Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ phần Quốc tế y tế Tam Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.37 MB, 68 trang )

`
1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG VỐN LƢU ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Một số vấn đề cơ bản về vốn lƣu động trong doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm vốn lưu động trong doanh nghiệp
Trong nền kinh tế quốc dân, mỗi doanh nghiệp được coi như một tế bào của nền
kinh tế với nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo
ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cung cấp cho xã hội. Doanh nghiệp có thể thực
hiện một số hay tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm
hàng hóa và dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có đối tượng
lao động, tư liệu lao động và sức lao động. Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh
doanh được tiến hành thường xuyên, liên tục đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng
TSLĐ, doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn đầu tư vào loại tài sản này, số vốn đó gọi
là vốn lưu động.
Theo PGS.TS Nguyễn Đình Kiệm, giáo trình “Tài chính doanh nghiệp”- Học
viện Tài chính, Nhà xuất bản Tài chính có đưa ra khái niệm vốn lưu động như sau: “để
đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thường xuyên, liên tục đòi
hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tài sản lưu động nhất định. Do đó, để hình thành
nên các tài sản lưu động, doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn tiền tệ nhất định đầu
tư vào các tài sản đó. Số vốn này gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp.”
PGS.TS Lưu Thị Hương, giáo trình “Tài chính doanh nghiệp”- Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân lại cho rằng: “bất kỳ hoạt
động sản xuất – kinh doanh nào cũng cần phải có các đối tượng lao động. Lượng tiền
ứng trước để thỏa mãn nhu cầu về các đối tượng lao động gọi là vốn lưu động của
doanh nghiệp.”
Tóm lại, theo các định nghĩa từ hai giáo trình trên, ta có thể hiểu “vốn lưu động
là số vốn ứng ra để hình thành nên TSLĐ nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh
của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên và liên tục. Vốn lưu động chuyển
toàn bộ giá trị của chúng vào lưu thông và từ trong lưu thông, toàn bộ giá trị của


chúng được hoàn lại sau một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh”.
1.1.2. Đặc điểm của vốn lưu động trong doanh nghiệp
Luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm: giá trị của vốn lưu
động được chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm, khi kết thúc quá trình sản xuất
kinh doanh, giá trị hàng hóa được thực hiện và vốn lưu động được thu hồi về thông
qua doanh thu bán hàng sau mỗi chu kỳ và trở về hình thái ban đầu là tiền tệ. Trong
các doanh nghiệp khác nhau thì sự vận động của vốn lưu động là khác nhau.
Thang Long University Library
`
2
Đối với doanh nghiệp sản xuất, vốn lưu động từ hình thái ban đầu là tiền được
chuyển hóa sang hình thái vật tư dự trữ, sản phẩm dở dang, thành phẩm hàng hóa, khi
kết thúc quá trình tiêu thụ lại trở về
hóa sang hình thái hàng hóa và cuối cùng chuyển về hình thái tiền tệ chứ không
qua giai đoạn sản xuất, chế biến. Ta có thể tóm tắt theo trình tự sau:
T – H – T’
Như vậy, qua đây ta có thể thấy vốn lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản
xuất kinh doanh, được phân bổ ở tất cả các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Vốn lưu động vận hình thái ban đầu là tiền. Như vậy, vốn lưu động
luôn có mặt ở tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất và thường xuyên chuyển từ
dạng này sang dạng khác. Ta có sơ đồ sau:
T – H…. sản xuất …. H’ – T’
Đối với các doanh nghiệp thương mại, quá trình vận động của vốn lưu động
nhanh hơn. Từ hình thái vốn bằng tiền chuyển động thường xuyên và biến đổi từ hình
thái này qua hình thái khác và sau đó sẽ chuyển về hình thái ban đầu. Qua quá trình
vận động đó, vốn lưu động không chỉ biến đổi về hình thái, mà quan trọng nó còn tạo
nên sự biến đổi về giá trị. Điều này giúp các doanh nghiệp tìm ra biện pháp và phương
hướng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động cũng như có các công tác hợp lý
nhằm thu hồi vốn lưu động để tiếp tục tiến hành mua sắm, đầu tư máy móc, trang thiết
bị,… để phục vụ cho kỳ kinh doanh tiếp theo.

