ đặc thù. Tư cách ngôn ngữ ấy của lý luận, phê bình
văn học lại không chịu sự quy định của các đặc điểm ngữ âm, từ vựng, ngữ
pháp một cách thuần túy mà chịu sự quy định của mối quan hệ tương tác giữa
các cơ chế tâm lý, chính trị, xã hội và hệ hình tri thức chủ lưu. Điều này tất yếu
đòi hỏi một cách thức tiếp cận khác về lý luận, phê bình văn học.
1.2. Sự xuất hiện của lý thuyết “diễn ngôn” về căn bản đã làm thay đổi
quan niệm, cách tiếp cận, cách nghiên cứu về ngôn ngữ và các vấn đề xã hội
trong đó có văn học nghệ thuật. Trước khi thuật ngữ này trở nên thông dụng,
người ta vẫn quan niệm “ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy”. Nhưng trên
thực tế, ngôn ngữ không chỉ tồn tại như một công cụ, kí hiệu để phản ánh mà nó
còn chính là nội dung được biểu đạt. Một phát ngôn được hình thành không chỉ
phụ thuộc vào quy tắc tạo nghĩa của ngôn ngữ mà còn phụ thuộc vào cơ chế
phát sinh của nội dung cụ thể. Cơ chế đó ràng buộc, quy định các phát ngôn của
cá nhân trong các điều kiện xã hội lịch sử cụ thể được nói gì, không được nói gì
và nên nói như thế nào hay dựa vào đâu để nói. Do đó diễn ngôn còn được hiểu
là “hoạt động diễn đạt bằng lời nói biểu nghĩa được hiểu như tổng thể của quá
trình và kết quả, nó có bình diện ngôn ngữ học thuần tuý và cả những bình diện
ngoài ngôn ngữ học”.
1.3 Nghiên cứu lý luận phê bình văn học từ thời kì đổi mới đến nay ở góc
độ diễn ngôn là hướng đi quan tâm đến không gian ngôn ngữ chứa đựng những
quan điểm về học thuật, quan tâm đến sự sinh sôi, nảy nở của các hệ thuật ngữ
chính trong lý luận, phê bình văn học cũng như toàn bộ nền văn học. Lý thuyết
diễn ngôn sẽ cho phép nghiên cứu lí luận, phê bình văn học như một phương
tiện giao tiếp có chức năng truyền đạt, lưu giữ và sáng tạo thông tin của cá nhân
cũng như xã hội. Từ góc độ tiếp cận này, người nghiên cứu có thể nhận ra chân
lí khoa học không chỉ phụ thuộc vào đối tượng khách quan mà còn phụ thuộc
vào chủ thể nhận thức. Nó không chỉ là hình ảnh hiện thực mà còn là sự đồng
thuận liên chủ thể trong hoạt động giao tiếp. Cũng từ góc độ tiếp cận này, lịch
1
sử khoa học nói chung, lịch sử lí luận và phê bình văn học nói riêng, sẽ hiện lên
như một tiến trình có sự bứt phá, nhưng cũng có những bước đứt gẫy, mâu
thuẫn, tiếp biến vô cùng phức tạp.
1.4. Cho đến nay, việc vận dụng lý thuyết diễn ngôn trong nghiên cứu văn
học trên thế giới cũng như ở Việt Nam vẫn còn non trẻ và có nhiều bất đồng.
Tuy nhiên, chúng tôi mong rằng, kết quả của luận án sẽ tiếp tục khẳng định
hướng tiếp cận các vấn đề của văn học nói chung và lý luận, phê bình văn học
Việt Nam thời kỳ đổi mới nói riêng từ góc nhìn diễn ngôn là khả thi, hiệu quả.
2. Đối tượng, phạm vi ngiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự chuyển đổi diễn ngôn lý luận phê bình
văn học Việt Nam từ thời kì đổi mới đến nay.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Với đối tượng nghiên cứu như trên, luận án xác định phạm vi nghiên cứu
là: các công trình lý luận, phê bình văn học Việt Nam thời kì trước và sau đổi
mới dưới góc nhìn diễn ngôn. Thời gian đổi mới được chúng tôi xác định bắt
đầu từ 1986 đến nay theo dấu mốc Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI
(1986) – Đại hội của kỷ nguyên đổi mới và hội nhập toàn cầu.
Tuy nhiên, do số lượng các công trình lý luận, phê bình văn học trước và
sau đổi mới rất lớn nên chúng tôi tập trung chủ yếu vào các công trình nghiên
cứu đã được công nhận, đánh giá cao và có ý nghĩa đối với việc tạo ra sự thay
đổi diễn ngôn lý luận, phê bình văn học như: các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết
của Đảng về văn hóa, văn học, giáo trình lý luận văn học, giáo trình văn học
phương Tây, giáo trình văn học Việt Nam, các tập bài giảng về văn học, văn
hóa của Trường Chính trị trước, một số chuyên luận văn học trước và sau đổi
mới; các bài lý luận, phê bình văn học trên các tạp chí như: Tạp chí Cộng sản –
với tư cách là cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Việt Nam – nơi tập trung
quyền lực chính trị xã hội mạnh nhất với diện phổ biến rộng nhất và tạp chí
Nghiên cứu văn học – vốn được coi là không gian học thuật uy tín của lý luận,
phê bình văn học trước và sau đổi mới. Các nghiên cứu lý luận, phê bình văn
học trên báo Văn nghệ, Tạp chí Khoa học cũng được chúng tôi sử dụng phối kết
hợp trong quá trình triển khai các vấn đề quan trọng của luận án.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
3.1 Mục đích của luận án là tìm hiểu quy luật vận động của diễn ngôn lý
luận, phê bình văn học Việt Nam. Từ đó thấy được tác động của diễn ngôn lý luận
phê bình, văn học đến thực tiễn nghiên cứu văn học từ thời kỳ đổi mới đến nay.
3.2 Nhiệm vụ của luận án là mô tả, tổng kết vấn đề chuyển đổi diễn ngôn
lý luận phê bình văn học thời kì đổi mới như một hệ quả tất yếu nhưng cũng là
một quá trình chưa hoàn thành, chưa kết thúc và vẫn đang tiếp diễn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu:
2
- Phương pháp xã hội học lịch sử: Nghiên cứu sự chuyển đổi diễn ngôn lý
luận, phê bình văn học là nghiên cứu tiến trình của diễn ngôn lý luận, phê bình
văn học theo dòng lịch sử. Vì thế, sử dụng phương pháp xã hội học lịch sử sẽ
giúp chúng tôi nghiên cứu, chỉ rõ những tác động của bối cảnh lịch sử đến sự
chuyển đổi diễn ngôn lý luận, phê bình văn học.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành. Đây là phương pháp quan trọng
đối với chúng tôi khi tiến hành nghiên cứu đề tài này. Vì bản thân việc phân
tích diễn ngôn luôn phải tính đến bản chất liên ngành, liên văn bản, liên chủ thể.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Việc nghiên cứu sự chuyển đổi diễn
ngôn lý luận, phê bình văn học cần được nghiên cứu theo quan điểm hệ thống
để đảm bảo tính lôgic và biện chứng của quá trình chuyển biến diễn ngôn trước
và sau đổi mới.
- Phương pháp loại hình: Phương pháp này được chúng tôi sử dụng trong
quá trình mô hình hóa các kiểu cấu trúc diễn ngôn lý luận, phê bình văn học trước
và sau đổi mới.
- Phương pháp miêu tả: Phương pháp này giúp chúng tôi có thể mô tả một
cách cụ thể thực tiễn lý luận, phê bình văn học thời kỳ đổi mới dưới ảnh hưởng
của chiến lược và trật tự diễn ngôn.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng sử dụng phối kết
hợp các thao tác trong nghiên cứu văn học nói chung và lý luận, phê bình nói
riêng như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, đối lập
5. Đóng góp của luận án
- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về lý
luận, phê bình văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới như một hình thức diễn ngôn.
- Từ góc độ diễn ngôn, luận án sẽ làm rõ thực tiễn lý luận, phê bình văn
học Việt Nam thời kì đổi mới thông qua vai trò của hệ thống quyền lực trong xã
hội và sự chuyển đổi của khung tri thức biểu hiện qua: các quan niệm văn học,
hệ thuật ngữ chủ đạo, các con đường vận dụng lý luận, phê bình đối với nghiên
cứu văn học. Từ đó luận án chỉ ra quy luật vận động, chuyển đổi diễn ngôn lý
luận, phê bình văn học Việt Nam đương đại.
- Luận án cũng góp phần chỉ ra những khả năng và thách thức trong sự
phát triển của diễn ngôn lý luận, phê bình văn học cũng như nền lý luận, phê
bình văn học Việt Nam trong tương lai.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, Các công trình khoa
học đã công bố có liên quan đến luận án, Nội dung của luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Lý luận, phê bình văn học như một hình thức diễn ngôn
Chương 3: Diễn ngôn lý luận, phê bình văn học thời kỳ đổi mới từ
nguyên tắc đối lập đến hội nhập đa phương
Chương 4: Diễn ngôn lý luận, phê bình văn học thời kỳ đổi mới từ
nguyên tắc chính trị sang học thuật
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những nghiên cứu lý luận, phê bình văn học Việt Nam thời kì đổi mới
Trong số các tài liệu nghiên cứu về lý luận, phê bình văn học Việt Nam
thời kỳ đổi mới đã thu thập được, chúng tôi nhận thấy: việc nghiên cứu lý luận
phê bình văn học thời kì đổi mới có thể chia làm ra ba hướng sau:
1.1.1 Hướng nghiên cứu lý luận, phê bình văn học Việt Nam thời kỳ
đổi mới bằng phương thức tổng thuật, sưu tầm tư liệu
Nghiên cứu lý luận, phê bình văn học thời kỳ đổi mới từ góc độ tổng
thuật, sưu tầm các tư liệu văn học nói chung cũng như lý luận, phê bình văn học
Việt Nam nói riêng là việc làm thiết thực và có nhiều ý nghĩa. Nó khẳng định
sự nghiệp đổi mới toàn diện trong lý luận, phê bình văn học đã và đang nhận
được những thành công to lớn. Hướng nghiên cứu này đánh dấu những đóng
góp của các nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thiện, Trịnh Bá Đĩnh, Cao Hồng …
1.1.2 Hướng nghiên cứu tập trung vào một hoặc một số vấn đề trong
lý luận, phê bình văn học thời kì đổi mới
Nội dung nghiên cứu về lý luận, phê bình văn học Việt Nam thời kỳ đổi
mới theo hướng này nhận được sự quan tâm của nhiều học giả như: Hà Minh
Đức, Phan Cự Đệ, Nguyễn Văn Long, Phong Lê, Phương Lựu, Trần Đình Sử,
Huỳnh Như Phương, Trần Hữu Tá, Đinh Xuân Dũng, Phan Trọng Thưởng,
Nguyễn Văn Dân, Nguyễn Đăng Điệp … Các nghiên cứu thường tập trung vào
một số vấn đề sau:
Thứ nhất, đó là sự khẳng định đổi mới là xu thế tất yếu, phù hợp với quy
luật phát triển chung. Thứ hai, văn học trong đó có lý luận, phê bình văn học
được đổi mới do Đảng thay đổi quan niệm và tư duy lãnh đạo văn học nghệ
thuật. Thứ ba, lý luận, phê bình văn học đổi mới như một nhu cầu tự thân. Thứ
tư, đổi mới do ảnh hưởng của lý thuyết văn học phương Tây được phép du
nhập. Thứ năm, trong nhiều bài nghiên cứu về lý luận, phê bình văn học thời kỳ
đổi mới, các tác giả đã thành thực chỉ ra những tồn tại, bất cập của lý luận, phê
bình văn học thời kì đổi mới. Thứ sáu, từ một phương diện được quan tâm của
thực tiễn đổi mới lý luận, phê bình văn học các nhà nghiên cứu đề xuất các biện
pháp để lý luận, phê bình văn học được phát triển và tiến kịp với thế giới.
