Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Phân tích tình hình tài chính của công ty trách nhiệm hữu hạn bánh kẹo SBT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.06 MB, 65 trang )




1
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI
CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp với các chủ
thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính của doanh nghiệp chủ yếu bao gồm:
Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước: Đây là mối quan hệ phát sinh khi
doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, khi Nhà nước góp vốn và
doanh nghiệp.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính: Quan hệ này được thể hiện
thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ. Trên thị trường tài chính,
doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn, có thể phát hành
cổ phiếu, trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn. Ngược lại, doanh nghiệp phải trả
lãi và vốn vay, trả lãi cổ phần cho các nhà tài trợ. Doanh nghiệp cũng có thể gửi tiền
vào ngân hàng, đầu tư chứng khoán bằng số tiền tạm thời chưa sử dụng.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác: Trong nền kinh tế, doanh
nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp khác trên thị trường hàng hoá, dịch
vụ, thị trường sức lao đông. Đây là những thị trường mà tại đó doanh nghiệp tiến hành
mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm kiếm lao đông,…Điều quan trọng nhất là
thông qua thị trường, doanh ngiệp có thể xác định nhu cầu hàng hoá và dịch vụ cần
thiết cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch
sản xuất, tiếp thị nhằm thoả mãn nhu cầu thị trường.
Quan hệ nội bộ doanh nghiệp: Đây là quan hệ giữa các bộ phận sản xuất – kinh
doanh, giữa cổ đông và người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa quyền sử dụng
vốn và quyền sở hữu vốn. Các mối quan hệ này được thực hiện thông qua hàng loạt
các chính sách cỉa doanh nghiệp như: chính sách cổ tức (phân phối thu nhập), chính
sách đầu tư, chính sách về cơ cấu vốn, chi phí…


1.1.2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp có 3 vai trò sau:
– Vai trò huy động, khai thác nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu kinh doanh
của doanh nghiệp và tổ chức sử dụng vốn có hiệu quả cao nhất:
Để có đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính doanh nghiệp phải
thanh toán nhu cầu vốn, lựa chọn nguồn vốn, bên cạnh đó phải tổ chức huy động và sử
dụng đúng đắn nhằm duy trì và thúc đẩy sự phát triển có hiệu quả quá trình SXKD ở



2
doanh nghiệp , đây là vấn đề có tính quyết định đến sự sống còn của doanh
nghiệp trong quá trình cạnh tranh “khắc nghiệt” theo cơ chế thị trường.
– Vai trò đòn bẩy kích thích và điều tiết hoạt động kinh doanh:
Thu nhập bằng tiền của doanh nghiệp được tài chính doanh nghiệp phân phối.
Thu nhập bằng tiền mà doanh nghiệp đạt được do thu nhập bán hàng trước tiên phải bù
đắp các chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất như: bù đắp hao mòn máy móc thiết bị,
trả lương cho người lao động và để mua nguyên nhiên liệu để tiếp tục chu kỳ sản xuất
mới, thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước. Phần còn lại doanh nghiệp dùng hình thành
các quỹ của doanh nghiệp, thực hiện bảo toàn vốn, hoặc trả lợi tức cổ phần (nếu có).
Chức năng phân phối của tài chính doanh nghiệp là quá trình phân phối thu nhập bằng
tiền của doanh nghiệp và quá trình phân phối đó luôn gắn liền với những đặc điểm vốn
có của hoạt động SXKD và hình thức sở hữu doanh nghiệp.
Ngoài ra, nếu người quản lý biết vận dụng sáng tạo các chức năng phân phối
củatài chính doanh nghiệp phù hợp với qui luật sẽ làm cho tài chính DN trở thành đòn
bẩy kinh tế có tác dụng trong việc tạo ra những động lực kinh tế tác động tới tăng năng
suất, kích thích tăng cường tích tụ và thu hút vốn, thúc đẩy tăng vòng quay vốn, kích
thích tiêu dùng xã hội.
– Vai trò là công cụ kiểm tra các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp:
Tài chính doanh nghiệp thực hiện việc kiểm tra bằng đồng tiền và tiến hành

thường xuyên, liên tục thông qua phân tích các chỉ tiêu tài chính. Cụ thể các chỉ tiêu
đó là: chỉ tiêu về kết cấu tài chính, chỉ tiêu về khả năng thanh toán, chỉ tiêu đặc trưng
về hoạt động, sử dụng các nguồn lực tài chính; chỉ tiêu đặc trưng về khả năng sinh
lời…Bằng việc phân tích các chỉ tiêu tài chính cho phép doanh nghiệp có căn cứ quan
trọng để đề ra kịp thời các giải pháp tối ưu làm lành mạnh hoá tình hình tài chính –
kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.3. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp (TCDN) là một phạm trù kinh tế xã hội, phát sinh và
tồn tại cùng với sự tồn tại của nhà nước và nền sản xuất hàng hóa. Khái niệm và quan
điểm về tài chính cũng luôn thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử, từng chế độ chính trị.
Do vậy, xem xét các quan điểm về tài chính cũng luôn thay đổi theo từng giai đoạn
lịch sử, từng chế độ chính trị, do vậy xem xét các quan điểm về tài chính là rất cần
thiết đối với các nhà phân tích tài chính. Để phân tích được tài chính doanh nghiệp một
cách chính xác và hiệu quả, trước tiên cần phải hiểu được phân tích tài chính doanh
Thang Long University Library



3
nghiệp là gì. Có nhiều khái niệm khác nhau, dưới đây là một vài khái niệm về tài chính
doanh nghiệp hiện nay.
Phân tích TCDN là tổng thể các phương pháp sử dụng để thu thập và xử lý các
thông tin kế toán, tài chính, nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng phát triển
của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định quản trị phù
hợp. Phân tích TCDN bao gồm các bước chủ yếu sau: thu thập thông tin; xử lý thông
tin; dự đoán và quyết định.
Phân tích TCDN được dùng để xác định giá trị kinh tế, đánh giá các mặt mạnh
yếu của doanh nghiệp cũng như các cơ hội và thách thức đặt ra với điều kiện hiện tại
của doanh nghiệp. Từ đó, đề ra các biện pháp hữu hiệu nhằm duy trì và cải thiện tình
hình tài chính doanh nghiệp. Ngoài ra, phân tích TCDN còn là tiền đề của việc lập dự

báo và lập kế hoạch tài chính, xây dựng mục tiêu kinh doanh.
“Phân tích tài chính của doanh nghiệp là việc xem xét đánh giá kết quả của
việc quản lí và điều hành tài chính của doanh nghiệp thông qua các số liệu trên báo cáo
tài chính, phân tích những điểm đã làm được và những gì chưa làm được, kết quả đạt
được ra sao. Những điểm mạnh của doanh nghiệp cần phát huy và những điểm yếu
còn tồn tại để có biện pháp khắc phục kịp thời”.
1.1.4. Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính cung cấp những thông tin hữu ích giúp kiểm tra, phân tích
một cách tổng hợp, toàn diện, có hệ thống về tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình
thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp. Những người quản lý tài chính khi phân tích
tài chính cần cân nhắc tính toán tới mức độ rủi ro và tác động của nó tới doanh nghiệp
mà biểu hiện chính là khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động
cũng như khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tiếp tục
nghiên cứu và đưa ra các dự đoán về kết quả hoạt động kinh doanh nói chung, mức
doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Ngoài ra, phân tích tài chính còn
cung cấp thông tin, số liệu để kiểm tra giám sát tình hình hạch toán kinh doanh, tình
hình chấp hành các chính sách chế độ kinh tế tài chính của doanh nghiệp. Cùng với sự
phát triển của xã hội thì việc phân tích tài chính càng trở nên quan trọng bởi công tác
phân tích tài chính ngày càng cho thấy sự cần thiết của nó đối với sự phát triển doanh
nghiệp. Phân tích tài chính cho thấy khả năng và tiềm năng kinh tế tài chính của doanh



4
nghiệp, do đó sẽ giúp cho công tác dự báo, lập kế hoạch tài chính ngắn hạn và dài hạn,
dễ dàng đưa ra các chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động.
Trước đây, việc phân tích tài chính chỉ để phục vụ nhu cầu cho các nhà đầu tư
và ngân hàng. Hiện nay, việc phân tích tài chính được rất nhiều đối tượng quan tâm,
tùy theo mục đích khác nhau của người sử dụng mà phân tích tài chính doanh nghiệp
sẽ có vai trò khác nhau:

Đối với nhà quản trị doanh nghiệp: Phân tích tài chính cung cấp các thông tin
về toàn bộ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Các nhà quản lý doanh nghiệp cần các
thông tin để kiểm soát và chỉ đạo sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình làm cơ
sở cho các dự báo tài chính, quyết định đầu tư, tài trợ, phân phối lợi nhuận.Căn cứ vào
báo cáo phân tích tài chính, các nhà quản lý sẽ dự đoán về tình hình tài chính của
doanh nghiệp trong tương lai từ đó thực hiện các chính sách điều chỉnh hoạt động sản
xuất, kinh doanh cho phù hợp với tình hình hoạt động thực tế của doanh nghiệp.
Đối với các nhà đầu tư: Các nhà đầu tư là các doanh nghiệp và cá nhân quan
tâm trực tiếp đến các giá trị của doanh nghiệp vì họ là người đã giao vốn cho doanh
nghiệp và có thể phải chịu rủi ro. Mối quan tâm của họ chủ yếu vào khả năng hoàn
vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán vốn và sự rủi ro. Vì thế, họ cần thông tin về
điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và các tiềm năng của
doanh nghiệp. Các nhà đầu tư còn quan tâm đến việc điều hành hoạt động công tác
quản lý. Những điều đó tạo ra sự an toàn và hiệu quả cho các nhà đầu tư.Phân tích tài
chính doanh nghiệp để xác định khả năng sinh lời, thời gian hoàn vốn, mức độ rủi ro
… từ đó đưa ra quyết định có đầu tư hay không đầu tư vào doanh nghiệp. Để bảo vệ
tài sản của mình, các cổ đông phải thường xuyên phân tích tình hình tài chính và kết
quả kinh doanh để quyết định có tiếp tục nắm giữ cố phiếu của doanh nghiệp mà mình
đang đầu tư nữa hay không.
Đối với các nhà cho vay: Như ngân hàng, công ty tài chính,…thì họ quan tâm
đến vấn đề doanh nghiệp có khả năng trả nợ vay hay không. Vì thế họ muốn biết khả
năng thanh toán và khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Đối với các khoản vay ngắn
hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp có
nghĩa là khả năng ứng phó của doanh nghiệp đối với những khoản nợ đến hạn trả. Đối
với các khoản vay dài hạn, ngoài khả năng thanh toán, họ còn quan tâm đến khả năng
sinh lời vì việc hoàn vốn và lãi sẽ phụ thuộc vào khả năng sinh lời này.Các nhà đầu tư
Thang Long University Library




5
tín dụng sẽ hạn chế hoặc từ chối cho các doanh nghiệp vay khi doanh nghiệp có dấu
hiệu có thể không thanh toán được các khoản nợ đến hạn
Đối với cơ quan Nhà nước: Các cơ quan quản lý của nhà nước cần các thông tin
từ phân tích báo cáo tài chính để kiểm tra tình hình tài chính, kiểm tra tình hình sản
xuất của doanh nghiệp và xây dựng các kế hoạch quản lý vĩ mô. Cơ quan thuế cần các
thông tin từ phân tích báo cáo tài chính để xác định số thuế mà doanh nghiệp phải nộp.
Đối với những người lao động trong doanh nghiệp: Lợi ích của những người
hưởng lương trong doanh nghiệp gắn liền với hoạt động tài chính của công ty. Họ
quan tâm đến các thông tin và số liệu tài chính để đánh giá, xem xét triển vọng của nó
trong tương lai.
Như vậy phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp là công cụ hữu ích được
dùng để xác định giá trị kinh tế, để đánh giá mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp, tìm
ra nguyên nhân khách quan và chủ quan, giúp cho từng đối tượng lựa chọn và đưa ra
được những quyết định phù hợp với mục đích mà họ quan tâm.
Những nhà phân tích tài chính nghiên cứu và đưa ra các dự đoán về kết quả
hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng trong tương lai. Phân tích tài chính là
cơ sở để dự đoán tài chính. Ngoài ra, phân tích tài chính được ứng dụng theo nhiều
hướng khác nhau như với mục đích tác nghiệp (chuẩn bị các quyết định nội bộ) và với
mục đích thông tin (trong hoặc ngoài doanh nghiệp). Việc thường xuyên tiến hành
phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho người sử dụng thấy được thực trạng hoạt động
tài chính, từ đó xác định được nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng đến từng hoạt động
kinh doanh. Trên cơ sở đó có những biện pháp hữu hiệu và ra các quyết định cần thiết
để nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh doanh.
Hiện nay, với sự phát triển lớn mạnh của doanh nghiệp cùng với quá trình cạnh
tranh khốc liệt thì phải có chiến lược kinh doanh cụ thể, hợp lý và chính xác, phân tích
tài chính sẽ có tác dụng to lớn trong việc thực hiện điều đó.





6
1.1.5. Tài liệu phân tích
1.1.5.1. Thông tin kế toán
Để có thể đánh giá một cách chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp thì
phân tích tài chính đòi hỏi phải có một lượng cơ sở thông tin đầy đủ và khách quan.
Đó là tổng hợp các thông tin bên trong của doanh nghiệp ví dụ như là: thông tin về bản
thân doanh nghiệp, các thông tin khác liên quan đến doanh nghiệp và quan trọng nhất
là thông tin tài chính chủ yếu được lấy từ các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Còn
các thông tin bên ngoài của doanh nghiệp thì có các thông tin về tình hình nền kinh tế,
đối tác, đối thủ cạnh tranh, các nhà cung cấp và các công ty có liên quan.
Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất bao gồm hệ thống 4 báo cáo
chính: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
và Thuyết minh báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính cho biết tình hình tài sản, nguồn
vốn cũng như kết quả kinh doanh, tình hình lưu chuyển tiền tệ và khả năng sinh lời
trong kỳ của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính cung cấp các thông tin chủ yếu sử dụng
trong vqiệc phân tích, đánh giá và dự đoán tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Bảng cân đối kế toán (BCĐKT): là một báo cáo tài chính tổng hợp dùng để khái
quát toàn bộ tài sản và nguồn hình thành tài sản đó tại một thời điểm nhất định. Các
chỉ tiêu trong BCĐKT được phản ánh dưới hình thức giá trị và theo nguyên tắc cân
đối: tổng tài sản bằng tổng nguồn vốn.[2,tr.23]
Báo cáo kết quả kinh doanh (BCKQKD): là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh
tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm các chỉ
tiêu về doanh thu, chi phí, lợi nhuận của hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính và
hoạt động khác.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (BCLCTT): là một báo cáo tài chính thể hiện dòng
tiền ra và dòng tiền vào của một tổ chức trong một khoảng thời gian nhất định(tháng,
quý, năm hay năm tài chính), báo cáo này là một công cụ giúp nhà quản lý tổ chức
kiểm soát dòng tiền của tổ chức.

Thuyết minh báo cáo tài chính (BCTT): được lập để giải thích và bổ sung thông
tin về tình hình hoạt động sản xuất – kinh doanh, tình hình tài chính cũng như kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà các bảng báo cáo khác không thể
trình bày rõ ràng và chi tiết. Qua đó, nhà đầu tư hiểu rõ và chính xác hơn về tình hình
hoạt động thực tế của doanh nghiệp.