Chúng ta có thể mô tả trong sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ kinh doanh vốn lƣu động
Mua vật tư Sản xuất
Vốn bằng tiền Vốn dự trữ sản xuất Vốn trong sản xuất
Hàng hóa sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm

(Nguồn: Sinh viên tự tổng hợp)
Vốn lƣu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ kinh doanh
gọi là sự chu chuyển của vốn lưu động. Trong quá trình kinh doanh, vốn lưu động chu
chuyển không ngừng, nên tại một thời điểm nhất định, vốn lưu động thường xuyên có
các bộ phận cùng tồn tại dưới các hình thức khác nhau trong các giai đoạn mà vốn đi
qua.
Vòng quay vốn lƣu động càng nhanh thì doanh thu càng cao và càng tiết
kiệm đƣợc chi phí. Điều này có nghĩa là khi doanh thu tăng cao thì vốn sẽ được thu
hồi về một cách nhanh chóng bằng tiền mặt để doanh nghiệp có thể tiếp tục tạo ra các
sản phẩm, hàng hóa phục vụ cho thị trường. Đồng thời làm giảm chi phí sử dụng vốn
`
3
một cách hợp lý làm tăng thu nhập của doanh nghiệp, bởi trong cơ chế tự chủ và tự
chịu trách nhiệm về tài chính, sự vận động của vốn lưu động được gắn chặt với lợi ích
của doanh nghiệp và người lao động. Nhờ đó mà doanh nghiệp có điều kiện tích tụ vốn
để mở rộng sản xuất kinh doanh, không ngừng cải thiện đời sống của công nhân viên
chức của doanh nghiệp.
1.1.3. Vai trò của vốn lưu động trong doanh nghiệp
Là điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp đi vào hoạt động. Để tiến hành sản
xuất, ngoài tài sản cố định như máy móc, thiết bị, nhà xưởng… doanh nghiệp phải bỏ
ra một lượng tiền nhất định để mua sắm hàng hóa, nguyên vật liệu… phục vụ cho quá
trình sản xuất kinh doanh. Như vậy, nếu doanh nghiệp không có vốn lưu động sẽ dẫn
đến việc không thể mua sắm các tư liệu lao động cần thiết, tức việc tiến hành sản xuất

kinh doanh sẽ bị gián đoạn, không được diễn ra một cách liên tục, thường xuyên.
Đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp đƣợc tiến hành
thƣờng xuyên, liên tục. Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được. Để
quá trình tái sản xuất được diễn ra liên tục, doanh nghiệp phải có đủ tiền vốn đầu tư
vào các hình thái khác nhau của vốn lưu động, khiến cho các hình thái tồn tại ở mức
hợp lý và đồng bộ với nhau. Như vậy sẽ tạo điều kiện cho chuyển hóa hình thái của
vốn trong quá trình luân chuyển được thuận lợi, góp phần tăng tốc độ luân chuyển vốn,
tăng hiệu suất sử dụng vốn lưu động và ngược lại.
Là công cụ phản ánh quá trình mua sắm, dự trữ, tiêu thụ vật tƣ của doanh
nghiệp. Số VLĐ nhiều hay ít là phản ánh số lượng vật tư, hàng hóa dự trữ sử dụng ở
các khâu nhiều hay ít. Vốn lưu động luân chuyển nhanh hay chậm còn phản ánh số
lượng vật tư sử dụng tiết kiệm hay không. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp
hoàn toàn tự chủ trong việc sử dụng vốn nên khi muốn mở rộng quy mô, doanh nghiệp
phải huy động một lượng vốn nhất định để đầu tư ít nhất là đủ để dự trữ vật tư hàng
hóa.
Quyết định đến quy mô hoạt động của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị
trường cạnh tranh đầy khốc liệt, vốn là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất
bại của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp hoàn toàn có thể tự chủ trong việc sử
dụng vốn nên khi muốn mở rộng quy mô của doanh nghiệp phải huy động một lượng
vốn nhất định để đầu tư ít nhất là đủ để dự trữ vật tư hàng hóa. Nếu thừa nhận vốn
doanh nghiệp không thể chủ động trong sản xuất kinh doanh cũng như không thể mở
rộng quy mô và khi đó, doanh nghiệp sẽ bị cạnh tranh bởi các đối thủ khác mạnh hơn,
như vậy quy mô kinh doanh sẽ bị thu hẹp thậm chí dẫn tới phá sản. Ngoài ra, vốn lưu
động còn giúp cho doanh nghiệp chớp lấy thời cơ kinh doanh và tạo lợi thế cạnh tranh
cho doanh nghiệp.
Thang Long University Library
`
4
Là một bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá thành sản phẩm do đặc điểm
luân chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm. Giá trị của hàng hóa bán ra được