1.1.3. Hướng nghiên cứu một cách toàn diện về thành tựu, hạn chế
cũng như khả năng phát triển của lý luận, phê bình văn học thời kì đổi mới
Hướng nghiên cứu về lý luận, phê bình văn học thời kì đổi mới một cách
toàn diện đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của các tác giả: Trần Đình Sử,
Phương Lựu, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Duy Bắc, Trịnh Bá Đĩnh, Cao Hồng
… Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều mặt của đời sống lý luận, phê
bình văn học thời kì đổi mới, chỉ ra được thành tựu cũng như hạn chế của một
giai đoạn lý luận, phê bình văn học nhiều biến động. Tuy nhiên, tất cả các công
trình đã nghiên cứu về lý luận, phê bình văn học Việt Nam thời kì đổi mới chủ
4
yếu quan tâm đến sự chuyển đổi về các quy luật, các khuynh hướng, thành tựu
cũng như hạn chế của lý luận, phê bình văn học mà chưa quan tâm đến vấn đề
quyền lực và ưu thế tri thức đối với thực tiễn lý luận, phê bình văn học. Cơ chế
nào trong đời sống xã hội cũng như hệ hình tri thức cụ thể nào có vai trò chính
tạo ra mạng lưới tổ chức, mạng lưới quy tắc quy định mọi phương thức biểu đạt
cũng như sự chuyển đổi của lý luận, phê bình văn học trong thực tiễn văn học
và cả trong đời sống?
1.2 Những nghiên cứu các phương diện của văn học Việt Nam từ góc
độ diễn ngôn
Việc sử dụng lý thuyết diễn ngôn trong nghiên cứu văn học Việt Nam đã
được nhà lý luận, phê bình văn học Trần Đình Sử, Lã Nguyên (La Khắc Hòa)
và các tác giả trẻ như Lê Thời Tân, Trần Thiện Khanh, Nguyễn Thị Hải
Phương, Nguyễn Thị Ngọc Minh, Hoàng Thị Thu Giang… quan tâm nghiên
cứu. Các công trình nghiên cứu này đã góp phần khẳng định: sử dụng diễn ngôn
trong nghiên cứu văn học hiện là hướng nghiên cứu mới, khả thi và hiệu quả.
1.3 Vấn đề đặt ra cho luận án
1.3.1 Việc nghiên cứu lý luận, phê bình văn học không chỉ là nghiên cứu
vấn đề bản chất hay quy luật, thành tựu hay hạn chế mà còn là vấn đề lý luận,
phê bình văn học xuất hiện để làm gì, hướng đến ai, thuyết phục ai và thuyết
phục bằng phương thức biểu đạt nào? Cơ chế xã hội và hệ hình tri thức nào
“cho phép” các phương thức biểu đạt của lý luận, phê bình văn học có thể đi
vào thực tiễn và trở thành ngôn ngữ chung của đời sống nghiên cứu văn học mà
không gặp trở ngại, vướng mắc? Câu hỏi đó sẽ được giải đáp khi nghiên cứu lý
luận, phê bình văn học như một hình thức diễn ngôn.
1.3.2 Đối với việc nghiên cứu văn học sử dụng lý thuyết diễn ngôn làm
phương tiện nghiên cứu ở Việt Nam chúng tôi nhận thấy: Thứ nhất: Lý thuyết
diễn ngôn mới chỉ được vận dụng để nghiên cứu một số nội dung của văn học
và thể loại văn học cụ thể như: diễn ngôn tính dục trong văn xuôi, diễn ngôn
của chủ nghĩa hậu thực dân, diễn ngôn về xứ thuộc địa, diễn ngôn tiểu thuyết,
diễn ngôn ký, diễn ngôn truyện ngắn… mà chưa quan tâm đến diễn ngôn lý
luận, phê bình văn học một cách hệ thống. Thứ hai: Các công trình đã nghiên
cứu vận dụng diễn ngôn với tư cách là lý thuyết thể loại của văn học quan tâm
đến các vấn đề như: mã tư tưởng hệ, mã thể loại trong diễn ngôn, trường diễn
ngôn, trường tri thức trong diễn ngôn, diễn ngôn trung tâm, diễn ngôn ngoại
biên… trong những phạm vi cụ thể của văn học mà chưa quan tâm thích đáng
đến các chiến lược và trật tự của lý thuyết diễn ngôn trong việc quy định các
nguyên tắc tổ chức, kiến tạo diễn ngôn.
1.3.3 Nghiên cứu sự chuyển đổi diễn ngôn lý luận, phê bình văn học thời
kỳ đổi mới chính là một con đường mô tả lại quá trình thay đổi của thực tiễn lý
luận, phê bình trên nền tảng của các khung tri thức và hệ thống quyền lực trong
các giai đoạn lịch sử khác nhau của văn học.
5
CHƯƠNG 2
LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC NHƯ MỘT HÌNH THỨC DIỄN NGÔN
2.1. Khái niệm diễn ngôn
Cho đến nay, mặc dù khái niệm diễn ngôn đã trở nên phổ biến, song việc
định nghĩa thế nào là “diễn ngôn” lại vẫn chưa có câu trả lời hoàn toàn thống
nhất. Các công trình nghiên cứu sử dụng diễn ngôn làm cơ sở lý thuyết đều căn
cứ vào nhiệm vụ cụ thể của mình mà đưa ra định nghĩa về diễn ngôn. Do đó,
khi I.P.Ilin và E.A Tzurganova trong Các khái niệm và thuật ngữ của các
trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỉ 20 cho rằng: “Diễn
ngôn được lý giải như một quá trình kí hiệu học, được thực hiện ở những dạng
thức thực tiễn diễn ngôn khác nhau” cũng có nghĩa là thừa nhận diễn ngôn như
một phạm trù mở, khó hoàn kết và thống nhất trong một định nghĩa duy nhất.
2.1.1. Diễn ngôn trong ngôn ngữ học
Sự xuất hiện của thuật ngữ diễn ngôn khiến cho các nhà ngôn ngữ học
không thể không tiến hành phân biệt ngôn ngữ và diễn ngôn. Các nhà ngữ học
như: Emil Benviniste, Zeling Harris, Giilian Brown, George Yule, M.A.K
Halliday, David Nunan, Cook đã quan niệm diễn ngôn như một phạm trù
không đồng nhất với ngôn ngữ nhưng lại có liên quan chặt chẽ với ngôn ngữ và
các chức năng ngôn ngữ. Từ đó, họ coi diễn ngôn là một đơn vị ngôn ngữ trên
câu và phụ thuộc phần lớn vào ngữ cảnh cố định.
2.1.2. Diễn ngôn theo quan niệm xã hội học
Từ góc độ xã hội học, diễn ngôn là một hiện tượng văn hóa, xã hội, ý thức
hệ. Nó không phải là công cụ, không phải hình thức ngôn ngữ, mà là bản thân
thực tiễn được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ.
- Quan niệm của M. Bakhtin (1895 - 1975)
Lý thuyết diễn ngôn của Bakhtin tập trung chủ yếu vào việc phủ định sự
đồng nhất diễn ngôn và ngôn ngữ (lời nói).Với M.Bakhtin, diễn ngôn là lời nói
thấm đẫm tư tưởng hệ. Nó được hiểu là một hiện tượng xã hội, không có tác
giả, có mở đầu và có thể chưa có kết thúc.
- Quan niệm của Michel Foucault (1926 – 1984)
Theo M.Foucault, sự biểu hiện ra bên ngoài của diễn ngôn là một hình
thức ngôn ngữ, nhưng nó không phải là một vấn đề ngôn ngữ thuần túy. Diễn
ngôn được hiểu như một hành động hoặc như một sự kiện và được hình thành
trong sự tương tác phức tạp giữa tri thức và quyền lực.
Thông qua việc phân tích diễn ngôn, Foucault chỉ ra rằng, mỗi người đều
biết rất rõ là mình không có quyền nói tất cả mọi thứ, không thể nói về bất cứ
điều gì ở trong bất kỳ hoàn cảnh nào giao tiếp nào. Đây là cơ sở quan trọng để
ông khẳng định bản chất của diễn ngôn là phải có trật tự. Trong trật tự, diễn
ngôn sẽ “ban bố” các phạm vi cấm kị trên – dưới, được phép – không được
phép đối với các hành vi giao tiếp của con người trong thực tiễn. Các phạm vi
cấm đoán đó mang chức năng biểu đạt, ban bố các chủ đề, giới hạn trong diễn
ngôn và là “hành lang pháp lý” trong việc thực hiện các chiến lược diễn ngôn.
6
- Một số quan niệm của các học giả cùng hướng khác
T.A Van Dijk quan niệm: “Diễn ngôn là sự kiện giao tiếp diễn ra giữa
người nói và người nghe (người quan sát…) trong tiến trình hoạt động giao tiếp
ở một ngữ cảnh thời gian, không gian, hay những ngữ cảnh khác nào đó.
V. Chiupa cho rằng “diễn ngôn” - là phát ngôn, hành động lời nói tạo sinh
văn bản gồm người nghe bình đẳng với người nói và được xem là sự kiện giao
tiếp tương tác văn hoá xã hội.
Với các nhà nghiên cứu Trung Quốc như Cao Ngọc, Nam Phàm… thì sự
xuất hiện của khái niệm diễn ngôn đồng nghĩa với sự nảy sinh một mô hình
nghiên cứu mới trong lịch sử khoa học – mô hình học thuật “diễn ngôn luận”.
Trước sự ra đời của “diễn ngôn luận”, khoa học đã sử dụng hai hệ hình nghiên
cứu là “bản thể luận” và “nhận thức luận”. “Diễn ngôn luận” là mô hình học
thuật nghiên cứu tư tưởng của con người trong thực tiễn biểu đạt.