Thang Long University Library



7
1.1.5.2. Cơ sở dữ liệu khác
Sự tồn tại, phát triển cũng như quá trình suy thoái của doanh nghiệp phụ thuộc
vào nhiều yếu tố: Có yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài; Có yếu tố chủ quan và yếu tố
khách quan. Điều đó tuỳ thuộc vào tiêu thức phân loại các yếu tố ảnh hưởng.
Các yếu tố bên trong: Các yếu tố bên trong là những yếu tố thuộc về tổ chức
doanh nghiệp; trình độ quản lý; ngành nghề, sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà doanh
nghiệp kinh doanh; quy trình công nghệ; năng lực của lao động
Các yếu tố bên ngoài: Các yếu tố bên ngoài là những yếu tố mang tính khách
quan như: chế độ chính trị xã hội; tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế; tiến bộ khoa
học kỹ thuật; chính sách tài chính tiền tệ; chính sách thuế Cụ thể là:
Các thông tin chung: Thông tin chung là những thông tin về tình hình kinh tế
chính trị, môi trường pháp lý, kinh tế có liên quan đến cơ hội kinh tế, cơ hội đầu tư, cơ
hội về kỹ thuật công nghệ Sự suy thoái hoặc tăng trưởng của nền kinh tế có tác động
mạnh mẽ đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Những thông tin về các cuộc thăm
dò thị trường, triển vọng phát triển trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ thương mại
ảnh hưởng lớn đến chiến lược và sách lược kinh doanh trong từng thời kỳ.
Các thông tin theo ngành kinh tế: Thông tin theo ngành kinh tế là những thông
tin mà kết quả hoạt động của doanh nghiệp mang tính chất của ngành kinh tế như đặc
điểm của ngành kinh tế liên quan đến thực thể của sản phẩm, tiến trình kỹ thuật cần

tiến hành, cơ cấu sản xuất có tác động đến khả năng sinh lời, vòng quay vốn, nhịp độ
phát triển của các chu kỳ kinh tế, độ lớn của thị trường và triển vọng phát triển
Các thông tin của bản thân doanh nghiệp: Thông tin về bản thân doanh nghiệp
là những thông tin về chiến lược, sách lược kinh doanh của doanh nghiệp trong từng
thời kỳ, thông tin về tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình tạo
lập, phân phối và sử dụng vốn, tình hình và khả năng thanh toán Những thông tin
này được thể hiện qua những giải trình của các nhà quản lý, qua Báo cáo tài chính, báo
cáo kế toán quản trị, báo cáo thống kê, hạch toán nghiệp vụ.
1.1.6. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.6.1. Phương pháp so sánh
So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích để xác định xu
hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Vì vậy, để tiến hành so sánh phải giải
quyết những vấn đề cơ bản, cần phải đảm bảo các điều kiện đồng bộ để có thể so sánh
được các chỉ tiêu tài chính như sự thống nhất về không gian, thời gian, nội dụng, tính
chất và đơn vị tính toán.
- Gốc so sánh được chọn là gốc về mặt thời gian hoặc không gian.



8
- Kỳ phân tích được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch
- Giá trị so sánh có thể được chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình
quân.
- Nội dung so sánh bao gồm:
+ So sánh giữa các số hiện thực kỳ này với số hiện thực kỳ trước để thấy rõ xu
hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ So sánh giữa số liệu doanh nghiệp với số liệu trung bình ngành, số liệu của các
doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp tốt hay xấu.
+ So sánh giữa số thực hiện so với kế hoạch để thấy mức phấn đấu của doanh

nghiệp.
+ So sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng tổng số ở mỗi bản báo cáo và qua
đó chỉ ra ý nghĩa tương đối của các khoản mục tạo điều kiện cho việc so sánh.
+ So sánh theo chiều ngang để thấy được sự biến động cả về số tuyệt đối và tương
đối của một khoản mục nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp.
- Điều kiện so sánh:
+ Phải xác định rõ gốc so sánh và kỳ phân tích
+ Các chỉ tiêu so sánh (các trị số của chỉ tiêu so sánh) phải đảm bảo tính chất có
thể so sánh được với nhau. Muốn vậy, chúng ta phải thống nhất về nội dung
kinh tế, phương pháp tính toán và thời gian tính toán.
1.1.6.2. Phương pháp tỷ lệ
Phương pháp này được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính vì nó dựa trên
ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính.
Về nguyên tắc, phương pháp này yêu cầu cần xác định được các ngưỡng, các
định mức để nhận xét, đánh giá được tình hình tài chính của doanh nghiệp, trên cơ sở
so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với các tỷ lệ tham chiếu.
Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng và bổ sung
càng hoàn thiện hơn vì: nguồn thông tin tài chính và kế toán được cải tiến và cung cấp
đầy đủ hơn là cơ sở để hình thành những tham chiếu đáng tin cậy nhằm đánh giá
những tỷ lệ của doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp. Việc áp dụng tin học cho
phép tích lũy dữ liệu và thúc đẩy nhanh qúa trình tính toán hàng loạt các tỷ lệ như:
- Tỷ lệ về khả năng thanh toán: được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các
khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
Thang Long University Library



9
- Tỷ lệ về khả năng cân đối vốn, cơ cấu vốn và nguồn vốn: qua chỉ tiêu này
phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính.

- Tỷ lệ về khả năng hoạt động kinh doanh: đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho
việc sử dụng nguồn lực của doanh nghiệp.
- Tỷ lệ về khả năng sinh lời: phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp.
1.1.6.3. Phương pháp Dupont
Trong phân tích tài chính, người ta thường vận dụng mô hình dupont để phân
tích mối liên hệ giữa các chỉ tiêu tài chính. Nhờ sự phân tích mối liên hệ giữa các chỉ
tiêu mà người ta có thể phát hiện ra những nhân tố đã ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tich
theo một trình tự logic chặt chẽ. Chẳng hạn, vận dụng mô hinh Dupont phân tích hiệu
quả kinh doanh trong mối liên hệ giữa các yếu tố đầu vào và kết quả đầu ra của doanh
nghiệp trong một kỳ kinh doanh nhất định.
Mô hình Dupont thường được vận dụng trong mô hình tài chính có dạng:
Tỷ suất sinh
lời của tài sản
=
Lợi nhuận thuần
=
Lợi nhuận thuần
X
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
Tỷ suất sinh
lời trên vốn
CSH
=
Lợi nhuận ròng
X
Doanh thu thuần
X

Tổng tài sản
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
Vốn CSH
Từ mô hình phân tích trên cho thấy, để nâng cao khả năng sinh lời của một đồng
tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng, quản trị doanh nghiệp phải nghiên cứu xem xét
có những biện pháp gì cho việc nâng cao không ngừng khả năng sinh lời cảu quá trình
sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Phân tích báo cáo tài chính dựa vào mô hình Dupont có ý nghĩa rất lớn đối với
quản trị doanh nghiệp. Điều đó không chỉ biểu hiện ở chỗ: có thể đánh giá hiệu quả kinh
doanh một cách sâu sắc và toàn diện. Đồng thời đanh giá đầy đủ và khách quan đến
những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó đề ra được
hệ thống các biện pháp tỷ mỉ và xác thực nhằm tăng cường công tác cải tiến tổ chức
quản lý doanh nghiệp, góp phần không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp ở các kì kinh doanh tiếp theo.
1.2. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.1. Phân tích tình hình Tài sản – Nguồn vốn
1.2.1.1. Phân tích tình hình tài sản




10
Cơ cấu tài sản
Cơ cấu tài sản thể hiện khi doanh nghiệp sử dụng một đồng vốn kinh doanh thì
dành ra bao nhiêu để hình thành tài sản lưu động còn bao nhiêu để đầu tư vào tài sản cố
định và được phản ánh bởi tỷ suất đầu tư vào tài sản dài hạn và tỷ suất đầu tư vào tài sản
ngắn hạn.
+ Cơ cấu tài sản
Tỷ suất tài sản ngắn

hạn (dài hạn) =
Giá trị tài sản ngắn hạn (dài
hạn)
x
100
Tổng giá trị tài sản

Tỷ suất đầu tư vào tài sản dài hạn (Ngắn hạn) càng lớn càng thể hiện mức độ
quan trọng của tài sản dài hạn (ngắn hạn) trong tổng tài sản mà doanh nghiệp đang sử
dụng vào kinh doanh, tình trạng cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất cũng như xu
hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
Hai tỷ suất này phản ánh trong một đồng tổng tài sản mà doanh nghiệp bỏ ra thì
có bao nhiêu đồng được dùng để hình thành nên TSDH và TSNH. Tỷ suất đầu tư vào
TSDH thể hiện mức độ đầu tư vào TSCĐ và tình hình trang thiết bị cơ sở vật chất kỹ
thuật, năng lực sản xuất hiện có và xu hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp trong
tương lai.
1.2.1.2. Phân tích tình hình nguồn vốn
Cơ cấu nguồn vốn
Cơ cấu nguồn vốn: là chỉ tiêu phản ánh bình quân trong một đồng vốn kinh
doanh hiện nay doanh nghiệp đang sử dụng có mấy đồng vay nợ, có mấy đồng là vốn
chủ sở hữu. Hệ số nợ và hệ số vốn chủ sở hữu: là hai tỷ số quan trọng nhất phản ánh
cơ cấu nguồn vốn của công ty.
+ Cơ cấu nguồn vốn
Tỷ suất nợ phải trả (VCSH) =
Giá trị nợ phải trả ( VCSH)
Tổng giá trị nguồn vốn