tính toán trên cơ sở bù đắp được giá thành sản phẩm cộng thêm một phần lợi nhuận.
Do đó, vốn lưu động đóng vai trò quyết định trong việc tính giá cả hàng hóa bán ra.
Tóm lại, vốn lưu động có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp thương mại, việc tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề sử dụng vốn lưu
động là vấn đề cần thiết nhằm đưa ra những biện pháp tối ưu phục vụ cho chiến lược
kinh doanh trong doanh nghiệp.
1.1.4. Phân loại vốn lưu động
Để quản lý vốn lưu động được tốt cần phải phân loại vốn lưu động. Dựa theo tiêu
thức khác nhau, có thể chia VLĐ thành các loại khác nhau. Thông thường có một số
cách phân loại sau.
1.1.4.1. Theo hình thái biểu hiện
Tiền và các tài sản tƣơng đƣơng tiền: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng và
tiền đang chuyển, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản đầu tư tài chính ngắn
hạn. Tiền là một tài sản có tính linh hoạt cao, doanh nghiệp có thể dễ dàng chuyển đổi
thành các loại tài sản khác hoặc để trả nợ. Do vậy, trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi
mỗi doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn bằng tiền cần thiết nhất định để có thể
chi trả cho các chi phí phát sinh.
Các khoản phải thu: chủ yếu là các khoản phải thu từ khách hàng thể hiện ở số
tiền mà các khách hàng nợ doanh nghiệp phát sinh trong quá trình bán hàng, cung ứng
dịch vụ dưới hình thức bán trước trả sau. Ngoài ra, với một số trường hợp mua sắm vật
tư khan hiếm, doanh nghiệp còn có thể phải ứng trước tiền mua hàng cho người cung
ứng, từ đó hình thành khoản tạm ứng.
Hàng tồn kho: trong doanh nghiệp sản xuất, vốn vật tư hàng hóa gồm vốn về vật
tư dự trữ, vốn sản phẩm dở dang, vốn thành phẩm. Các loại này được gọi chung là vốn
về hàng tồn kho.
+ Vốn nguyên vật liệu chính: là giá trị các loại nguyên vật liệu chính dự trữ cho
sản xuất, khi tham gia vào sản xuất, chúng hợp thành thực thể của sản phẩm.
+ Vốn vật liệu phụ: là giá trị các loại vật liệu phụ dự trữ cho sản xuất, giúp cho
việc hình thành sản phẩm, nhưng không hợp thành thực thể chính của sản phẩm, chỉ
làm thay đổi màu sắc, mùi vị, hình dáng bề ngoài của sản phẩm hoặc tạo điều kiện cho

quá trình sản xuất kinh doanh thực hiện thuận lợi.
+ Vốn nhiên liệu: là giá trị các loại nhiên liệu dự trữ dùng trong hoạt động sản
xuất kinh doanh.
+ Vốn phụ tùng thay thế: là giá trị các loại vật tư dùng để thay thế, sửa chữa các
loại tài sản cố định.
`
5
+ Vốn vật tư đóng gói: là giá trị các loại vật liệu bao bì dùng để đóng gói sản
phẩm trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
+ Vốn công cụ dụng cụ: là giá trị các loại công cụ dụng cụ không đủ tiêu chuẩn
là tài sản cố định dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Vốn sản phẩm đang chế: là biểu hiện bằng tiền các chi phí sản xuất kinh doanh
đã bỏ ra cho các loại sản phẩm đang trong quá trình sản xuất, gọi là sản phẩm dở dang
hay bán thành phẩm.
+ Vốn về chi phí trả trước: là các khoản chi phí thực tế đã phát sinh nhưng có tác
dụng cho nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nên chưa thể tính hết vào giá thành sản
phẩm trong kỳ này, mà được tính dần vào giá thành sản phẩm các kỳ tiếp theo như chi
phí cải tiến kỹ thuật, chi phí nghiên cứu thí nghiệm…
+ Vốn thành phẩm: là giá trị những sản phẩm đã được sản xuất xong, đạt tiêu
chuẩn kỹ thuật và được nhập kho.
Trong doanh nghiệp thương mại, vốn về hàng tồn kho chủ yếu là giá trị các loại
hàng hóa dự trữ.
Việc phân loại vốn lưu động theo cách này tạo điều kiện thuận lợi cho việc xem
xét đánh giá mức tồn kho dự trữ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Mặt khác,
thông qua cách phân loại này có thể tìm các biện pháp phát huy chức năng các thành
phần vốn và biết được kết cấu vốn lưu động theo hình thái biểu hiện để định hướng
điều chỉnh hợp lý có hiệu quả.
1.1.4.2. Theo vai trò của vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh
Theo cách phân loại này, vốn lưu động của doanh nghiệp được phân thành ba
loại.