2.1.3 Quan niệm diễn ngôn của luận án
Diễn ngôn là thực tiễn giao tiếp của con người trong đời sống xã hội. Đó là
hệ thống siêu ngôn ngữ được hiện diện qua văn bản hoặc phi văn bản về một
chủ đề nào đó trong đời sống như chính trị, quân sự, đạo đức, kinh tế, nghệ
thuật, văn học… Mỗi chủ đề tạo thành một đơn vị diễn ngôn. Tổng hòa các đơn
vị diễn ngôn tạo thành hệ thống diễn ngôn trong xã hội. Hệ thống diễn ngôn
này chịu sự tác động của cơ chế quyền lực và trạng thái tri thức mà quy định
thực tiễn phát ngôn của con người bằng những nguyên tắc căn bản trong cách
dùng từ, diễn đạt, kiến tạo văn bản và kết hợp các hệ thuật ngữ của một giai
đoạn lịch sử hoặc một thời đại. Diễn ngôn do đó chính là bản thể tư tưởng của
con người trong thực tiễn luận bàn, diễn giải các vấn đề trong đời sống cũng
như học thuật một cách có chiến lược, tuân theo trật tự và mang tính liên văn
bản.
Khái niệm diễn ngôn có thể được tiếp cận qua những nội dung sau:
Thứ nhất, diễn ngôn không phải là ngôn ngữ theo nghĩa thuần khiết. Đây
là điều mà M. Foucault cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác trong suốt quá
trình phân tích diễn ngôn luôn khẳng định. Thứ hai, diễn ngôn có tính thực tiễn.
Trong một bối cảnh cụ thể nó là một thực tại đã biết, đã được chuẩn hóa. Vì
vậy, phân tích diễn ngôn là phân tích các cơ chế quyền lực của xã hội, chính trị,
tâm lí, ý thức hệ, lịch sử, văn hóa, tri thức ẩn chìm trong diễn ngôn nhưng lại
tác động mạnh mẽ đến các hành vi hiển ngôn của con người. Thứ ba, diễn ngôn
là khái niệm liên quan chặt chẽ đến văn bản, là nguyên tắc sản sinh văn bản.
Nhưng diễn ngôn không phải là văn bản. Giữa văn bản và diễn ngôn luôn tồn
tại khoảng cách khi văn bản có tác giả, có ý nghĩa, có phạm vi sử dụng, văn bản
có giới hạn ít nhất là về mặt kết cấu và câu chữ còn diễn ngôn thì không có tác
giả cụ thể và có thể không có giới hạn. Tuy nhiên, phương thức tồn tại của văn
bản lại là liên văn bản nên diễn ngôn còn có tính chất liên văn bản, liên chủ thể.
Thứ tư, diễn ngôn là khái niệm có tính chỉnh thể, hệ thống. Diễn ngôn được tạo
ra bằng sự liên kết trong tổng hoà các nhân tố ngoài ngôn ngữ, xã hội học, tâm
7
lí học…và các nhân tố khác. Thứ năm, diễn ngôn mang tính chủ thể xã hội.
Diễn ngôn không bao gồm tất cả những khác biệt cá nhân, nó tồn tại như một
ngôn ngữ chung. Thứ sáu, diễn ngôn là khái niệm có tính chiến lược và trật tự.
Bằng chiến lược và trật tự, diễn ngôn có khả năng kiểm soát và loại trừ cũng
như liên kết tư tưởng và hành vi của con người trong thực tiễn.
Chiến lược và trật tự diễn ngôn cũng là phương diện lý thuyết được chúng
tôi đặc biệt quan tâm sử dụng để giải quyết vấn đề của luận án.
2.2 Chiến lược và trật tự diễn ngôn
2.2.1 Chiến lược diễn ngôn
Chiến lược trong diễn ngôn chính là mục đích, ý đồ, phương thức chọn
điểm xuất phát, đối tượng hướng tới, mục tiêu cô lập hay liên kết các chủ thể
trong thực tiễn giao tiếp. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự diễn ngôn và là
nhân tố trung tâm điều khiển mọi sự lựa chọn cũng như khả năng biểu đạt bằng
ngôn từ cụ thể trong thực tiễn giao tiếp. Trong thực tế, khi diễn ngôn chuyển
qua một chiến lược giao tiếp mới cũng có nghĩa là “kết thúc” phát ngôn (diễn
ngôn) theo kiểu cũ, bắt đầu “phát ngôn” (diễn ngôn) theo phương thức mới.
2.2.2 Trật tự diễn ngôn
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều khẳng định diễn ngôn có trật tự. Trật tự
diễn ngôn ảnh hưởng đến giới hạn biểu đạt (cấm – không cấm; được phép –
không được phép) (M.Foucault) và cấu trúc (cấu trúc văn bản) biểu đạt (Van
Dijk). Trật tự có nghĩa là “sắp xếp theo một thứ tự, một quy tắc nhất định” có
tính chất “ổn định”, có “tổ chức”, có “kỷ luật”. Trật tự diễn ngôn tác động sâu
sắc đến các cơ chế hoạt động, nguyên tắc tổ chức, thực hành trong thực tiễn lời
nói cũng như văn bản. Trật tự diễn ngôn có hai tính năng quan trọng: Thứ nhất,
trong trật tự diễn ngôn không phải điều gì cũng có thể nói (cấm kỵ về mặt đối
tượng), không phải ai cũng được quyền nói (đặc quyền của chủ thể nói) và
không phải lúc nào cũng có thể nói (điều kiện của hoàn cảnh nói). Thứ hai, trật
tự diễn ngôn định hướng cho những liên kết trong văn bản, những sắp xếp theo
một chỉ dẫn nhất định nhằm hướng tới việc thực hiện chiến lược giao tiếp. Trật
tự diễn ngôn cũng chính là hành trình “cấp nghĩa” hợp pháp cho các thuật ngữ
trong mỗi một thiết chế quyền lực và khung tri thức khác nhau.
2.3. Khái niệm diễn ngôn lý luận, phê bình văn học
2.3.1. Lý luận, phê bình văn học và diễn ngôn lý luận, phê bình văn học
Lý luận, phê bình văn học thường được hiểu là các quy luật, bản chất của
văn học ở bình diện nhận thức luận. Còn diễn ngôn lý luận, phê bình văn học là
khái niệm có tính lịch sử và thực tiễn. Đó là hệ thống tri thức có thể được biểu
đạt qua từ, cụm từ, câu. Nó có tính thuật ngữ và tạo thành một cơ chế biểu đạt
về một nội dung văn học nào đó cũng như những giới hạn ảnh hưởng của nó
tới văn học và các vấn đề khác của văn học. Diễn ngôn lý luận, phê bình văn
học cũng chính là quy tắc biểu đạt về cách kiến tạo các mô hình nghiên cứu
văn học,, các cách đánh giá về văn học. Các quy tắc biểu đạt về mô hình
nghiên cứu văn học và các cách đánh giá về văn học không chỉ tồn tồn tại
8
trong hoạt động lý luận, phê bình văn học thuần túy mà nó tồn tại cả trong các
lĩnh vực khác của xã hội. Vì thế, diễn ngôn lý luận, phê bình văn học là khái
niệm có tính chất liên văn bản, liên chủ thể.
Nhìn lý luận, phê bình văn học với tư cách là một diễn ngôn sẽ cho thấy:
lịch sử văn học luôn là một thực tiễn sống động của mọi sự đổi thay, thậm chí
mất đi một số thuật ngữ cũ và sự sinh sôi, nảy nở của những thuật ngữ mới về
văn học. Vì vậy, trong từng giai đoạn lịch sử, khi một diễn ngôn lý luận, phê
bình văn học nào đó tỏ ra có ưu thế và chi phối tới các hoạt động văn học khác
bằng các công thức, các quy phạm trong mọi biểu đạt về văn học thì điều đó
chứng tỏ chiến lược của nó đã thay thế được chiến lược cũ, trật tự mới của nó tất
yếu cũng trở thành cơ chế biểu đạt chủ đạo trong thực tiễn nghiên cứu, đánh giá
văn học.
2.3.2. Những tiền đề chuyển đổi diễn ngôn lý luận phê bình văn học
2.3.2.1. Bối cảnh văn hóa xã hội
Bối cảnh văn hóa xã hội thời kỳ đổi mới là bối cảnh “toàn cầu hóa”.
Trọng tâm của “toàn cầu hóa” chính là xu hướng hội nhập đa phương trong mọi
mặt của đời sống xã hội. Nó đã tác động sâu sắc đến tính chất và cấu trúc của
hệ thống diễn ngôn của xã hội trong đó có diễn ngôn lý luận, phê bình văn học.
2.3.2.2. Bối cảnh tri thức
Tri thức là một yếu tố quan trọng cấu thành diễn ngôn. Thời kỳ đổi mới,
hệ thống tri thức của ta được phong phú nhờ sự phát triển của khoa học công
nghệ, của Internet, hoạt động dịch thuật và những chuyển động của chính bản
thân lý luận, phê bình văn học. Thực tiễn này đã trở thành cơ sở, động lực mạnh
mẽ cho sự chuyển đổi của diễn ngôn lý luận, phê bình văn học sau 1986 từ đối
lập đến hội nhập đa phương, từ chính trị sang học thuật như một tất yếu khách
quan và cũng là một nhu cầu tự thân của lý luận, phê bình văn học.
2.3.2.3. Sự chuyển đổi diễn ngôn của Đảng cộng sản Việt Nam về lý
luận, phê bình văn học
Trước đổi mới, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin diễn ngôn
về văn học của Đảng chủ yếu tập trung nhấn mạnh việc xây dựng một nền văn
học cũng như lý luận, phê bình văn học “phục vụ chính trị”, phục vụ công cuộc
kháng chiến của nước nhà. Từ đó, nó tạo ra một hệ thống lý luận, phê bình văn
học mang tính tiêu chuẩn, quy phạm cao. Từ thời kỳ đổi mới (1986), nói tới văn
học, Đảng quan niệm đó là “nhân tố góp phần” có nghĩa là không bó khuôn văn
học như một công cụ thuần túy nữa. Văn học đồng nghĩa với “tự do sáng tạo” –
tức là khuyến khích văn học phát triển theo khuynh hướng nghệ thuật chân
chính. Đặc biệt, trong tư duy mới, với chủ trương phát triển một nền văn học
cũng như lý luận, phê bình văn học tiên tiến, hiện đại Đảng đã khuyến khích
văn học mở rộng biên độ giao lưu, tiếp thu những nhân tố tích cực của văn học
phương Đông và phương Tây. Điều này đã tạo điều kiện cho việc kiến tạo diễn
ngôn lý luận, phê bình văn học chuyển đổi từ nguyên tắc đối lập đến hội nhập
đa phương, từ chính trị sang học thuật một cách mạnh mẽ, sâu sắc.