Để tiến hành phân tích cơ cấu nguồn vốn ta lập bảng: Phân tích cơ cấu nguồn
vốn. Đối với nguồn hình thành tài sản cần xem xét tỷ trọng của từng loại chiếm trong
tổng số cũng như xu hướng biến động của chúng. Nếu nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ

trọng cao trong tổng số thì doanh nghiệp có đủ khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính
và mức độ độc lập của doanh nghiệp đối với chủ nợ là cao. Ngược lại, nếu công nợ
Thang Long University Library



11
phải trả chiếm chủ yếu trong tổng số thì khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính của
doanh nghiệp sẽ thấp. Điều này dễ thầy rằng thông qua chỉ tiêu tỷ suất tài trợ.
Tỷ suất nợ phải trả cho biết số nợ mà doanh nghiệp phải trả cho các doanh
nghiệp hoặc cá nhân có liên quan đến hoạt động kinh doanh tỷ suất này càng nhỏ càng
tốt. Nó thể hiện khả năng tự chủ về vốn của doanh nghiệp.
Trong khi đó, tỷ suất vốn chủ sở hữu (hay tỷ suất tự tài trợ) lại cho biết số vốn
tự có để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh. Tỷ suất này càng cao càng
thể hiện khả năng độc lập cao về mặt tài chính hay mức độ tự tài trợ của doanh nghiệp
càng tốt bởi vì hầu hết tài sản mà doanh nghiệp hiện có đều được đầu tư bằng số vốn
của mình.

1.2.2. Phân tích mỗi quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn
1.2.2.1. Phân tích cân bằng Tài sản – Nguồn vốn trong ngắn hạn
Cân bằng tài chính trong ngắn hạn thể hiện qua chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động
ròng. Nhu cầu vốn lưu động phải được dự kiến trước trong các kế hoạch kinh tế, kỹ
thuật, tài chính cho doanh nghiệp. Mỗidoanh nghiệp đều có nhiệm vụ tổ chức huy
động nguồn vốn luu động sao cho đủ để dự trữ TSNH, đáp ứng nhu cầu của quá trình
hoạt động kinh doanh và tiết kiệm vốn. Trogn trường hợpdoanh nghiệp không tự
-
đáp
ứng được nhu cầu về vốn, doanh nghiệp có thể vay ngân hàng hoặc các đối tượng khác
để bổ sung vào vốn lưu động của mình. Mặt khác, doanh nghiệp cần có những biện
pháp hữu hiệu để sử dụng có hiệu quả và đảm bảo hiệu quả các nguồn vốn, tiến hành

phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn vốn hiện có nhàn đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu
cầu vốn kinh doanh của DN.
Chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động ròng được tính như sau:
Nhu cầu vốn lƣu động ròng (NCVLĐR) = Hàng tồn kho hạn + Nợ phải thu -
Nợ ngắn hạn (không kể vay ngắn hạn)
 NCVLĐR < 0: Tức là hàng tồn kho và các khoản phải thu ngắn hạn nhỏ hơn nợ
ngắn hạn. Đây là một tình trạng rất tốt đối với doanh nghiệp, với ý nghĩa là doanh
nghiệp được các chủ nợ ngắn hạn cung cấp vốn cần thiết cho chu kỳ sản xuất kinh
doanh. Vì vậy, đa số các doanh nghiệp đều muốn nhu cầu vốn lưu động ròng âm.
 NCVLĐR > 0: Điều này cho thấy nợ ngắn hạn không kể vay ngắn hạn không đủ
để tài trợ cho hàng tồn kho và khoản phải thu. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải huy động
các nguồn vay khác từ bên ngoài như ngân hàng, tổ chức tín dụng để tài trợ cho phần
chênh lệch này.
Mục tiêu mà các nhà quản trị hướng tới là làm sao để giảm NCVLĐR đến mức
tối thiểu. Muốn như vậy cần phải đạt được đồng thời: Duy trì một mức tồn kho tối



12
thiểu mà không gây gián đoạn quá trình sản xuất, thu ngắn tối đa chu kỳ sản xuất,
chính sách thương mại, công tác thu hồi nợ khách hàng phải được phát huy tốt nhất.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng phải cố gắng tìm kiếm các nguồn vốn tài trợ từ bên ngoài
như nợ nhà cung cấp, yêu cầu khách hàng ứng tiền trước
1.2.2.2. Phân tích cân bằng Tài sản – Nguồn vốn trong dài hạn
Cân bằng tài chính được duy trì bằng sự bù đắp các luồng tiền (tương ứng với
khấu hao tài sản cố định) với các khoản trả nợ (vốn và lãi) hàng năm. Tính ổn định
của tài sản cũng như nguồn vốn không những đảm bảo bàng sự cân bằng nhất thời
mà còn duy trì được sự cân bằng về dài hạn. Phần trội của tổng nguồn vốn dài hạn so
với tổng tài sản cố định được gọi là vốn lưu động, tạo thành một biên an toàn cho cân
bằng tài chính.

Tuy nhiên khả năng tài trợ cho TSCĐ chưa đủ để đảm bảo cho cân bằng tài
chính. Các TSLĐ khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh cũng làm một phần
nguồn vốn trở nên bất động nằm trong giá trị hàng tồn kho và các khoản phải thu.
Chênh lệch của tổng các khoản này với tổng các khoản phải trả tạo thành nhu cầu về
vốn lưu động, luôn thay đổi theo nhịp độ sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp chỉ có
được cân bằng tài chính khi vốn lưu động đủ khả năng bù đắp cho nhu cầu này.
Nhằm đánh giá cân bằng tài chính trong ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp
ta đi phân tích các chỉ tiêu vốn lưu động ròng (VLĐR), nhu cầu vốn lưu động ròng
(NCVLĐR) và ngân quỹ ròng (NOR). Trong đó: Vốn lưu động ròng là khái niệm
phản ánh khoản chênh lệch giữa các nguồn vốn và tài sản có cùng tính chất và thời
gian sử dụng.
Nguyên tắc cơ bản của quản lý tài chính là doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn
dài hạn để hình thành tài sản dài hạn, dùng nguồn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản ngắn
hạn. Điều đó đảm bảo ràng các tài sản dài hạn sẽ được sử dụng trong thời hạn dài mà
không phải chịu áp lực về thanh toán cho nguồn hình thành. Cách tài trợ này giúp
doanh nghiệp có được sự ổn định, an toàn về mặt tài chính.Có hai phương pháp tính
VLĐR của doanh nghiệp:
Vốn lƣu động ròng = Tài sản ngắn hạn -Nguồn vốn ngắn hạn
Công thức này thể hiện cách thức sử dụng nguồn vốn lưu động ròng của doanh
nghiệp đê tài trợ cho các khoản nợ ngắn hạn như khoản phải thu, hàng tồn kho hay các
khoản có tính thanh khoản cao của doanh nghiệp.
Vốn lƣu động ròng = Nguồn vốn dài hạn - Tài sản dài hạn
Theo công thức này, VLĐR thể hiện cân bàng giữa nguồn vốn ổn định với những
tài sản có thời gian chu chuyền trên một chu kỳ kinh doanh hoặc trên 1 năm. Nó phản
Thang Long University Library



13
ánh nguồn gốc vốn lưu động ròng. Có nghĩa là sau khi đã tài trợ đủ cho TSDH thì

phần dôi ra đó chính là VLĐ ròng. Cách tính này thể hiện phương thức tài trợ TSDH
và đồng thời phản ánh tác động của việc đầu tư lên cân bằng tài chính tổng thể.
Vốn lưu động ròng là một chỉ tiêu quan trọng đê đánh giá cân bằng tài chính của
doanh nghiệp. Điều này được thể hiện qua các trường hợp sau:
Trường hợp 1: Vốn lưu động ròng = Nguồn vốn dài hạn - Tài sản dài hạn<0
Trong trường hợp này, nguồn vốn thường xuyên không đủ để tài trợ cho tài sản
dài hạn, phần thiếu hụt này được bù đắp bằng một phần nguồn vốn tạm thời. Do tài sản
dài hạn có thời gian thu hồi chậm trong khi đó nguồn vốn tạm thời doanh nghiệp phải
thanh toán trong năm do đó khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp kém.
Cân bằng tài chính trong trương hợp này là không tốt.
Trường hợp 2: Vốn lưu động ròng = Nguồn vốn dài hạn - Tài sản dài hạn = 0
Trong trương hợp này, toàn bộ tài sản dài hạn được tài trợ vừa đủ từ nguồn vốn
thường xuyên. Cân bằng tài chính tuy có tiến triển và bền vững hơn trường hợp 1
nhưng độ an toàn chưa cao có nguy cơ mất bền vững.
Trường hợp 3: Vốn lưu động ròng = Nguồn vốn dài hạn - Tài sản dài hạn > 0
Trong trường hợp này, nguồn vốn thường xuyên không chỉ đủ để tài trợ cho tài
sản dài hạn mà còn sử dụng một phần để tài trợ cho tài sản ngắn hạn. Cân bằng tài
chính trong trường hợp này được đánh giá là tốt và an toàn.