- Vốn lƣu động trong khâu dự trữ gồm các khoản:
+ Vốn nguyên, vật liệu chính: là giá trị các loại vật tư dành cho dự trữ sản xuất,
tham gia vào quá trình sản xuất thì chính nó sẽ là một phần của sản phẩm.
+ Vốn vật liệu phụ: bao gồm các loại vật tư dự trữ dùng cho mục đích sản xuất
làm tăng chất lượng sản phẩm hoặc phục vụ cho công tác quản lý.
+ Vốn nhiên liệu: là giá trị những loại nhiên liệu dự trữ dùng cho sản xuất như
than, xăng, dầu,…
+ Vốn phụ tùng thay thế: gồm các giá trị các phụ tùng dự trữ nhằm thay thế khi
sửa chữa tài sản cố định.
+ Vốn vật tư đóng gói: giá trị vật liệu sử dụng trong việc đóng gói thành phẩm.
+ Vốn công cụ dụng cụ: giá trị những tư liệu lao động giá trị thấp kết hợp với
thời gian sử dụng ngắn, không đủ tiêu chuẩn trở thành tài sản cố định.
Thang Long University Library
`
6
- VLĐ trong khâu trực tiếp sản xuất: trong doanh nghiệp thương mại và doanh
nghiệp dịch vụ không mang tính chất sản xuất thì không có vốn lưu động ở khâu này.
Đối với các doanh nghiệp dịch vụ mang tính chất sản xuất, VLĐ gồm các khoản:
+ Vốn sản phẩm dở dang đang chế tạo: là giá trị sản phẩm dở dang dùng trong
quá trình sản xuất, xây dựng hoặc đang nằm trên các địa điểm làm việc đợi chế biến
tiếp, chi phí trồng trọt dở dang…
+ Vốn về chi phí trả trước, phí tổn đợi phân bổ: là những phí tổn chi ra trong kỳ
nhưng có tác dụng cho nhiều kỳ sản xuất, vì thế chưa tính hết vào giá thành mà sẽ tính
vào giá thành các kỳ sau.
+ Vốn bán thành phẩm tự chế: là giá trị các sản phẩm dở dang nhưng khác sản
phẩm đang chế tạo ở chỗ đã hoàn thành giai đoạn chế biến nhất định.
- Vốn lƣu động trong khâu lƣu thông gồm các khoản:
+ Vốn thành phẩm biểu hiện bằng tiền, số sản phẩm đã nhập kho và chuẩn bị các
công tác tiêu thụ.
+ Các khoản thế chấp, ký quỹ, ký cược ngắn hạn.

+ Vốn bằng tiền bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền đang chuyển và tiền gửi ngân
hàng, kể cả vàng bạc, đá quý,…
+ Vốn thanh toán: là những khoản phải thu tạm ứng phát sinh trong quá trình
mua bán vật tư hàng hóa hoặc thanh toán nội bộ.
+ Các khoản đầu tư ngắn hạn: đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn
hạn,
Phương pháp này cho phép biết được kết cấu VLĐ theo vai trò giúp thấy được
vốn nằm trong quá trình dự trữ nguyên vật liệu và vốn nằm trong khâu lưu thông
không tham gia trực tiếp vào sản xuất. Từ đó giúp cho việc đánh giá tình hình phân bổ
VLĐ trong các khâu của quá trình luân chuyển vốn, thấy được vai trò của từng thành
phần vốn đối với quá trình kinh doanh. Trên cơ sở đó, phải chú ý tăng khối lượng sản
phẩm đang chế tạo với mức hợp lý vì số vốn này tham gia trực tiếp vào việc tạo nên
giá trị mới để đề ra các biện pháp nâng cao sử dụng vốn thích hợp cũng như tăng tốc
độ luân chuyển VLĐ.
1.1.4.3. Phân loại theo nguồn hình thành
Nguồn vốn lưu động trong doanh nghiệp bao gồm vốn lưu động được hình thành
từ nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
VLĐ đƣợc hình thành từ vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp là số VLĐ thuộc
quyền sở hữu của doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng,
quyền chi phối và định đoạt, được doanh nghiệp sử dụng để phục vụ hoạt động sản
xuất kinh doanh. Tùy theo loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau mà vốn chủ sở hữu có thể hình thành từ ngân sách Nhà nước, vốn góp cổ phần,…
`
7
VLĐ đƣợc hình thành từ nợ phải trả là các khoản VLĐ được hình thành từ
vốn vay các tổ chức tín dụng hoặc thông qua phát hành trái phiếu, các khoản nợ khác
mà doanh nghiệp chiếm dụng để làm nguồn vốn tạm thời.
Cách phân loại này cho thấy kết cấu của VLĐ trong doanh nghiệp được hình
thành bằng vốn của bản thân doanh nghiệp hay từ các khoản nợ. Từ đó có các quy
định trong huy động và quản lý sử dụng VLĐ hợp lý hơn.