9
CHƯƠNG 3
DIỄN NGÔN LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ
NGUYÊN TẮC ĐỐI LẬP ĐẾN HỘI NHẬP ĐA PHƯƠNG
3.1. Nguyên tắc đối lập trong kiến tạo diễn ngôn lý luận, phê bình văn
học trước đổi mới
3.1.1. Chiến lược diễn ngôn theo nguyên tắc đối lập
Trước đổi mới, sự xuất hiện của nguyên lý lý luận văn học theo quan
điểm Mác - Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng “thay đổi hệ hình” quan trọng
nhất của diễn ngôn lý luận, phê bình văn học Việt Nam trước đổi mới. Thực
tiễn lý luận, phê bình văn học hoạt động thống nhất một hình thái nghiên cứu
văn học theo quan điểm văn học của Mác – Lênin. Đặc biệt, hệ thống tri thức
này lại được triển khai trong sự đối địch với các lý luận, phê bình phương Tây
dưới danh nghĩa lý luận ngoài/phi Mác - Lênin, lý luận tư sản hoặc lý luận xét
lại… Do vậy, nó trở thành cơ sở cho việc hình thành nguyên tắc đối lập trong
chiến lược kiến tạo diễn ngôn lý luận, phê bình văn học trước đổi mới.
Trong nguyên tắc này, toàn bộ lý luận, phê bình văn học Mác – Lênin
được đặt vào cái đúng, tiến bộ và cách mạng. Đồng thời, đẩy các lý luận khác,
đặc biệt là lý luận tư sản phương Tây về phía đối lập, coi nó là một trở ngại cho
sự phát triển của những tư tưởng tiến bộ, nhất là của chủ nghĩa Mác. Nó đưa lý
luận, phê bình văn học Mác xít và các lý luận đồng chất khác vào vị trí thống
soái, có tính chất toàn năng và trở thành siêu lý luận. Chiến lược này đã làm cho
trật tự diễn ngôn lý luận, phê bình văn học trước đổi mới trở nên nhiều ràng
buộc nhất, nhiều “cấm kị” nhất và cũng dễ nhận diện nhất.
3.2.2. Trật tự diễn ngôn theo nguyên tắc đối lập
Trên cơ sở đối lập mà trật tự diễn ngôn sẽ phân cấp một cách triệt để giữa
việc đề cao tri thức được lựa chọn và hạ thấp hoặc phủ định tri thức không được
lựa chọn trong thực tiễn lý luận, phê bình văn học trước đổi mới.
3.2.2.1. Tri thức lý luận, phê bình văn học Mác – Lênin trong trật tự
diễn ngôn
Chiến lược diễn ngôn theo nguyên tắc đối lập khiến trật tự diễn ngôn
trước đổi mới đề cao tuyệt đối tri thức được lựa chọn. Nó quy định lý luận, phê
bình văn học theo quan điểm của Mác - Lênin, của các nhà lãnh đạo của Đảng
là hệ thống lý luận hoàn chỉnh, tiên tiến, khoa học, là kim chỉ nam và ngọn
nguồn sáng tạo. Điều này được thể hiện qua hàng loạt các công thức dùng từ
nhất, đảm bảo, tự hào, chắc chắn, tin tưởng… khi biểu đạt về vai trò, vị trí của
lý luận, phê bình văn học theo quan điểm Mác – Lênin. Đặc biệt, để thắt chặt
nguyên tắc đối lập, trật tự diễn ngôn lý luận, phê bình văn học trước đổi mới
còn lựa chọn một hệ thống từ ngữ có tính mệnh lệnh, yêu cầu hay có ý bắt buộc
trong biểu đạt về lý luận, phê bình văn học như: “phải là”, “cần”, “cần phải”,
10
“phục tùng”, “phục vụ”… tạo ra một mạng lưới “quyền lực” trong biểu đạt chắc
chắn và hiệu quả thực tiễn lý luận, phê bình văn học theo quan điểm Mác –
Lênin trước đổi mới.
Nguyên tắc đối lập trong trật tự diễn ngôn lý luận, phê bình văn học còn
được ghi dấu qua công thức biểu đạt “nhân danh tập thể”, “nhân danh nhân loại
tiến bộ, khoa học” là ý thức của cái ta, của số đông. Chủ thể diễn ngôn được
nhận diện qua ý thức tập thể: Đảng, nhân dân, quần chúng, chúng ta, anh chị
em, các đồng chí, anh chị em nghệ sĩ …
Có thể nói, trong trật tự diễn ngôn lý luận, phê bình văn học trước đổi
mới, vị trí của lý luận, phê bình văn học Mác – Lênin trong diễn ngôn có ý
nghĩa toàn năng, khép kín. Nó góp phần hình thành một thời đại lý luận, phê
bình văn học với hệ thuật ngữ chủ đạo và những chủ đề nghiên cứu đặc thù và
khoanh vùng mọi biểu đạt của lý luận, phê bình văn học trong không gian của
lý luận, phê bình văn học theo quan điểm Mác – Lênin. Điều này được thể hiện
rõ trong thực tiễn lý luận, phê bình văn học trước đổi mới từ các giáo trình lý
luận, các chuyên luận văn học đến các bài giảng trong các trường Chính trị, các
bài nghiên cứu trên báo và tạp chí.
3.1.2.2. Tri thức lý luận, phê bình văn học phương Tây trong trật tự
diễn ngôn
Lấy lý luận, phê bình văn học Mác - Lênin làm chuẩn mực, các lý thuyết văn
học phương Tây trong diễn ngôn bị đưa vào vị trí đối lập, bị phản đối rất gay
gắt và bị quy chụp vào “tư tưởng tư sản phản động hiện đại”, “suy đồi” trái với
quan điểm duy vật biện chứng. Thiết chế này khiến cho tất cả các hoạt động văn
học ảnh hưởng bởi lý luận tư sản phương Tây cũng bị phê phán, cảnh giác một
cách triệt để. Một bộ phận trong văn học đô thị miền Nam Việt Nam chịu ảnh
hưởng từ phương Tây đã bị coi là “nấm độc”, là “nọc độc văn hóa nô dịch”, là
“đồi trụy” hay “một thứ văn học vì mục đích đồng tiền”. Quan niệm như vậy
còn tất yếu dẫn đến thái độ có phần phần khinh bạc, coi thường thậm chí hạ
thấp trong diễn ngôn biểu đạt về các nhà lý luận, phê bình văn học phương Tây.
Đó là khi các nhà nghiên cứu đương thời gọi họ là: “chúng”, “bọn”, “nó”, “y”,
“bọn bịp bợm”, “bọn thông thái dởm” … coi khoa học chỉ như trò phù thủy. Vì
vậy, các thuật ngữ như “lệch lạc”, “phản động”, “phản tiến bộ”, “đi ngược” …
trong diễn ngôn lý luận, phê bình văn học trở thành công thức biểu đạt về chủ
nghĩa hiện sinh, cấu trúc, phân tâm, thực dụng, phê bình mới – những lý luận tiêu
biểu của phương Tây thời đó. Điều này cũng đồng nghĩa với việc trong diễn
ngôn lý luận, phê bình văn học Việt Nam trước đổi mới không có sự đối thoại
đồng hướng giữa hệ thống lý luận, phê bình văn học Mác - Lênin và các lý
thuyết văn học tư sản phương Tây. Thái độ của các nhà nghiên cứu thời kỳ này
chủ yếu là “khước từ” và “phê phán”. Do đó, trước 1986 các diễn ngôn tư sản
phương Tây hầu như không phát triển được. Nó được đưa vào tính thế phải
“cáo phó” ngay khi vừa có mong muốn “nảy nở”.
11
Có khẳng định rằng, trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của xã hội Việt Nam
những năm trước đổi mới, nguyên tắc đối lập đã tạo ra một trật tự diễn ngôn
chặt chẽ và mang tính quy phạm cao. Nó chứng tỏ ưu thế tuyệt đối của tri thức
lý luận, phê bình văn học theo quan điểm Mác – Lênin so với các tri thức lý
luận, phê bình khác trong trật tự diễn ngôn. Mặc dù vậy, kiến tạo diễn ngôn
theo nguyên tắc đối lập sẽ làm cho văn học, lý luận, phê bình văn học mới chỉ
thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình đối với các công tác xã hội, còn
vai trò đối với sự phát triển nghệ thuật theo nghĩa hình thức thể hiện thì chưa
được quan tâm thích đáng. Diễn ngôn lý luận, phê bình văn học có phần thiếu
khách quan khi triển khai các quan điểm văn học của lý luận, phê bình văn học
tư sản phương Tây trong thực tiễn.
3.2. Nguyên tắc hội nhập đa phương – bước ngoặt chuyển đổi diễn
ngôn lý luận, phê bình văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới
3.2.1. Chiến lược diễn ngôn theo nguyên tắc hội nhập đa phương
Bối cảnh toàn cầu hóa về kinh tế, văn hóa và khoa học cùng sự đổi mới tư
duy lãnh đạo văn học nghệ thuật của Đảng sau 1986 đã tác động sâu sắc đến đời
sống văn hóa và tình hình học thuật trong nước trong đó có văn học và lý luận,
phê bình văn học. Tinh thần đổi mới của Đảng đã trực tiếp khơi nguồn và tạo
điều kiện cho văn học nói chung và lý luận, phê bình văn học nói riêng thay đổi
theo hướng dân chủ hóa. Tinh thần dân chủ tất yếu sẽ thừa nhận tư tưởng riêng,
cách lý giải riêng của mỗi người. Nguyên nhân cơ bản trên buộc diễn ngôn phải
thay đổi chiến lược nếu không muốn rơi vào hoàn cảnh giao lưu mà không biết,
không hiểu người khác nói gì. Đó chính là sự thay đổi từ chiến lược đối lập
sang hội nhập đa phương trong kiến tạo diễn ngôn lý luận, phê bình văn học
Việt Nam từ thời kỳ đổi mới. Chiến lược này gồm hai mục tiêu quan trọng là:
chấp nhận khác biệt (khác Mác - Lênin) và nâng cao đối thoại giữa các truyền
thống lý luận, phê bình văn học khác nhau trên thế giới trong không gian lý
luận, phê bình văn học sau đổi mới.
Với chiến lược hội nhập đa phương, diễn ngôn đã chuyển từ nguyên tắc
lựa chọn tri thức lý luận văn học Mác – Lênin và các lý luận đồng chất sang khả
năng lựa chọn nhiều tri thức lý luận, phê bình văn học tiến bộ toàn nhân loại.
Dẫn đến, từ thời kỳ đổi mới đến nay, nội dung diễn ngôn không chỉ có lý luận,
phê bình văn học Mác - Lênin là “tốt nhất”, “niềm tin duy nhất” mà là sự tương
tác về ưu thế giữa các hệ thống tri thức lý luận, phê bình văn học khác nhau trên
thế giới.