1.2.3. Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Phân tích khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp qua BCKQKD . Thông tin
trên BCKQKD là thông tin về doanh thu, chi phí, lợi nhuận trước và sau thuế của
doanh nghiệp thu được từ các hoạt động trong năm và số thuế thu nhập doanh nghiệp
phải đóng vào NSNN. Việc so sánh các chỉ tiêu trên BCKQKD năm nay so với năm
trước sẽ giúp xác định xu hướng biến động của các chỉ tiêu đó và là cơ sở dự đoán chỉ
tiêu đó trong tương lai, cụ thể:
Xem xét sự biến động của từng chỉ tiêu trên BCKQKD giữa kỳ này với kỳ
trước bằng việc so sánh về số tuyệt đối, tương đối. Qua đó, thấy được tính hiệu quả
trong từng hoạt động (hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt động khác).
Phân tích các chỉ tiêu tỉ lệ GVHB trên DTT, chi phí bán hàng trên DTT, chi phí

quản lí doanh nghiệp trên DTT và so sánh với năm trước để khái quát tình hình quản lí
và sử dụng chi phí SXKD năm nay tốt hay kém hơn năm trước.




14
1.2.4. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Phân tích lưu chuyển tiền tệ có ý nghĩa lớn trong quản lý tài chính của doanh
nghiệp. Nó là công cụ hữu ích để quản lý và theo dõi tình trạng của doanh nghiệp. Một
trong những ràng buộc lớn nhất của một doanh nghiệp là ở thời điểm nào cũng phải đủ
tiền để đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh. Quản lý quỹ tiền là một chức năng chủ
chốt trong doanh nghiệp. Ngược lại, vì tiền là một yếu tố khan hiếm, gây chi phí cho
doanh nghiệp, nên phải quản lý chặt chẽ: có đủ chỉ tiêu, không nên có nhiều quá. Vào
thời điểm nào mà doanh nghiệp có dư tiền so với nhu cầu, thì nhà quản lý giỏi phải tìm
kiếm cơ hội để tận dụng tiền của doanh nghiệp.
Bảng lưu chuyển tiền tệ là công cụ rất hữu ích để thực hiện những công tác này.
Ngoài doanh nghiệp, Nhà nước, các nhà đầu tư cũng tìm được trong bảng này những
câu trả lời cho nhu cầu thông tin đối với doanh nghiệp. Nó cho phép người sử dụng
hiểu được kỳ trước doanh nghiệp có bao nhiêu tiền, kỳ này doanh nghiệp có bao nhiêu
tiền, do những nguồn nào tạo nên, chi vào những khoản nào, có hợp lý không, có hợp
pháp không, khả năng thanh toán và thu hòi của doanh nghiệp như thế nào. Trên cơ sở
đó, đo lường được nhu cầu vốn của doanh nghiệp, đánh giá được cách quản lý tiền,
đưa ra dự đoán doanh nghiệp có bao nhiêu tiền trong kỳ sau, từ những dòng tiền nào.
Qua đó dự báo nhu cầu và khả năng tài chính của doanh nghiệp.Báo cáo lưu chuyển
tiền tệ gồm ba phần:
Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh: phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và
chi ra liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, như thu tiền bán hàng,
thu từ các khoản nợ phải thu, chi trả nợ cho nhà cung cấp, chi trả lương công nhân
viên, hoạt động này có ý nghĩa quyết định trong việc xác định lãi lỗ ròng trong doanh

nghiệp. Lượng tiền có được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chủ yếu để duy
trì khả năng trả nợ, hoạt động và đầu tư của doanh nghiệp
Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư: phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và
chi ra liên quan đến hoạt động đầu tư như thu do nhượng bán, thanh lý tài sản cố định,
thu hồi các khoản đầu tư, và chi ra do mua tài sản cố định, xây dựng cơ bản, chi đầu
tư vào đơn vị khác thông qua việc góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán, cho vay,
Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính: phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và
chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp như thu từ các chủ
sở hữu góp vốn, thu do đi vay, thu lãi tiền gửi, thu cổ tức được chia,…và chi trả nợ
vay, chi hoàn vốn, chi trả lãi cho các nhà đầu tư,



Thang Long University Library



15
1.2.5. Phân tích chỉ các nhóm chỉ tiêu tài chính
1.2.5.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán

Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn =
Tổng giá trị tài sản ngắn hạn
Tổng giá trị nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn: Thể hiện khả năng doanh nghiệp có đủ tài
sản ngắn hạn để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không. Nếu hệ số khả năng thanh
toán ngắn hạn nhỏ hơn 1, chứng tỏ rằng tài sản ngắn hạn không đủ để đảm bảo thanh
toán khoản nợ ngắn hạn, trong trường hợp này nếu công ty cân đối dòng tiền không tốt
sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán, ảnh hưởng đến uy tín tài chính của công ty. Tuy

nhiên, hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn cao cũng không tốt vì sẽ ảnh hưởng đến
khả năng sinh lời của công ty.
Trong hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn bao hàm một loại tài sản khó chuyển
đổi thành tiền mặt nhanh chóng đó là hàng tồn kho, vì vậy để xem xét chính xác hơn
khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của công ty, nhà phân tích sử dụng chỉ tiêu bổ sung
là khả năng thanh toán nhanh, cụ thể:
Hệ số khả năng thanh toán nhanh nhanh
Tài sản ngắn hạn – hàng tồn kho được gọi là tài sản dễ chuyển đổi thành tiền.
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán nhanh của các tài sản có thể chuyển đổi
thành tiền đối với các khoản nợ ngắn hạn,
Hệ số khả năng thanh toán nhanh =
Tổng giá trị tài sản ngắn hạn – Giá
trị hàng tồn kho
Tổng giá trị nợ ngắn hạn
Nếu hệ số khả năng thanh toán bình thường quá cao, kéo dài cũng không tốt,
có thể dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn giảm. Chỉ tiêu này thấp quá, ké dài càng không tốt
có thể dấu hiệu rủi ro tài chính xuất hiện, nguy cơ phá sản có thể xảy ra. Ta có thể
tham khảo hệ số thanh toán nhanh bình thường (k), qua thực tế nghiên cứu của trung
bình các doanh nghiêp với các lĩnh vực chủ yếu trên thị trường như sau:
K < 0,75 thấp
0,75 ≤ K ≤ 2 trung bình
K > 2 cao




16
Hệ số khả năng thanh tức thời
Hệ số khả năng thanh tức thời =
Trị giá tiền và các khoản tương

đương tiền
Tổng giá trị nợ ngắn hạn

Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán nhanh của tiền và các khoản tương
đương tiền đối với các khoản nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này cao quá , kéo dài chứng tỏ khả
năng thanh toán nhanh tốt, tuy nhiên chỉ tiêu này quqs cao có thể dẫn tới hiệu quả sử
dụng vốn giảm. Chỉ tiêu này thấp quá, kéo dài chứng tỏ doanh nghiệp không đủ khả
năng thanh toán các khoản nợ công ngắn hạn, dấu hiệu rủi ro tài chính xuất hiện, nguy
cơ phá sản có thể xảy ra. Ta có thể tham khảo hệ số thanh toán nhanh (Kí hiệu: K), qua
thực tế nghiên cứu tất cả các doanh nghiệp:
K< 0,5 thấp
0,5 ≤ K ≤ 1 trung bình
K > 1 cao.
Hệ số khả năng thanh toán lãi vay