1.1.4.4. Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn
Nguồn VLĐ được chia thành nguồn VLĐ tạm thời và nguồn VLĐ thường xuyên.
- Nguồn VLĐ tạm thời là nguồn vốn lưu động có tính chất ngắn hạn, chủ yếu để
đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời về VLĐ phát sinh trong quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân
hàng, các tổ chức tín dụng và các khoản nợ ngắn hạn khác.
- Nguồn VLĐ thƣờng xuyên là nguồn vốn có tính chất ổn định nhằm hình thành
nên TSLĐ thường xuyên cần thiết như dự trữ nguyên vật liệu, phải thu khách hàng,…
Nguồn vốn lƣu động = Tổng giá trị - Nợ ngắn hạn
thƣờng xuyên TSLĐ
Hoặc
Nguồn vốn lƣu động = Tổng vốn thƣờng xuyên - Tài sản dài hạn
thƣờng xuyên của doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp có cách thức phối hợp khác nhau giữa nguồn vốn lưu động
thường xuyên và nguồn vốn lưu động tạm thời trong việc đảm bảo nhu cầu chung về
vốn lưu động của doanh nghiệp.
Trên đây là bốn cách phân loại VLĐ chủ yếu tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà
quản lý xem xét huy động các nguồn vốn lưu động một cách phù hợp với thời gian sử
dụng để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp mình. Mỗi cách phân
loại đáp ứng những yêu cầu nhất định của từng doanh nghiệp để từ đó có kế hoạch
khai thác một cách chủ động, tích cực góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ của
doanh nghiệp. Ngoài ra nó còn giúp cho nhà quản lý lập các kế hoạch tài chính hình
thành nên những dự định về tổ chức nguồn VLĐ trong tương lai, trên cơ sở xác định
quy mô, số lượng VLĐ cần thiết để lựa chọn nguồn VLĐ mang lại hiệu quả cao nhất
cho doanh nghiệp.
1.2. Một số vấn đề cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn lƣu động trong doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp
Hiệu quả là một khái niệm luôn được đề cập trong nền kinh tế thị trường. Các
doanh nghiệp luôn hướng tới hiệu quả kinh tế còn Chính phủ nỗ lực đạt hiệu quả kinh
tế xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự điều tiết

vĩ mô của Nhà nước, hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp phải linh hoạt thích
Thang Long University Library
`
8
ứng với cơ chế mới có thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng
khó khăn, khốc liệt. Như vậy, vấn đề hiệu quả là mối quan tâm hàng đầu, yêu cầu sống
còn của doanh nghiệp.
Đứng từ góc độ kinh tế, để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn thể hiện
ở khả năng đảm bảo lượng vốn lưu động cần thiết để doanh nghiệp có đủ khả năng
thực hiện các khoản thanh toán cũng như tự chủ trong kinh doanh, tạo uy tín với các
nhà cung cấp và khách hàng.
Tóm lại, nói một cách ngắn gọn, “hiệu quả sử dụng vốn lưu động là phạm trù
kinh tế phản ánh trình độ và năng lực quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp, đảm
bảo VLĐ được luân chuyển ở tốc độ cao, đảm bảo khả năng thanh toán của doanh
nghiệp luôn duy trì ở tình trạng tốt nhất, lợi nhuận thu về cao nhất với mức chi phí
bỏ ra thấp nhất”.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Một là xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp. Trong nền kinh
tế thị trường, các doanh nghiệp hoạt động với mục tiêu xuyên suốt là tối đa hóa giá trị
doanh nghiệp. Giá trị của mỗi doanh nghiệp được hiểu là toàn bộ những của cải vật
chất, tài sản của doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, giá trị
của doanh nghiệp được thể hiện qua các chỉ tiêu vốn chủ sở hữu. Mục tiêu cuối cùng
của các hoạt động đó là tăng thêm VCSH và tăng thêm lợi nhuận nhiều hơn. Bởi vì lợi
nhuận là đòn bẩy quan trọng, là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để đảm bảo mục tiêu này, doanh nghiệp thường
xuyên phải đưa ra và giải quyết tập hợp các quyết định tài chính dài hạn và ngắn hạn.
Sử dụng hiệu quả vốn lưu động là một nội dung trọng tâm trong các quyết định tài
chính ngắn hạn và là nội dung có ảnh hưởng to lớn đến mục tiêu tối đa hóa giá trị
doanh nghiệp. Với bản chất và định hướng mục tiêu như trên, doanh nghiệp phải luôn
luôn tìm mọi biện pháp để tồn tại và phát triển. Xuất phát từ vai trò to lớn của VLĐ và