3.2.2. Trật tự diễn ngôn theo nguyên tắc hội nhập đa phương
3.2.2.1. Tri thức lý luận, phê bình văn học Mác - Lênin trong trật tự
diễn ngôn
Chủ trương kiên trì “định hướng xã hội chủ nghĩa” của Đảng ta trong thời
kỳ đổi mới tiếp tục khẳng định ví trí trung tâm, nền tảng của lý luận, phê bình
văn học Mác xít đối với nền văn học dân tộc. Để giữ vững vị trí đó, diễn ngôn
12
lý luận, phê bình văn học Mác xít không thể không tự đổi thay và có những ứng
xử phù hợp với tình hình văn học trong và ngoài nước.
Do vậy, tuân thủ nguyên tắc tiến hành cách mạng khoa học, quá trình tự
đổi mới của diễn ngôn lý luận, phê bình văn học Mác - Lênin với ý nghĩa tiếp
tục củng cố địa vị trung tâm đã được bắt đầu từ việc khắc phục những nguyên
lý giáo điều, xơ cứng. Quá trình đó được tập trung trên nhiều bình diện mà
trong giới hạn của luận án, chúng tôi chỉ tập trung mô tả sự chuyển đổi diễn
ngôn qua ba bình diện theo chúng tôi là cốt lõi và quan trọng nhất của diễn
ngôn lý luận, phê bình văn học theo quan niệm Mác – Lênin. Thứ nhất, sự
chuyển đổi các thuật ngữ biểu đạt về mối quan hệ giữa văn học và chính trị: Sự
thay đổi lớn nhất trong phương thức biểu đạt về mối quan hệ giữa văn học và
chính trị là các thuật ngữ chủ đạo chuyển từ “phục vụ, phục tùng chính trị” sang
“định hướng chính trị” (văn kiện Đảng VII). Điều này cho thấy “Chính trị” vẫn
là vấn đề sống còn của lý luận, phê bình văn học Việt Nam đương đại. Nhưng
chuyển từ “phục tùng”, “phục vụ” sang “định hướng” đã khiến cho thực tiễn
nghiên cứu văn học Việt Nam được đi đúng quỹ đạo học thuật mà vẫn dự phần
không nhỏ vào việc chuyển hóa các mục tiêu, chính sách của Đảng và Nhà
nước về văn hóa và văn học nghệ thuật trong thực tiễn. Thứ hai, sự chuyển đổi
các thuật ngữ biểu đạt về phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn
học: Việc nhìn nhận lại vai trò, vị trí của phương pháp hiện thực xã hội chủ
nghĩa trong văn học là một đổi mới quan trọng trong diễn ngôn lý luận, phê
bình văn học sau 1986. Nó đã phá vỡ tư tưởng độc tôn lý thuyết của diễn ngôn
văn học trước đổi mới. Trong diễn ngôn mới, lý luận về phương pháp hiện thực
xã hội chủ nghĩa chỉ là một lý luận giữa rất nhiều lý luận khác. Thứ ba,sự
chuyển đổi các thuật ngữ biểu đạt về lý luận, phê bình văn học Mác phương
Tây: Trước đây, diễn ngôn lý luận, phê bình văn học ở ta tồn tại sự đánh đồng
giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và toàn bộ chủ nghĩa Mác nên những gì đi ngược
với chủ trương của Lênin bị cho là “phản mác xít” hoặc “mác xít giả hiệu” thì
sau đổi mới, trên tinh thần khách quan diễn ngôn lại chính thức quan niệm đó là
“chủ nghĩa Mác phương Tây”.
Có thể nói, sự đổi thay trật tự diễn ngôn lý luận, phê bình văn học Mác -
Lênin là sự đổi thay phù hợp với quy luật phát triển khách quan của khoa học
văn học. Sự nhìn nhận lại và mở rộng quan điểm học thuật trong diễn ngôn lý
luận, phê bình văn học theo quan điểm Mác - Lênin có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với sự phát triển của văn học Việt Nam trong đó có lý luận, phê bình
văn học. Thậm chí, với tinh thần dân chủ, khách quan mà chính các đường lối
văn nghệ của Đảng, các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết cũng được đưa ra để
nghiên cứu những mặt còn hạn chế. Đây là một điều khó có thể tìm thấy trong
diễn ngôn cũng như thực tiễn nghiên cứu văn học trước đổi mới.
Trong ý nghĩa đó, chúng tôi nhận thấy ngoài sự tác động của trật tự diễn
ngôn đối với việc lựa chọn nội dung thì cách thức tổ chức văn bản cũng buộc
phải tổ chức lại để phù hợp với cơ chế, trật tự diễn ngôn mới. Từ Nhan đề, Lời
13
nói đầu, nội dung triển khai, nội dung trích dẫn tư liệu, Thư mục tham khảo …
trong các công trình nghiên cứu lớn, nhỏ đều có sự cấu trúc lại. Thực tiễn này
đã tạo ra bộ mặt, diện mạo mới cho lý luận, phê bình văn học Việt Nam đương đại.
3.2.2.2. Tri thức lý luận, phê bình văn học thế giới trong trật tự diễn ngôn
Đặt trong bối cảnh giao lưu toàn cầu, diễn ngôn lý luận, phê bình không
thể chỉ là không gian đến từ một chân trời. Nó cần được mở rộng từ “chân trời
nhiều phía”. Do vậy, trật tự diễn ngôn lý luận, phê bình văn học xuất hiện sự
thỏa thuận giữa nhiều tri thức lý luận, phê bình văn học. Do đó, lý luận, phê
bình văn học Mác – Lênin vẫn còn nguyên giá trị nhưng không còn là con
đường duy nhất để tiếp cận văn bản nghệ thuật.
Đối thoại đa phương đã khiến cho các lý thuyết buộc phải thừa nhận khả
năng tới hạn của mình trong việc lý giải các vấn đề của khoa học văn học. Đối
thoại đa phương giúp các tri thức khẳng định mặt mạnh, khắc phục khiếm
khuyết, thừa nhận các tri thức khác khi cùng giải quyết một vấn đề khoa học
văn học. Trong ý nghĩa đó, sự xuất hiện của thi pháp học trong diễn ngôn lý
luận, phê bình đã góp công đầu cho quá trình quy hoạch “không gian văn học”
để “chia ô” cho các tri thức khác như: cấu trúc, ngôn ngữ, tự sự, ký hiệu… Từ
đó góp phần nâng cao giá trị của đối thoại đa phương cũng như sự thương thỏa
quyền lực học thuật giữa các hệ thống tri thức trong chiến lược và trật tự diễn
ngôn lý luận, phê bình văn học.
Tuy nhiên, chiến lược hội nhập đa phương của diễn ngôn lý luận, phê
bình văn học sau 1986 với khả năng đối thoại mới có nhiều chỗ, nhiều lúc chưa
thật sự triệt để và đúng nghĩa. Trong khả năng đối thoại của diễn ngôn lý luận,
phê bình mới chỉ là sự thể hiện quyền lực của những “sự tồn tại khác”, còn
quyền lực “phản biện”, “đồng sáng tạo” chưa được phát huy cao độ. Do vậy,
đối thoại nhưng phải có phê phán, chọn lọc cần được quán triệt như một nguyên
lý cho sự phát triển diễn ngôn lý luận, phê bình văn học Việt Nam đương đại.
3.3. Hội nhập đa phương và không gian văn hóa trong diễn ngôn lý
luận, phê bình văn học thời kỳ đổi mới
Trong sự chuyển đổi diễn ngôn lý luận, phê bình văn học Việt Nam từ
thời kỳ đổi mới đến nay theo nguyên tắc hội nhập đa phương, ngoài sự mở rộng
các phạm vi tri thức riêng của lý luận, phê bình văn học, còn có một thực tiễn
được nảy nở và phát triển ngày càng sâu rộng trong diễn ngôn, đó là vấn đề văn
hóa trong mối quan hệ với văn học. Điểm đặc biệt của vấn đề văn hóa trong
diễn ngôn là tri thức về nó đã được tiếp nhận và kết hợp một cách linh hoạt trên
nền tảng quan điểm văn hóa của chủ nghĩa Mác – Lênin và các lý thuyết văn
hóa, văn học hiên đại khác. Điều này tạo cơ sở vững chắc cho các vấn đề của
văn hóa được khai thác trên nhiều bình diện, góc độ, góp phần mở rộng khả
năng nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa. Đồng thời nó cũng góp phần
quan trọng nhất để thực hiện các chính sách về văn hóa của Đảng thời kỳ đổi
mới và hội nhập.
3.3.1. Chiến lược chú trọng đặc biệt đến vấn đề văn hóa trong diễn ngôn
14
Văn học nghệ thuật cùng với triết học, tôn giáo, phong tục, đạo đức… là những
bộ phận hợp thành của cấu trúc văn hóa. Văn học chính là gương mặt ngôn từ
của văn hóa. Mặt khác, văn hoá học với tư cách là khoa học nghiên cứu văn hoá
trong tính thống nhất đa dạng của nó không thể không quan tâm đến văn học -
một trong những bộ phận nhạy cảm và trọng yếu của văn hoá, nhất là đối với
những nền văn hoá mà văn học đóng vai trò đặc biệt quan trọng như văn hóa
Việt Nam.
Sau đổi mới, Đảng chú trọng đặc biệt đến việc phát triển hướng nghiên
cứu văn hóa trong văn học nghệ thuật. Bởi, trong bối cảnh giao lưu hội nhập,
vấn đề bảo tồn và phát triển văn hóa có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Bên cạnh
đó, cũng từ thời kỳ đổi mới, tri thức về văn hóa cũng được quan niệm cụ thể
hơn. Văn hóa được quan niệm là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra nhằm mục đích phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của con
người. Có thể nói, cơ sở chính trị xã hội và những tri thức có được về văn hóa
khiến “văn hóa” trở thành một chiến lược quan trọng của diễn ngôn lý luận, phê
bình văn học thời kỳ đổi mới và tạo ra một không gian nghiên cứu đặc thù trong
trật tự diễn ngôn lý luận, phê bình văn học đương đại – không gian văn hóa.
3.3.2. Không gian văn hóa trong trật tự diễn ngôn
Trong trật tự diễn ngôn lý luận, phê bình thời kỳ đổi mới, sự lên ngôi của
thuật ngữ “văn hóa” hay “nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, “bản
sắc dân tộc”, “bản sắc văn hóa”, “tính dân tộc”, “bản sắc Việt Nam”, “nét văn
hóa”, “giá trị văn hóa”, “giải mã văn hóa”, “tinh hoa văn hóa”, “biểu tượng văn
hóa”, “ góc nhìn văn hóa” … đã tác động một cách sâu sắc đến thực tiễn nghiên
cứu văn học. Văn hóa, thậm chí đã trở thành một tiêu chí đánh giá quan trọng
đối với các tác phẩm văn học mới và là một cái đích không thể không hướng tới
của rất nhiều các công trình lý luận, phê bình văn học sau đổi mới. Các vấn đề
của văn học dân gian, các tác phẩm, tác giả của văn học trung đại, văn học hiện
đại đều có những tiếp cận mới từ góc độ văn hóa.