Hệ số thanh toán lãi vay =
Tổng giá trị lợi nhuận trước lãi vay và
thuế
Tổng lãi vay phải trả
Lãi vay phải trả là khoản chi phí sử dụng vốn nợ vay mà doanh nghiệp phải trả
cho nhà cung cấp vốn và nguồn trả nợ là từ lợi nhuận trước lãi vay và thuế. Hệ số này
cho biết khả năng thanh toán lãi tiền vay của doanh nghiệp, đồng thời phản ánh mức
độ rủi ro có thể gặp phải của các chủ nợ. Nó cho biết số vốn đi vay đã được doanh
nghiệp sử dụng như thế nào, đem lại mức lợi nhuận là bao nhiêu, có đủ bù đắp lãi tiền
vay hay không. Hệ số này càng cao phản ánh công ty làm ăn càng hiệu quả, mức sinh
lời của đồng vốn cao đủ để đảm bảo thanh toán lãi vay đúng hạn và ngược lại.
1.2.5.2. Nhóm chỉ tiêu khả năng quản lý tài sản
+ Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn
Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn =
Doanh thu thuần

Trị giá tài sản ngắn hạn
ơ
Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn thể hiện một đồng tài sản ngắn hạn của công
ty tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao,
Thang Long University Library



17
khả năng quản lý tài sản ngắn hạn của công ty càng tốt, tài sản ngắn hạn đóng góp vào
việc tạo ra doanh thu thuần lớn và tăng khả năng sinh lời của công ty. Hiệu quả sử
dụng tài sản ngắn hạn là một trong những chỉ tiêu tổng hợp dùng để đánh giá chất
lượng công tác quản lý và sử dụng tài sản kinh doanh nói chung của doanh nghiệp.
Thông qua chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn cho phép các nhà quản
lý tài chính của doanh nghiệp đề ra các biện pháp, các chính sách quyết định đúng đắn,
phù hợp để quản lý tài sản nói chung và tài sản ngắn hạn nói riêng ngày càng có hiệu
quả trong tương lai, từ đó nâng cao lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
+ Hiệu suất sử dụng tài sản dài hạn
Hiệu suất sử dụng tài sản dài hạn (TSDH) phản ánh một đồng giá trị tài sản dài
hạn làm ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn được thể
hiện qua chỉ tiêu chất lượng, chỉ tiêu này nêu lên các đặc điểm, tính chất, cơ cấu, trình
độ phổ biến, đặc trưng cơ bản của hiện tượng nghiên cứu. Chỉ tiêu chất lượng này
được thể hiện dưới hình thức giá trị về tình hình và sử dụng tài sản dài hạn trong một
thời gian nhất định. Trong sản xuất kinh doanh thì chỉ tiêu này là quan hệ so sánh giữa
giá trị sản lượng đã được tạo ra với giá trị tài sản cố định sử dụng bình quân trong kỳ;
hoặc là quan hệ so sánh giữa lợi nhuận thực hiện với giá trị tài sản dài hạn sử dụng
bình quân.
Hiệu suất sử dụng tài sản dài hạn =
Doanh thu thuần

Giá trị tài sản dài hạn

Một đồng tài sản dài hạn tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này cao
chứng tỏ hiệu quả quản lý tài sản dài hạn của công ty tốt, mức đầu tư và khai thác tài
sản dài hạn hợp lý, điều này làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh trong công ty. Do
đó, để nâng cao chỉ tiêu này, đồng thời với việc tăng lượng sản phẩm bán ra, doanh
nghiệp phải giảm tuyệt đối những tài sản dài hạn thừa không cần dùng vào sản xuất,
bảo đảm tỷ lệ cân đối giữ tài sản dài hạn tích cực và không tích cực, phát huy và khai
thác tối đa năng lực sản xuất hiện có của tài sản dài hạn.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp mong muốn tài sản vận
động không ngừng để đẩy mạnh tăng doanh thu, từ đó là nhân tố góp phần tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản có thể xác định bằng công
thức như sau:




18
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
Doanh thu thuần
Giá trị tổng tài sản

Chỉ tiêu này cho biết trong một kỳ phân tích các tài sản quay được bao nhiêu
vòng hay 1 đồng tài sản tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần, chỉ tiêu này càng
cao chứng tỏ các tài sản vận động nhanh, góp phần tăng doanh thu và là điều kiện để
nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nếu chỉ tiêu này thấp chứng tỏ các tài sản vận
động chậm, có thể hàng tồn kho, hàng dở dang nhiều, có thể tài sản cố định chưa hoạt
động hết công suất làm cho doanh thu của doanh nghiệp giảm. Tuy nhiên, cần lưu ý
rằng khi phân tích chỉ tiêu này cần xem xét đặc điểm ngành nghề kinh doanh và đặc

điểm tài sản mà doanh nghiệp hoạt động, để có kết luận chính xác và đưa ra biện pháp
hợp lý để tăng tốc độ quay vòng của tài sản.
+ Vòng quay hàng tồn kho
Số vòng quay hàng tồn kho là một tiêu chuẩn đánh giá doanh nghiệp sử dụng
hàng tồn kho của mình hiệu quả như thế nào. Phản ánh số vòng quay hàng hoá tồn kho
bình quân trong kỳ hay là thời gian hàng hoá nằm trong kho, trước khi bán ra.

Số vòng quay hàng tồn kho =
Giá vốn hàng bán
Giá trị hàng tồn kho

Vòng quay hàng tồn kho lớn thì thời gian quay vòng nhanh hay hàng tồn kho lưu
trong kho ngắn hơn, công ty thu hồi vốn từ hàng tồn kho nhanh hơn (bán hàng nhanh
hơn), từ đó tiết kiệm được các chi phí liên quan đến hàng tồn kho như chi phí cơ hội,
chi phí đầu tư, chi phí lưu kho tăng khả năng sinh lời của công ty. Khi phân tích về
vòng quay hàng tồn kho nhà phân tích cần xem xét các tác động của nhân tố ngành và
tình hình nền kinh tế. Với những ngành sản xuất hoặc những ngành mà hàng hóa là tư
liệu sản xuất thì thời gian lưu kho trung bình của hàng tồn kho sẽ lớn hơn so với ngành
thương mại hoặc hàng hóa là tư liệu tiêu dùng. Mặt khác, khi nền kinh tế trong trạng
thái phát triển vòng quay hàng tồn kho của các công ty sẽ có xu hướng tốt hơn trong
nền kinh tế khủng hoảng.
+ Thời gian luân chuyển kho
Thời gian luân chuyển kho trung bình
=
360
Hệ số lưu kho
Chỉ tiêu thời gian luân chuyển kho trung bình cho biết bình quân hàng tồn kho
quay được bao nhiêu vòng trong kỳ để tạo ra doanh thu.

Thang Long University Library




19
+ Vòng quay khoản phải thu
Khoản phải thu là những hoá đơn bán hàng chưa thu tiền về do doanh nghiệp
thực hiện chính sách bán chịu, các khoản tạm ứng chưa thanh toán, khoản trả trước
cho người bán, thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, phải thu nội bộ.
ơ
Số vòng quay các khoản phải thu =
Doanh thu thuần
Các khoản phải thu

Vòng quay khoản phải thu thấp thì thời gian quay vòng khoản phải thu dài hay 1
đồng mà công ty bán chịu sẽ thu hồi chậm, dẫn đến số vốn bị khách hàng chiếm dụng
lớn. Điều này sẽ dẫn đến tăng các khoản chi phí quản lý phải thu như chi phí đòi nợ,
chi phí nợ xấu, chi phí cơ hội, chi phí chiết khấu Tuy nhiên vòng quay khoản phải thu
trong công ty chịu ảnh hưởng nhiều bởi chính sách bán chịu vì nếu công ty nới lỏng
chính sách bán chịu như thời gian bán chịu kéo dài ra, hay tiêu chuẩn bán chịu thấp
hơn sẽ khiến cho vòng quay khoản phải thu giảm và thời gian thu nợ cũng tăng lên. Do
đó, khi phân tích về quản lý khoản phải thu cần xem xét toàn bộ chính sách bán chịu
của công ty.
Thời gian thu nợ
=
360
Vòng quay các khoản phải thu
+ Thời gian quay vòng của tiền
Vòng quay tiền phản ánh thời gian quay vòng của tiền trong chu kì kinh doanh của
doanh nghiệp. Vòng quay tiền và thời gian quay vòng tiền được xác định như sau:


Vòng quay tiền
=
Doanh thu thuần
Giá trị tiền và chứng khoán ngắn hạn



Thời gian quay vòng tiền
=
360
Vòng quay tiền
Tiền là khoản mục có tính lỏng cao nhất trong tổng tài sản của doanh nghiệp.
Vòng quay tiền càng cao chứng tỏ hiệu quả kinh daonh của doanh nghiệp càng tốt.
Việc giữ tiền và các tài sản tương đương tiền đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi thế
như chủ động trong kinh doanh, mua hàng trả tiền ngay được hưởng chiết khấu, ngoài
ra khi vật tư hàng hóa rẻ doanh nghiệp có thể dự trữ với lượng lớn tạo điều kiện giảm
chi phí sản xuất. Tuy nhiên, tiền được dự trữ ở mức không hợp lí có thể gây ra nhiều



20
bất lợi. Thứ nhất điều kiện thiếu vốn ở các doanh nghiệp đang khá phổ biến, việc giữ
quá nhiều tiền sẽ gây ứ đọng vốn, hạn chế khả năng đầu tư vào tài sản khác, do đó lợi
nhuận của doanh nghiệp có thể bị giảm. Thứ hai, do giá trị theo thời gian và do tác
động của lạm phát đồng tiền sẽ giảm giá trị. Vì vậy cản quan tâm tới tốc độ vòng quay
tiền sao cho đem lại khả năng sinh lợi cao nhất cho doanh nghiệp.
1.2.5.3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng quản lý nợ
Khi tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt, doanh nghiệp sẽ ít phải đi vay, khả
năng thanh toán tốt ít đi chiếm dụng vốn và cũng ít bị chiếm dụng vốn. Điều đó tạo
cho doanh nghiệp có thể chủ động về vốn bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh

thuận lợi. Ngược lại, tình hình tài chính gặp khó khăn sẽ đến tình trạng chiếm dụng
vốn lẫn nhau, đơn vị mất đi tính chủ động trong kinh doanh và khi không còn khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn, sẽ dẫn đến tình trạng phá sản. Ta có thể biết được
tình hình quản lý nợ của doanh nghiệp thông qua một số tỷ số sau:
 Tỷ số nợ/Tổng tài sản: tỷ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của doanh
nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn.
Tỷ số nợ/Tổng tài sản
=
Tổng nợ
Tổng tài sản
Về mặt lý thuyết, chỉ số này nằm trong khoảng 0 < và < 1 nhưng thông thường
nó dao động quanh giá trị 0,5. Vì nó bị tự điều chỉnh từ hai phía: Chủ nợ và con nợ.
Nếu chỉ số này càng cao, chủ nợ sẽ rất chặt chẽ khi quyết định cho vay thêm, mặt khác
về phía con nợ, nếu vay nhiều quá sẽ ảnh hưởng đến quyền kiểm soát, đồng thời sẽ bị
chia phần lợi quá nhiều cho vốn vay (trong thời kỳ kinh doanh tốt đẹp) và rất dễ phá
sản (trong thời kỳ kinh doanh đình đốn).
 Tỷ số nợ/Vốn chủ sở hữu: tỷ số này đo lường mối tương quan giữa nợ và vốn chủ
sở hữu của công ty.
Tỷ số nợ/Vốn chủ sở hữu
=
Tổng nợ
Vốn chủ sở hữu
Tỷ số này luôn nhỏ hơn 1, khi tỷ số này nhỏ hơn 1 tức lúc này doanh nghiệp sử
dụng vốn chủ sở hữu nhiều hơn vốn đi vay, khả năng trả nợ của doanh nghiệp tốt. Nếu
tỷ số này lớn hơn 1 thì doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản, lúc này doanh nghiệp sử
dụng vốn đi vay nhiều hơn vốn tự có, nhưng việc sử dụng vốn đi vay giúp cho doanh
nghiệp giảm được thuế thu nhập doanh nghiệp, vì lãi vay sẽ được tính vào chi phí, do
đó lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng nhưng khả năng trả nợ của doanh nghiệp lúc
này không cao.
Thang Long University Library




21
 Khả năng thanh toán lãi vay: Sử dụng nợ nói chung tạo ra lợi nhuận cho doanh
nghiệp, nhưng cổ đông chỉ có lợi khi nào lợi nhuận tạo ra lớn hơn lãi phải trả cho
việc sử dụng nợ. Nếu không, doanh nghiệp sẽ không có khả năng trả lãi và gánh
nặng lãi gây thiệt hại cho cổ đông. Để đánh giá khả năng trả lãi vay của doanh
nghiệp chúng ta sử dụng công thức:
Khả năng thanh toán lãi vay
=
EBIT
Lãi vay
Mứcan toàn tối thiểu của tỷ số này là bằng 2. Nếu hệ số này <1 thì việc kinh
doanh của doanh nghiệp không có lãi, gặp khó khăn trong việc thanh toán lãi vay.
 Khả năng thanh toán nợ vay: Tỷ số khả năng thanh toán lãi vay chưa thật sự
phản ánh hết trách nhiệm nợ của doanh nghiệp, vì ngoài lãi ra doanh nghiệp còn phải
trả nợ gốc và các khoản khác. Do đó, chúng ta không chỉ quan tâm đến khả năng trả lãi
mà còn quan tâm đến khả năng thanh toán nợ nói chung. Để đo lường khả năng này ta
sử dụng công thức:
Khả năng thanh toán nợ
=
Giá vốn hàng bán + Khấu hao + EBIT
Nợ gốc + Chi phí lãi vay
Tỷ số này tối thiểu phải lớn hơn 2 mới đảm bảo khả năng hoàn trả nợ gốc của
doanh nghiệp.
1.2.5.4. Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời
+ Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (ROS)
Tỷ suất lợi nhuân trên doanh thu phản ánh trong một đồng doanh thu mà doanh
nghiệp thực hiện trong kỳ có mấy đồng lợi nhuận. Tỷ suất này càng cao chứng tỏ

doanh nghiệp làm ăn càng có lãi.

Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu =
Lợi nhuận sau thuế
x100%
Doanh thu thuần
+ Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA)
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả việc sử dụng tài sản trong hoạt động kinh doanh
của công ty và cũng là một thước đo để đánh giá năng lực quản lý của ban lãnh đạo
công ty.
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản =
Lợi nhuận sau thuế
x100%
Tổng giá trị tài sản




22
Hệ số này có ý nghĩa là với 1 đồng tài sản của công ty thì sẽ mang lại bao nhiêu
đồng lợi nhuận. Một công ty đầu tư tài sản ít nhưng thu được lợi nhuận cao sẽ là tốt
hơn so với công ty đầu tư nhiều vào tài sản mà lợi nhuận thu được lại thấp. Hệ số ROA
thường có sự chênh lệch giữa các ngành. Những ngành đòi hỏi phải có đầu tư tài sản
lớn vào dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị, công nghệ như các ngành vận tải, xây
dựng, sản xuất kim loại… thường có ROA nhỏ hơn so với các ngành không cần phải
đầu tư nhiều vào tài sản như ngành dịch vụ, quảng cáo, phần mềm…
+ Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)
Các nhà đầu tư thường quan tâm đến chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu
vì họ quan tâm đến khả năng thu được lợi nhuận từ đồng vốn mà họ bỏ ra để đầu tư,
hơn nữa chỉ tiêu này cũng giúp các nhà quản trị tăng cường kiểm soát và bảo toàn vốn

góp cho doanh nghiệp tăng trưởng bền vững. Chỉ tiêu này được xác định bằng công
thức sau:
Tỷ suất lợi nhuận trên
vốn chủ sở hữu