hiệu quả sử dụng VLĐ đối với mục tiêu tối đa hóa giá trị doanh nghiệp khiến cho yêu
cầu doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói
riêng là một yêu cầu khách quan, gắn liền với bản chất của doanh nghiệp. Do đặc điểm
vốn lưu động chuyển hóa toàn bộ một lần vào giá thành sản phẩm và hình thái vốn lưu
động thường xuyên biến đổi, vì vậy để bảo toàn vốn lưu động chỉ xét trên mặt giá trị.
Bảo toàn VLĐ thực chất là bảo toàn cho số vốn cuối kỳ được đủ mua một khối lượng
vật tư, hàng hóa tương đương với đầu kỳ khi giá cả hàng hóa tăng lên, thể hiện ở khả
năng mua sắm vật tư ở khâu dự trữ và tài sản định mức nói chung, duy trì khả năng
thanh toán của doanh nghiệp.
Hai là xuất phát từ đặc điểm hoạt động vốn lƣu động là luân chuyển nhanh,
cho phép sử dụng linh hoạt trong quá trình sản xuất kinh doanh từ đó tạo ra một khối
`
9
lượng sản phẩm lớn cho doanh nghiệp. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp tốt hay
xấu phụ thuộc vào công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động. Việc nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn lưu động đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra liên
tục. Vốn lưu động cùng một lúc được phân bổ khắp các giai đoạn luân chuyển và biểu
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục thì
doanh nghiệp phải có đủ vốn đầu tư khiến cho việc chuyển hóa hình thái vốn trong quá
trình luân chuyển hóa thành vốn trong quá trình luân chuyển được thuận lợi.
Ba là xuất phát từ vai trò của vốn lƣu động trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Trong nền kinh tế thị trường, muốn hoạt động kinh doanh thì cần phải có vốn.
Vốn lưu động là một bộ phận quan trọng cấu tạo nên vốn của doanh nghiệp. Nó xuất
hiện và đóng vai trò quan trọng trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh
doanh. Trong khâu dự trữ và sản xuất, vốn lưu động đảm bảo cho sản xuất của doanh
nghiệp được tiến hành liên tục, đảm bảo quy trình công nghệ, công đoạn sản xuất.
Trong lưu thông, vốn lưu động đảm bảo dự trữ thành phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ
liên tục, nhịp nhàng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Thời gian luân chuyển vốn
lưu động càng ngắn, số vòng luân chuyển vốn lưu động lớn khiến cho việc sử dụng
vốn lưu động luôn luôn diễn ra thường xuyên, hàng ngày. Do đó, với vai trò to lớn

này, việc tăng tốc độ luân chuyển vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động cũng
làm cho hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tăng lên. Doanh nghiệp nào thiếu vốn thì
việc chuyển hóa hình thái sẽ gặp khó khăn, vốn lưu động cũng không luân chuyển và
quá trình sản xuất sẽ bị gián đoạn.
Bốn là xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lƣu
động. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tức là có thể tăng tốc độ luân chuyển
vốn lưu động, rút ngắn thời gian vốn lưu động nằm trong lĩnh vực dự trữ, sản xuất và
lưu thông, từ đó giảm bớt số lượng vốn lưu động chiếm dùng, tiết kiệm vốn lưu động
trong luân chuyển. Thông qua việc tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động, doanh
nghiệp có thể giảm bớt số vốn lưu động chiếm dùng mà vẫn đảm bảo được nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh như cũ hoặc với quy mô vốn lưu động không đổi, doanh nghiệp
vẫn có thể mở rộng được quy mô sản xuất. Tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động còn
có ảnh hưởng tích cực đối với việc hạ thấp giá thành sản phẩm, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp có đủ vốn thỏa mãn nhu cầu sản xuất và hoàn thành nghĩa vụ nộp các
khoản thuế cho Ngân sách Nhà nước, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong
cả nước.
Cuối cùng là xuất phát từ thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lƣu động ở các
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trƣờng. Trên thực tế, có rất nhiều nguyên nhân
khiến doanh nghiệp làm ăn thiếu hiệu quả thậm chí thất bại trên thương trường. Có thể
có các nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan, tuy nhiên một nguyên nhân
Thang Long University Library
`
10
phổ biến nhất vẫn là việc sử dụng vốn lưu động không hiệu quả trong việc mua sắm,
dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Điều này dẫn đến việc sử dụng lãng phí vốn lưu
động, tốc độ luân chuyển vốn lưu động thấp, mức sinh lợi kém và thậm chí có doanh
nghiệp còn gây thất thoát, không kiểm soát được vốn lưu động dẫn đến mất khả năng
tổ chức sản xuất kinh doanh, khả năng thanh toán.
Do xuất phát từ những lý do trên mà việc sử dụng vốn lưu động trong các doanh
nghiệp luôn được tiến hành phân tích, kiểm tra thường xuyên thông qua các chỉ tiêu