Tuy nhiên, những thuật ngữ về văn hóa trong diễn ngôn chưa thể hiện
được một cách biện chứng mối quan hệ hai chiều giữa văn hóa với văn học,
chưa phát huy tận độ tiềm năng văn hóa trong văn học, giá trị của văn học trong
văn hóa vẫn chưa được khai thác thỏa đáng. Quyền lực “văn hóa” trong trật tự
diễn ngôn rất mạnh nhưng về cơ bản, nó mới chủ yếu đáp ứng nhu cầu phát
triển văn hóa mà chưa cân bằng trong phát triển lý luận, phê bình văn học nói
riêng và văn học nói chung.
15
CHƯƠNG 4
DIỄN NGÔN LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ
NGUYÊN TẮC CHÍNH TRỊ SANG HỌC THUẬT
4.1. Nguyên tắc chính trị trong kiến tạo diễn ngôn lý luận, phê bình
văn học Việt Nam trước đổi mới
4.1.1. Chiến lược kiến tạo diễn ngôn theo nguyên tắc chính trị
Trong mối quan hệ với diễn ngôn, chính trị được hiểu như là môi trường,
là “nguyên quán” sinh ra các thuật ngữ trong quá trình chúng ta diễn đạt, nói về
văn học cũng như lý luận, phê bình văn học. Chúng tôi ví những thuật ngữ này
như những “cư dân” di chuyển từ mảnh đất “chính trị” sang văn học, chúng “có
hộ khẩu” ở “ngôi nhà chính trị” nhưng lại “tạm trú” trong “ngôi nhà văn học”.
Trong ý nghĩa đó, chúng tôi nhận thấy tự thân các vấn đề của lý luận, phê
bình văn học vẫn là “câu chuyện” của học thuật. Việc xây dựng các giáo trình
lý luận văn học, nghiên cứu các yếu tố cơ sở lý luận văn học, tác phẩm, nhà
văn, bạn đọc trước đổi mới nguyên nghĩa là vấn đề của học thuật. Tuy nhiên, do
hoàn cảnh lịch sử đương thời, nguyên tắc chính trị trực tiếp chi phối mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội và trở thành tiêu chí thống nhất cho tất cả các lĩnh vực
khác nhau. Mọi hoạt động trong xã hội đều được nhìn từ góc độ chính trị. Mọi
nhiệm vụ trong các cơ quan khác nhau đều được coi là nhiệm vụ chính trị.
Trong quỹ đạo đó, lý luận, phê bình văn học được coi là một công tác tư tưởng
đặc thù dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng. Vì vậy, diễn ngôn lý luận, phê
bình văn học như một tất yếu khách quan phải được kiến tạo trên cơ sở các
quan điểm chính trị nói chung và quan điểm chính trị về văn học nói riêng.
Có thể nói, cơ chế trên đưa chính trị trở thành nguyên tắc có tính chiến
lược trong kiến tạo diễn ngôn lý luận, phê bình văn học trước đổi mới. Đồng
thời nó cũng làm cho trật tự diễn ngôn lý luận, phê bình văn học trước đổi mới
trở nên đặc trưng, độc đáo, quy định “cấu trúc” cũng như mọi “hành vi giao
tiếp” trong học thuật một cách đặc thù.
4.1.2. Trật tự diễn ngôn theo nguyên tắc chính trị
Chiến lược kiến tạo diễn ngôn theo nguyên tắc chính trị được hiện thực
hóa qua một trật tự chặt chẽ, điển hình quy định sự lựa chọn và tổ chức hệ
thống thuật ngữ biểu đạt về văn học và về chính lý luận, phê bình văn học. Nó
mang đậm dấu ấn của chính trị và ảnh hưởng sâu sắc đối với thực tiễn văn học.
Vượt ra ngoài trật tự này, lý luận, phê bình văn học bị gán cho các thuật ngữ
“lệch lạc”, “sai trái” và không thể tồn tại được.
Về cơ sở lý luận, đường lối văn nghệ của Đảng, ý kiến của các đồng chí
lãnh đạo Đảng và nhà nước được coi trọng hàng đầu, được coi là “kim chỉ nam”
cho mọi hoạt động văn học.
Các tác giả lý luận, phê bình văn học được chọn gọi bằng những thuật
ngữ mang đậm chất chính trị như “đồng chí”, “chiến sĩ”, “người lính”… Yêu
cầu và tiêu chuẩn của nhà lý luận được xác định: “phải tăng cường tính Đảng,
16
bồi dưỡng lập trường tư tưởng, thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối
chính sách của Đảng” thậm chí phải “sống lâu dài tại một cơ sở nông nghiệp,
một đơn vị quân đội”. Nhiệm vụ của nhà văn được ghi rõ trong Thư của Ban
chấp hành Trung ương gửi Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ II: “các nhà văn
nghệ chúng ta cần ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập đường lối,
chính sách của Đảng và Chính phủ, nâng cao lập trường, trau dồi tư tưởng và
nghệ thuật”. Có thể thấy, nhà văn, nhà lý luận, phê bình trong trật tự diễn ngôn
trước đổi mới phải nói và làm trong cảm quan chính trị. Vượt ra ngoài cảm
quan ấy, người sáng tác, người nghiên cứu chưa làm tròn bổn phận và trách
nhiệm mà Đảng giao phó, hoặc là “chưa được tiêu hóa những chính sách của
Đảng và Chính phủ thành sự thật linh hoạt” (Tố Hữu).
Có thể nói, trong đời sống lý luận, phê bình văn học từ: các giáo trình, các
chuyên luận văn học, các bài nghiên cứu trên Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Văn
học (nay là Nghiên cứu văn học), các thuật ngữ của chính trị đã trở thành “vốn
liếng ngôn từ” có tính “chuẩn mực”, “thước đo” khi đánh giá về văn học. Các
tiêu chí trong phê bình văn học gần như đồng nghĩa với các tiêu chí chính trị. Vì
vậy, thực tiễn lý luận, phê bình văn học trở thành môi trường sinh trưởng của
các thuật ngữ có tính chính trị như: “tư sản”, “vô sản”, “lập trường”, “quan
điểm”, “xét lại”, “phản động”, “suy đồi”, “có vấn đề”, “đường lối”, “mặt trận”,
“chiến sĩ”, “nhiệm vụ”, “chiến tuyến”, “trực chiến”, “binh chủng” “cách mạng”,
“lý tưởng cộng sản”, “ra sức”, “phấn đấu”, “bộ đội địa phương”, “dân quân du
kích”, “tính đảng”, “tính giai cấp”, “tính nhân dân” …
Có thể nói, trật tự diễn ngôn theo nguyên tắc chính trị là nhân tố quan
trọng, quy định cấu trúc và “hành vi giao tiếp” của lý luận, phê bình văn học
trong thực tiễn trước đổi mới. Trật tự ấy đã góp phần to lớn cho khả năng
“chính trị hóa” đời sống lý luận, phê bình văn học Việt Nam trước đổi mới
thành thực tiễn. Cho đến nay, việc “chính trị hóa” văn chương một thời của diễn
ngôn lý luận, phê bình văn học là một câu chuyện lịch sử và người ta không thể
phủ nhận những giá trị tích cực mà nó đã đem lại cho văn học cũng như đời
sống xã hội ở những năm cách mạng.
4.2. Nguyên tắc học thuật – bước chuyển đổi quan trọng trong diễn
ngôn lý luận, phê bình văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới
4.2.1. Chiến lược diễn ngôn theo nguyên tắc học thuật
Thời kỳ đổi mới, Đảng yêu cầu lý luận, phê bình một mặt vẫn phải căn cứ
vào triết học Mác - Lênin để giải quyết các vấn đề về văn học, nhưng mặt khác,
song song với yêu cầu này Đảng cũng đề nghị “cần chú ý phân tích và giới
thiệu những thành tựu mới và kinh nghiệm hay của nước ngoài” và “khích lệ
những tìm tòi, tôn trọng những ý kiến khác nhau về lí luận và phê bình văn
nghệ vì lợi ích chung và sự phát triển lành mạnh của văn nghệ … Mặt khác,
trong tư duy về văn học nghệ thuật, diễn ngôn của Đảng cũng chuyển hướng từ
việc coi mục đích sáng tác văn học là “phục vụ”, “phục tùng” chính trị sang
mục đích “đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho công chúng”. Lý
17
luận, phê bình cũng không có nhiệm vụ trực tiếp là “diễn giải đường lối văn
nghệ”, mà là để “tác động tích cực đến sự sáng tạo của các nghệ sĩ, đến thị hiếu,
nhu cầu và trình độ thẩm mỹ của nhân dân”.
Thực tiễn trên đã đặt ra yêu cầu cũng như tạo điều kiện cho sự chuyển đổi
diễn ngôn lý luận, phê bình văn học từ chiến lược chính trị sang học thuật khi lý
giải các vấn đề của văn học. Do đó, “thi pháp”, “tự sự”, “cấu trúc”, “ký hiệu”,
“ngôn từ”, “biểu tượng”, “không gian – thời gian nghệ thuật”, “cấu trúc văn bản
nghệ thuật”, “giọng điệu”, “điểm nhìn” … đã trở thành hệ thuật ngữ mới trong
diễn ngôn và làm thay đổi diện mạo của lý luận, phê bình văn học sau 1986.
4.2.2. Trật tự diễn ngôn theo nguyên tắc học thuật
Từ chính trị sang học thuật là một sự chuyển đổi diễn ngôn có ý nghĩa
quan trọng khi văn học không chỉ được xét trên lập trường chính trị mà nó đã
được xét trên lập trường khoa học với tư cách là một lĩnh vực độc lập. Vì vậy,
nếu trong trật tự của diễn ngôn có tính chính trị trước đổi mới quy định không
gian của diễn ngôn lý luận, phê bình là không gian “mặt trận”, chủ thể của lý
luận phê bình là “chiến sĩ”, các thể loại của lý luận, phê bình là “binh chủng”,
“vũ khí” thì sau đổi mới, diễn ngôn lý luận, phê bình mang tính học thuật lại
yêu cầu: không gian của lý luận, phê bình văn học là “lĩnh vực, trường phái”,
chủ thể của lý luận, phê bình là “tác giả, chủ thể sáng tạo”…
Nguyên tắc học thuật đã xác lập những giới hạn mới cho diễn ngôn lý
luận, phê bình văn học. Thực tiễn lý luận, phê bình văn học sau đổi mới bên
cạnh diễn ngôn văn học Mác - Lênin là sự sinh sôi, nảy nở của diễn ngôn thi
pháp, diễn ngôn tự sự, diễn ngôn kí hiệu… Nó tạo ra những thiết chế mới, trật
tự mới trong nghiên cứu văn học thời kì đổi mới. Nghiên cứu tác phẩm văn học
chuyển từ việc quan tâm đến nội dung tác phẩm, tính chất hiện thực được phản
ánh, tính giai cấp, tính đảng sang nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, thủ pháp
trong sáng tác, nghiên cứu ngôn ngữ văn học, nghiên cứu những vấn đề có tính
chất đặc thù … Không gian diễn ngôn được rộng mở, quyền lực lý luận, phê
bình không chỉ đến từ thuật ngữ “Mác - Lênin” mà hình thành từ rất nhiều thuật
ngữ của các lý thuyết văn học mới. Do đó, những thuật ngữ mang tính chất
mệnh lệnh thức phục vụ cho chiến lược đối lập của diễn ngôn lý luận, phê bình
văn học trước đổi mới bị lược bỏ dần và cho đến nay không tồn tại nữa.