=
Lợi nhuận sau thuế
x100%
Tổng giá trị vốn chủ sở hữu

Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu đầu tư thì tạo ra được bao
nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao, càng
biểu hiện xu hướng tích cực vì sẽ giúp cho các nhà quản trị có thể huy động vốn trên
thị trường tài chính để tài trợ cho sự tăng trưởng của doanh nghiệp, ngược lại chỉ tiêu
này nhỏ thì hiệu quả kinh doanh thấp, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc huy
động vốn, tuy nhiên sức sinh lời của vốn chủ sở hữu cao không phải lúc nào cũng
thuận lợi do ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính, khi đó mức độ mạo hiểm và rủi ro cao,
vì vậy khi phân tích phải tùy thuộc đặc điểm của ngành nghề kinh doanh.
1.3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng chịu tác
động của nhiều yếu tố, cả bên trong lẫn bên ngoài. Vì lẽ đó, cấu trúc tài chính của
doanh nghiệp cũng thay đổi theo. Xem xét các nhân tố ảnh huởng tới cấu trúc tài chính
doanh nghiệp ta có:
Nhân tố khách quan
Môi trường quốc tế và khu vực
Các xu hướng chính trị trên thế giới, các chính sách bảo hộ và mở cửa của các
nước trên thế giới, tình hình chiến tranh, sự mất ổn định chính trị, tình hình phát triển
kinh tế của các nước trên thế giới ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm cũng như việc lựa chọn và sử dụng các yếu tố đầu vào của
Thang Long University Library




23
doanh nghiệp. Do vậy mà nó tác động trực tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp. Môi trường kinh tế ổn định cũng như chính trị trong khu vực ổn
định là cơ sở để các doanh nghiệp trong khu vực tiến hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh thuận lợi góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Môi trường nền kinh tế trong nước
 Môi trường chính trị, luật pháp:Môi trường chính trị ổn định luôn luôn là tiền đề
cho việc phát triển và mở rộng các hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp, các tổ chức
cá nhân trong và ngoài nước.
Môi trường pháp lý bao gồm luật, các văn bản dưới luật, các quy trình quy phạm
kỹ thuật sản xuất tạo ra một hành lang cho các doanh nghiệp hoạt động, các hoạt động
của doanh nghiệp như sản xuất kinh doanh cái gì, sản xuất bằng cách nào, bán cho ai ở
đâu, nguồn đầu vào lấy ở đâu đều phải dựa vào các quy định của pháp luật. Các doanh
nghiệp phải chấp hành các quy định của pháp luật, phải thực hiện các nghĩa vụ của
mình với nhà nước, với xã hội và với người lao động như thế nào là do luật pháp quy
định (nghĩa vụ nộp thuế, trách nhiệm đảm bảo vệ sinh môi trường, đảm bảo đời sống
cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp ). Có thể nói luật pháp là nhân tố kìm
hãm hoặc khuyến khích sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng
trực tiếp tới các kết quả cũng như hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp.
 Môi trường văn hoá xã hội: Tình trạng thất nghiệp, trình độ giáo dục, phong
cách, lối sống, phong tục, tập quán, tâm lý xã hội đều tác động một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, có thể theo hai
chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Nếu không có tình trạng thất nghiệp, người lao
động có nhiều cơ hội lựa chọn việc làm thì chắc chắn chi phí sử dụng lao động của
doanh nghiệp sẽ cao do đó làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
và ngược lại nếu tình trạng thất nghiệp là cao thì chi phí sử dụng lao động của doanh

nghiệp sẽ giảm làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng tình
trạng thất nghiệp cao sẽ làm cho cầu tiêu dùng giảm và có thể dẫn đến tình trạng an
ninh chính trị mất ổn định, do vậy lại làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Trình độ văn hoá ảnh hưởng tới khả năng đào tạo cũng như chất lượng
chuyên môn và khả năng tiếp thu các kiến thức cần thiết của đội ngũ lao động, phong
cách, lối sống, phong tục, tập quán, tâm lý xã hội nó ảnh hưởng tới cầu về sản phẩm
của các doanh nghiệp. Nên nó ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp.
 Môi trường kinh tế:Các chính sách kinh tế của nhà nước, tốc độ tăng trưởng nền
kinh tế quốc dân, tốc độ lạm phát, thu nhập bình quân trên đầu người là các yếu tố



24
tác động trực tiếp tới cung cầu của từng doanh nghiệp. Nếu tốc độ tăng trưởng nền
kinh tế quốc dân cao, các chính sách của Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp
đầu tư mở rộng sản xuất, sự biến động tiền tệ là không đáng kể, lạm phát được giữ
mức hợp lý, thu nhập bình quân đầu người tăng sẽ tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và ngược lại.
 Môi trường khoa học kỹ thuật công nghệ:Tình hình phát triển khoa học kỹ thuật
công nghệ, tình hình ứng dụng của khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất trên
thế giới cững như trong nước ảnh hưởng tới trình độ kỹ thuật công nghệ và khả năng
đổi mới kỹ thuật công nghệ của doanh nghiệp do đó ảnh hưởng tới năng suất chất
lượng sản phẩm tức là ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Môi trường ngành
 Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có trong ngành:Mức độ cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành với nhau ảnh hưởng trực tiếp tới lượng
cung cầu sản phẩm của mỗi doanh nghiệp, ảnh hưởng tới giá bán, tốc độ tiêu thụ sản
phẩm do vậy ảnh hưởng tới hiệu quả của mỗi doanh nghiệp.
 Người cung ứng:Các nguồn lực đầu vào của một doanh nghiệp được cung cấp

chủ yếu bởi các doanh nghiệp khác, các đơn vị kinh doanh và các cá nhân. Việc đảm
bảo chất lượng, số lượng cũng như giá cả các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp phụ
thuộc vào tính chất của các yếu tố đó, phụ thuộc vào tính chất của người cung ứng và
các hành vi của họ.
 Người mua:Khách hàng là một vấn đề vô cùng quan trọng và được các doanh
nghiệp đặc biệt quan tâm chú ý. Mật độ dân cư, mức độ thu nhập, tâm lý và sở thích
tiêu dùng… của khách hàng ảnh hưởng lớn tới sản lượng và giá cả sản phẩm sản xuất
của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới sự cạnh tranh của doanh nghiệp vì vậy ảnh hưởng tới
hiệu quả của doanh nghiệp.
Nhân tố chủ quan
Hình thức sở hữu của doanh nghiệp:Sự khác nhau giữa các loại hình doanh
nghiệp như: Doanh nghiệp nhà nước, Doanh nghiệp tư nhân, Doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, công ty cổ phần sẽ có sự ràng buộc về pháp lý, tư cách pháp nhân và
điều kiện hoạt động khác nhau. Vì thế khả năng tiếp cận với các nguồn vốn trên thị
trường là khác nhau đối với mồi doanh nghiệp dẫn đến cách thức tài trợ là khác nhau.
Ví dụ, đối với công ty cổ phần có thể huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu,
tăng vốn góp của các thành viên, các cổ đông để gia tăng vốn chủ hoặc vay nợ trên thị
trường tài chính. Nhưng đối với Doanh nghiệp tư nhân thì cách thức huy động ít hơn
và mức huy động cũng không lớn.
Quy mô hoạt động của doanh nghiệp: Những doanh nghiệp có quy mô lớn là kết
quả của một quá trình phát triển lâu dài nên họ có một khả năng tài chính dồi dào.
Thang Long University Library



25
Nhũng doanh nghiệp này có uy tín nên có khả năng huy động vốn một cách dễ dàng từ
các tô chức tín dụng và các tô chức khác với lãi suất thấp.
Đặc điềm cấu trúc tài sản của doanh nghiệp:Ảnh hưởng của cấu trúc tài sản đến
tỷ suất nợ thề hiện ở chồ: TSCĐ còn được dùng để thế chấp đề giảm thiệt hại đối với

người cho vay khi rủi ro xảy ra. Mặt khác, các doanh nghiệp đầu tư vào TSCĐ có giá
trị lớn thì rủi ro cũng lớn nếu vay nợ để đầu tư. Vì vậy để giảm thiểu rủi ro, doanh
nghiệp nên duy trì mức nợ thấp
Tỷ suất lãi vay:Tỷ suất lãi vay cao thì chi phí lãi vay càng lớn dẫn đến hiệu quả
kinh doanh thấp hoặc không có. Vì vậy khi tỷ suất này cao thì các doanh nghiệp có xu
hướng giảm nợ, làm thay đổi cấu trúc tài chính.
Hiệu quả kinh doanh:Hiệu quả kinh doanh càng cao thì lợi nhuận làm ra sau khi
trừ đi chi phí sử dụng vốn càng lớn làm cho ROE càng lớn. Mặt khác, do quan hệ giữa
RE và lãi suất vay tác động tới tỷ suất nợ, nếu RE - lãi suất vay > 0 thì doanh nghiệp
có xu hướng gia tăng tỷ suất nợ nhằm mục đích tăng cường sự khuyếch đại của đòn
bẩy tài chính đến ROE.


×