như vòng quay vốn lưu động, hiệu suất sử dụng vốn lưu động,… Như vậy, vấn đề
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ngày càng khẳng định vai trò to lớn và tính
tất yếu trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh và góp phần làm tăng mức doanh thu
cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đứng vững trên thị trường.
1.2.3. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp
1.2.3.1. Phân tích quy mô và cơ cấu vốn lưu động
Nếu như quy mô vốn lưu động là con số tuyệt đối thể hiện số tiền tuyệt đối mà
mỗi doanh nghiệp ứng ra để hình thành nên tài sản lưu động thì cơ cấu vốn lưu động
thực chất phản ánh thành phần và tỷ trọng từng khoản vốn trong tổng nguồn VLĐ của
doanh nghiệp.
Quy mô vốn lưu động luôn ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu của doanh nghiệp.
Bởi nếu quy mô vốn lưu động tăng, đồng thời doanh thu tăng có nghĩa quá trình sản
xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp đang diễn ra hiệu quả và
ngược lại. Doanh thu tăng tức lượng tiền thu về tăng lên. Như vậy, doanh nghiệp sẽ có
một lượng tiền nhất định gia tăng để đầu tư vào tài sản lưu động nhằm tái đầu tư vào
quá trình sản xuất kinh doanh với mục đích tiếp tục cung cấp các sản phẩm và dịch vụ
tới người tiêu dùng. Như vậy, quy mô vốn lưu động luôn quyết định đến quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp có được diễn ra thường xuyên, liên tục và có ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh thu về hay không.
Phân tích cơ cấu nguồn vốn lưu động được hình thành bằng cách tính ra và so
sánh tình hình biến động giữa kỳ phân tích với kỳ gốc về tỷ trọng của từng bộ phận
vốn lưu động trong tổng vốn lưu động.
Tỷ trọng của từng bộ phận Giá trị của từng bộ phận VLĐ
vốn lƣu động chiếm trong = x 100%
tổng số vốn lƣu động Tổng số vốn lƣu động
(Nguồn: Sinh viên tự tổng hợp)
Việc doanh nghiệp xác định quy mô cũng như cơ cấu vốn lưu động trong từng
khâu lưu thông, dự trữ sản xuất một cách cụ thể là rất quan trọng. Nếu như doanh
nghiệp duy trì quy mô và cơ cấu vốn lưu động trong khâu lưu thông quá nhiều sẽ đảm
bảo được khả năng thanh toán. Tuy nhiên, việc này sẽ làm giảm khả năng sinh lời

`
11
đồng thời lượng vốn đầu tư cho các hoạt động khác của doanh nghiệp cũng hạn chế,
tức hiệu quả sử dụng vốn lưu động chưa cao. Bên cạnh đó, nếu lượng vốn lưu động
trong khâu dự trữ nhiều sẽ làm vốn bị ứ đọng đồng thời làm tăng chi phí lưu kho và
chi phí quản lý sẽ gây ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Ngoài ra, lượng
vốn lưu động đầu tư cho khâu sản xuất lớn sẽ đẩy nhanh số lượng hàng tồn kho nếu
doanh nghiệp không có phương án tiêu thụ hàng hóa hiệu quả. Vì vậy, doanh nghiệp
cần xác định rõ ràng và cụ thể quy mô và cơ cấu vốn lưu động trong từng khâu nhằm
đẩy nhanh lượng tiền tiền thu về từ doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ để tiếp tục
tái đầu tư để từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Bằng cách tính tỷ trọng các thành phần VLĐ như công thức trên, đồng thời thông
qua quy mô của VLĐ cho thấy sự phân bổ của VLĐ trong từng giai đoạn luân chuyển
hoặc trong từng nguồn vốn, các nhà quản lý có thể xem xét và đánh giá hiệu quả sử
dụng vốn lưu động có thật sự hợp lý với mô hình kinh doanh nhằm đưa ra những quyết
định phù hợp với bản thân doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Từ đó, doanh nghiệp xác
định được phương hướng và trọng điểm quản lý VLĐ, đáp ứng kịp thời đối với nhu
cầu kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi nếu cơ cấu vốn lưu động không hợp lý sẽ gây
ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động cũng như quá trình kinh doanh, hay nói
cách khác, doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ không đạt được hiệu quả cao
nhất.
Cơ cấu của VLĐ chịu ảnh hưởng của quy mô VLĐ cũng như đặc điểm của
ngành nghề kinh doanh, trình độ tổ chức… Vì vậy, trong doanh nghiệp khác nhau thì
quy mô cũng như cơ cấu vốn lưu động là khác nhau.
1.2.3.2. Phân tích nguồn tài trợ vốn lưu động
Nguồn tài trợ VLĐ của doanh nghiệp là các nguồn tài chính mà doanh nghiệp có
thể khai thác, huy động để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động tài trợ cho các hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Nguyên tắc tài trợ cơ bản là huy động nguồn dài hạn để
tài trợ cho tài sản dài hạn, dùng nguồn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản ngắn hạn. Đồng
thời, vốn lưu động phải luôn được duy trì vừa đủ ở mức cần thiết cho các phương án,