Có thể nói, sự chuyển đổi diễn ngôn lý luận, phê bình văn học thời kỳ đổi
mới từ nguyên tắc chính trị sang học thuật là sự chuyển đổi phù hợp với quy
luật khách quan cũng như thực tiễn văn học nghệ thuật. Sự chuyển đổi này khái
quát lại, theo chúng tôi có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, lớp thuật ngữ mới được hình thành với việc hướng trọng tâm
vào các vấn đề bản thể của văn học như: kiểu sáng tác, hình tượng tác giả, thi
pháp học, tự sự học, ngôn ngữ học … hoặc sâu hơn như: người trần thuật, điểm
nhìn trần thuật, hư cấu nghệ thuật, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật,
hình tượng tác giả, thế giới nhân vật, độc thoại, đa thanh, phức điệu… Thứ hai,
sự xuất hiện và dần trở nên quen thuộc của những thuật ngữ, những khái niệm
18
“lạ” – có nghĩa là chưa quen dùng hoặc ít gặp trong văn học như: ngôn ngữ thân
thể, cacnaval, sinh thái, lạ hóa, tính dục, mảnh vỡ, hiện thực thậm phồn, đứt
đoạn và tái sinh… đã làm cho lý luận, phê bình văn học Việt Nam được hiện
đại và gần vói bức tranh chung của văn học thế giới. Thứ ba, diễn ngôn lý luận
phê bình chuyển hướng biểu đạt về hình thức nghệ thuật.
Tuy nhiên, diễn ngôn lý luận phê bình theo hướng học thuật mặc dù có đóng
góp to lớn vào sự đổi mới lý luận, phê bình văn học vẫn tồn tại trạng thái rối
rắm, nhập nhằng và nhiều lúc mơ hồ không rõ nghĩa. Trước hết, các lý thuyết
được giới thiệu vào Việt Nam không thật đầy đủ, hệ thống. Thứ hai, ngôn ngữ
ngoại nhập không phải bao giờ cũng có thể dịch đúng, dịch chuẩn chưa nói là
hiểu chúng cho chính xác. Thứ ba, ta cũng vấp phải khó khăn trong văn hóa tiếp
nhận. Đa phần các lý thuyết văn học mới tiếp nhận đều xuất phát từ thực tiễn
văn học nước ngoài. Vì thế, vấn đề đặt ra là hiểu, ứng dụng các thuật ngữ học
thuật của nó thế nào ở Việt Nam một cách phù hợp nhất? Thứ tư, về mặt trình
độ, trên thực tế, đội ngũ làm lý luận phê bình của ta còn mỏng, mặt bằng tri
thức không đồng đều. Thứ năm, do xuất hiện và sử dụng một cách ồ ạt các quan
điểm nghiên cứu văn học từ nhiều lý thuyết khác nhau, cộng với tình trạng
“chưa đến nơi đến chốn” nên trong lý luận, phê bình văn học bắt đầu xuất hiện
tình trạng “loạn chuẩn” trong đánh giá, phê bình tác phẩm văn học.
Tuy nhiên, dù còn nhiều khiếm khuyết và hạn chế, song tính chất học
thuật của diễn ngôn lý luận, phê bình văn học thời kỳ đổi mới thực sự có ý
nghĩa quan trọng đối với toàn bộ hoạt động lý luận, phê bình văn học. Một mặt,
nó thúc đẩy quá trình chuyển đổi diễn ngôn lý luận, phê bình văn học được hiện
đại và đi đúng quỹ đạo văn học hơn. Mặt khác, nó đã góp phần “chuyển hóa”
những định hướng trong đường lối chính sách thành những chiến lược diễn
ngôn phù hợp, hình thành những thiết chế, trật tự khả thi, hiệu quả, tác động
đến mọi bước đi, tiếng nói của lý luận, phê bình văn học nước nhà từ thực tiễn
đổi mới đến nay.
4.3. Khả năng phát triển và những thách thức của diễn ngôn lý luận,
phê bình văn học Việt Nam đương đại
4.3.1. Khả năng phát triển của diễn ngôn lý luận, phê bình văn học
Việt Nam đương đại
Diễn ngôn là một thực tiễn giao tiếp được tạo lập nên từ tri thức và những
quan hệ quyền lực đa dạng trong xã hội. Do vậy, quyền lực và tri thức tác động
đến khả năng phát triển của diễn ngôn. Chúng cũng là những động lực cơ bản
nhất thúc đẩy quá trình thay thế các hình thức diễn ngôn trong lịch sử.
Trong quy luật đó, sự chuyển đổi diễn ngôn lý luận, phê bình văn học
Việt Nam đương đại cũng là quá trình đổi thay, mở rộng các hệ hình tri thức lý
luận, phê bình trong mối liên hệ, tương tác với hệ thống quyền lực chính trị, văn
hóa xã hội sau 1986. Chúng ta đã tiến hành đổi mới và có những kết quả quan
trọng, tuy nhiên sự đổi mới đó dường như chưa phát huy được hết những tiềm
năng sẵn có về tri thức và quyền lực trong diễn ngôn lý luận, phê bình văn học.
19
Về mặt tri thức, thực tiễn lý luận, phê bình văn học cho thấy, sau đổi mới,
việc mở rộng khả năng lựa chọn các tri thức lý luận, phê bình văn học khác
nhau trong diễn ngôn đã tạo điều kiện cho các lý thuyết văn học phi Mác xít
được “cấp phép” sinh thành trở lại. Những định hướng mới của Đảng, nỗ lực
nghiên cứu của các nhà khoa học qua các tác phẩm dịch, các cuộc hội thảo, hội
nghị trở thành mảnh đất “hồi sinh” mới cho những gì trước đây bị “cấm đoán”,
“bài trừ”. Thành quả nghiên cứu chung của lý luận, phê bình văn học sau đổi
mới không chỉ đến từ việc mở rộng hệ thống lý luận, phê bình văn học Mác -
Lênin mà được góp công từ nhiều phía, nhiều trường phái lý thuyêt văn học.
Tuy nhiên, để tiếp tục phát triển, diễn ngôn lý luận, phê bình văn học không thể
chỉ “hài lòng” với những gì đã có mà còn cần phải tiếp tục phát huy những tiềm
năng tri thức văn học chưa được khai thác hết, làm cho thực tiễn lý luận, phê
bình văn học có thể có cơ hội khám phá văn học ở vỉa tầng sâu hơn.
Về mặt quyền lực, diễn ngôn lý luận, phê bình văn học Việt Nam đương
đại đang được tồn tại trong một cơ chế quyền lực chính trị - xã hội và tri thức
tương đối thuận lợi. Xã hội mà chúng ta đang cố gắng xây dựng là một xã hội
dân chủ. Đảng ta chủ trương “tôn trọng” những ý kiến khác nhau trong đời sống
cũng như trong học thuật, khuyến khích “đối thoại”, “tranh biện”, “sáng tạo” và
“thể nghiệm mới”. Do vậy, đời sống văn hóa nghệ thuật nhiều năm qua đã phát
huy được không khí dân chủ, thẳng thắn, khách quan trong việc tìm tòi chân lý
đời sống và chân lý nghệ thuật.
Trong khả năng phát triển của diễn ngôn lý luận, phê bình văn học Việt
Nam đương đại, chúng tôi nhận thấy, việc chủ trương phát triển một nền lý
luận, phê bình văn học Việt Nam hiện đại, khoa học và mang đậm bản sắc dân
tộc cần được khai thác, phát huy mạnh mẽ và cụ thể hơn nữa. Diễn ngôn như đã
nói là bản thể tư tưởng của con người được thể hiện qua ngôn ngữ. Ngôn ngữ
lại là hiện tượng có tính dân tộc. Ngôn ngữ của dân tộc nào cũng mang những
đặc điểm của riêng dân tộc đó. Thông qua ngôn ngữ mà các đặc điểm của nền
văn hóa dân tộc được lưu giữ rõ ràng nhất. Do đó, xét trong thực tiễn diễn ngôn
ở Việt Nam, cái gì được người Việt Nam lý giải bằng ngôn ngữ Việt Nam tất
yếu sẽ mang bản sắc Việt Nam. Chúng ta dịch một tài liệu nước ngoài tưởng
chừng chỉ đơn thuần là việc phiên âm một tư tưởng ngoài chúng ta sang ngôn
ngữ của chúng ta, kỳ thực không hẳn vậy. Sự dịch chuyển ý nghĩa từ ngôn ngữ
này sang ngôn ngữ khác là bằng trình độ và khả năng hiểu biết của người dịch,
mang bản sắc và cả quan điểm cá nhân của người dịch. Văn bản chỉ là gốc ký
hiệu còn ý nghĩa là do người dịch gán cho nó. Vì thế mới xảy ra tranh cãi dịch
đúng – sai, sát nghĩa – không sát nghĩa … Các tiêu chí đúng – sai trong dịch
thuật cũng không chỉ dựa trên từ điển mà chủ yếu dựa vào thực tiễn vận dụng
văn bản dịch vào đời sống.
Trong ý nghĩa trên chúng ta có thể nhận thấy, thực tiễn lý luận, phê bình
văn học Việt Nam đương đại là của người Việt Nam, mang bản sắc Việt Nam.
Điều này giúp chúng ta có thể đánh giá một cách công bằng, khách quan và trân
20
trọng hơn những thành quả mà chúng ta đã làm được trong những năm tháng
đổi mới nói riêng và trong chiều dài lịch sử văn học nói chung. Chúng ta hoàn
toàn tự tin và tiếp tục phát huy khả năng của riêng mình trong nghiên cứu văn
học để có thể thoát khỏi sự “ám ảnh” “sính ngoại”, “sùng tây” như nhiều người
vẫn nói.
4.3.2. Những thách thức đối với sự phát triển của diễn ngôn lý luận,
phê bình văn học Việt Nam đương đại
Khả năng cho sự phát triển của lý luận, phê bình văn học Việt Nam thời
kỳ đổi mới là rất lớn nhưng cũng chính vì thế mà nó cũng tạo ra những thách
thức không nhỏ để biến khả năng ấy thành thực tiễn. Hơn nữa, hiện trạng diễn
ngôn đương đại cũng còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém cần được khắc phục.
Hệ thống tri thức đương đại mặc dù có được sự phong phú nhanh chóng nhưng
sử dụng nó trong thực tiễn văn học lại chưa phát huy tận độ. Việc tiếp thu, vận
dụng các lý thuyết văn học nước ngoài vào thực tiễn văn học Việt Nam nhiều
chỗ chưa thật sâu sắc và thấu triệt. Nhiều lý thuyết được đưa vào nhưng người
dịch, người nghiên cứu chưa hiểu thật thấu đáo lại làm nó thêm rối rắm nên
hiệu quả nghiên cứu chưa cao. Dịch thuật gặp phải khó khăn về chiều sâu của
học thuật và sự tương xứng giữa các vấn đề được dịch và giới thiệu ở nước ta
với thực tiễn phát triển của nó ở nước ngoài. Hiện nay, tranh luận về dịch thuật
đang diễn ra sôi nổi với các nghi vấn thiếu thống nhất.
Một thách thức khác trong lý luận, phê bình văn học là trong thời đại hội
nhập toàn cầu việc đầu tư cho văn hóa là cần thiết, song để có thể có động lực
cho văn hóa cất cánh người ta không thể quên vai trò vô cùng lớn của văn học.
Nhưng, trong mối quan hệ này, dường như văn hóa đa được chú trọng quá
nhiều và không thật cân bằng với nghiên cứu các vấn đề của bản thể nghệ thuật.
Về mặt quyền lực chính trị xã hội, Đảng ta chủ trương phát triển một nền
lý luận, phê bình văn học hiện đại, giàu tính “đối thoại”, “tôn trọng tự do sáng
tác” trong không khí dân chủ, khách quan nhưng lý luận, phê bình văn học theo
định hướng của Đảng trong thực tiễn nhiều nơi, nhiều lúc còn bất cập, mâu
thuẫn và khó triển khai.
Mặt khác, trong diễn ngôn lý luận, phê bình văn học Việt Nam đương đại,
định hướng phát triển một nền lý luận, phê bình văn học mang thương hiệu và
bản sắc Việt Nam cũng đang gặp phải những thách thức khi bản thể tư duy của
người Việt đang gặp những khó khăn trong thực tiễn văn hóa thời kỳ đổi mới và
hội nhập. Giới trẻ ít quan tâm đến văn học là một thực tế không thể phủ nhận.
Các chuyên gia lý luận, phê bình văn học gạo cội phần nhiều lại đã vào tuổi “xế
chiều”. Do vậy, lý luận, phê bình văn học rất cần được sự quan tâm hơn nữa của
Đảng và Nhà nước để có cơ hội phát triển sâu rộng hơn trong tương lai.
21
KẾT LUẬN
1. Lý luận, phê bình văn học nhìn từ lý thuyết diễn ngôn là một mô hình
học thuật mới, một bình diện mới của nghiên cứu văn học. Nó không nghiên
cứu lý luận, phê bình văn học như một đối tượng độc lập, có tính khách quan,
tĩnh tại với các lý thuyết trừu tượng mà nghiên cứu lý luận, phê bình văn học
trong thực tiễn giao tiếp sinh động của đời sống được thể hiện trong mọi lĩnh
vực như: văn hóa, truyền thông, văn kiện, chỉ thị, nghị quyết, tuyên truyền, giáo
dục, giảng dạy, học tập … Cũng bởi vậy, diễn ngôn lý luận, phê bình văn học
không chỉ giới hạn trong học thức của các chuyên gia mà là của tất cả mọi
người, không chỉ ở các hoạt động học thuật chính thống mà còn ở cả hoạt động
tư tưởng khác trong xã hội.
2. Diễn ngôn là một thực tiễn giao tiếp, thực tiễn biểu đạt tư tưởng của
con người. Diễn ngôn khác với ngôn ngữ vì diễn ngôn chủ yếu thuộc về lịch sử
tư tưởng, không phải do các thành tố cố định của ngôn ngữ tạo thành, mà là do
các sự kiện chân thực, liên tục trong thực tiễn tạo thành. Từ góc độ diễn ngôn,
ngôn ngữ được xem là bản thể tư tưởng của con người. Nói cách khác, trong
diễn ngôn, tư tưởng và ngôn ngữ đã được nhất thể hóa. Vì vậy, diễn ngôn tuy
không phải là ngôn ngữ nhưng lại gắn bó mật thiết với ngôn ngữ. Muốn phân
tích diễn ngôn nhất thiết phải bắt đầu từ việc phân tích ngôn ngữ đang được sử
dụng trong thực tế. Diễn ngôn thông qua quyền lực và trạng thái tri thức đã tạo
ra niềm tin và thuyết phục con người bằng những thói quen ngôn ngữ. Thói
quen và niềm tin tiếp tục là cơ sở hình thành khung tri thức mới và tri thức mới
góp phần tạo nên quyền lực. Diễn ngôn vì vậy không thể là một khái niệm bất
biến. Nó biến đổi theo thực tế cuộc sống và góp phần tạo ra những chân lý tri
thức phong phú cho đời sống của con người.
3. Nghiên cứu sự chuyển đổi diễn ngôn lý luận, phê bình văn học Việt
Nam từ thời kỳ đổi mới đến nay, luận án đã lý giải nó như là quá trình đổi thay
tư tưởng lý luận, phê bình văn học trong thực tế, được thực hiện dưới sự chỉ đạo
sát sao của Đảng cộng sản Việt Nam qua các chỉ thị, nghị quyết, văn kiện, qua
thực tiễn các cuộc đấu tranh tư tưởng, các phong trào văn học và hoạt động lý
luận, phê bình trong suốt thời kỳ lịch sử. Do vậy, trong quá trình kiến tạo diễn
ngôn lý luận, phê bình văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, sự chuyển đổi diễn
ngôn của Đảng về văn học qua các kỳ Đại hội có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Từ định hướng phát triển văn học nghệ thuật trong không gian của lý luận, phê
bình văn học Mác – Lênin đến khuyến khích thể nghiệm các lý luận, phê bình
văn học khác nhau trên thế giới, Đảng đã tạo đà cho sự đổi thay to lớn của diễn
ngôn lý luận, phê bình văn học Việt Nam sau 1986. Bên cạnh đó, sự tự thân vận
động, tự chuyển đổi của lý luận, phê bình văn học như một nhu cầu tất yếu
khách quan cũng trở thành một nguồn lực nội sinh quan trọng thúc đẩy quá
trình chuyển đổi diễn ngôn được nhanh chóng, hiệu quả và đúng quỹ đạo văn
học chung của thế giới.
22
4. Để mô tả quá trình chuyển đổi diễn ngôn lý luận, phê bình văn học,
luận án đã tập trung phân tích, đối chiếu chiến lược và trật tự diễn ngôn khi tổ
chức, kiến tạo lý luận, phê bình văn học Việt Nam trong thực tiễn trước và sau
đổi mới. Đó là sự chuyển đổi mạnh mẽ từ diễn ngôn lý luận, phê bình văn học
được kiến tạo theo chiến lược và trật tự của nguyên tắc đối lập sang diễn ngôn
lý luận phê bình văn học được kiến tạo theo nguyên tắc hội nhập đa phương,
giàu tính đối thoại, giao lưu và hợp tác giữa nhiều truyền thống lí luận văn học
thế giới.
Từ thời kỳ đổi mới đến nay, chiến lược và trật tự diễn ngôn theo nguyên
tắc hội nhập đa phương của diễn ngôn đã khiến lý luận, phê bình văn học đã có
những chuyển đổi quan trọng. Đó là sự chuyển đổi từ việc chỉ tập trung triển
khai các nội dung của lý luận văn học Mác – Lênin sang vận dụng linh hoạt các
nội dung của lý luận, phê bình văn học tiến bộ toàn thế giới. Thực tiễn diễn
ngôn đã chứng minh một cách sinh động, không có gì là một chiều, độc tôn
trong nghiên cứu, phê bình các hiện tượng văn học nghệ thuật. Các lý luận thi
pháp học, tự sự học, ký hiệu học, ngôn ngữ học, cấu trúc, chủ nghĩa hiện đại,
chủ nghĩa hậu hiện đại, liên văn bản, diễn ngôn … hiện đã trở thành những
tiếng nói khác trong lý luận, phê bình văn học và chúng đối thoại với lý luận
truyền thống cũng như đối thoại với nhau nhằm mục đích khẳng định sự phong
phú trong các con đường tiếp cận, lý giải văn học.
Hội nhập đa phương trong chiến lược và trật tự diễn ngôn thời kỳ đổi mới
đã mở rộng phạm vi quan tâm đặc biệt của lý luận, phê bình đến văn hóa trong
mối quan hệ với văn học. Từ góc độ diễn ngôn, thuật ngữ “văn hóa” trở thành
một trong những phương tiện biểu đạt quan trọng để con người hiện đại tư duy
về lý luận, phê bình văn học. Nó khiến lý luận, phê bình văn học trong thực tiễn
không thể chỉ dừng lại ở việc lý giải các vấn đề của văn học từ phương diện bản
thể nghệ thuật mà cần phải đào sâu vào những giá trị của văn hóa trong mối
quan hệ với văn học và trong sự phát triển của chính lý luận, phê bình. Sự mở
rộng “không gian văn hóa” trong diễn ngôn còn giúp cho lý luận, phê bình văn
học dự phần tích cực vào việc khắc phục khuynh hướng đề cao một chiều, tuyệt
đối hoá phương diện hình thức của văn học, đôi lúc khiến văn học giống như
một trò chơi chữ cầu kỳ, trống rỗng.
5. Bước ngoặt đổi mới văn học sau 1986 còn trở thành môi trường thuận
lợi để diễn ngôn lý luận, phê bình văn học phát triển theo hướng học thuật. Do
đó, cùng với quá trình chuyển đổi diễn ngôn từ chiến lược và trật tự theo
nguyên tắc đối lập đến hội nhập đa phương, diễn ngôn lý luận, phê bình văn học
còn tiến hành chuyển đổi từ nguyên tắc chính trị chuyển động mạnh mẽ sang
nguyên tắc học thuật. Tính chất chính trị mặc dù đã góp phần tạo ra một giai
đoạn lý luận, phê bình văn học nhiều độc đáo trong lịch sử, nhưng trong bối cảnh
mới, để hội nhập cùng đời sống văn hóa, văn học thế giới văn học còn rất cần
phải được nhìn từ góc độ bản thể nghệ thuật để được phát triển theo đúng nghĩa
nghệ thuật. Vì thế, đây là sự chuyển đổi có ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện cho
23