kế hoạch kinh doanh, kế hoạch đầu tư,… Vì vậy, các doanh nghiệp phải có chính sách
huy động vốn lưu động thích hợp trong từng giai đoạn, từng thời kỳ để phục vụ và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động cũng như nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, các doanh nghiệp không phải lúc nào
cũng dựa vào nguyên tắc này. Họ luôn dựa vào tình hình tài chính của mình để có thể
sử dụng nguồn tài trợ phù hợp nhất. Thực tế hiện nay có ba mô hình mà các doanh
nghiệp thường sử dụng, đó là:


Thang Long University Library
`
12
- Mô hình tài trợ vốn thận trọng
Khi doanh nghiệp áp dụng mô hình tài trợ vốn thận trọng có nghĩa là doanh
nghiệp đang sử dụng một phần nguồn vốn dài hạn để đầu tư cho các tài sản ngắn hạn.
Nếu doanh nghiệp theo đuổi mô hình này sẽ không gặp phải vấn đề mất khả năng
thanh toán trong ngắn hạn do doanh nghiệp luôn duy trì TSNH ở mức độ tối đa. Đồng
thời, tính ổn định của nguồn vốn cao do nguồn vốn huy động chủ yếu từ nguồn dài
hạn, doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh
doanh mà chưa phải lo đến việc trả nợ ngay. Tuy nhiên, nguồn dài hạn là những nguồn
có chi phí cao hơn nguồn ngắn hạn mà dùng doanh nghiệp lại dùng để tài trợ cho tài
sản ngắn hạn. Lãi suất cho vay dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Điều này sẽ
làm giảm khả năng sinh lời của tài sản ngắn hạn bởi doanh nghiệp mất chi phí sử dụng
vốn cao hơn, thời gian quay vòng của tiền lâu hơn nhưng bù lại rủi ro thanh toán thấp.
Hình 1.1. Mô hình tài trợ vốn thận trọng









(Nguồn:Sinh viên tự tổng hợp)
- Mô hình tài trợ vốn mạo hiểm
Hình 1.2. Mô hình tài trợ vốn mạo hiểm








(Nguồn: Sinh viên tự tổng hợp)
Mô hình tài trợ này tức là dùng một phần nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư vào tài
sản dài hạn, dùng nguồn vốn huy động với chi phí thấp do các khoản phải thu khách
hàng ở mức thấp nên chi phí quản lý cũng ở mức thấp, hàng lưu kho được giữ ở mức

Tài sản
ngắn hạn


Tài sản dài
hạn
Nguồn vốn
ngắn hạn


Nguồn vốn

dài hạn
Tài sản
ngắn hạn

Tài sản
dài hạn
Nguồn vốn
ngắn hạn



Nguồn vốn
dài hạn
`
13
tối thiểu giúp doanh nghiệp giảm được chi phí lưu kho cũng như những tổn thất do lỗi
thời. Nếu doanh nghiệp theo đuổi mô hình này thì sẽ mất chi phí thấp, dễ huy động và
thời gian quay vòng của tiền ngắn. Đồng thời, chính sách này đem lại nguồn thu nhập
cao do chi phí quản lý, chi phí lãi vay, chi phí lưu kho đều thấp,… Tuy nhiên, nó cũng
đem lại một số rủi ro cho doanh nghiệp như khả năng thanh toán ngắn hạn không được
đảm bảo, không có đủ tiền để thực hiện chính sách quản lý có hiệu quả, dự trữ hàng
thấp có thể dẫn đến doanh thu giảm khi hết hàng dự trữ.
- Mô hình tài trợ vốn dung hòa
Hình 1.3. Mô hình tài trợ vốn dung hòa









(Nguồn: Sinh viên tự tổng hợp)
Với mô hình tài trợ vốn dung hòa thì toàn bộ TSNH sẽ được tài trợ bằng nguồn
vốn ngắn hạn và tất cả các tài sản dài hạn sẽ được tài trợ bởi nguồn vốn dài hạn. Với
chính sách quản lý này, doanh nghiệp ít gặp rủi ro. Khi doanh nghiệp thực hiện mô
hình tài trợ này thì lợi nhuận tạo ra cao hơn mô hình tài trợ vốn thận trọng và ít chịu
rủi ro hơn so với mô hình tài trợ vốn mạo hiểm. Nhưng thực tế, hầu như không có một
doanh nghiệp nào áp dụng được mô hình này do gặp phải nhiều vấn đề như sự tương
thích giữa luồng tiền, khoảng thời gian hoặc kỳ hạn.
Trên đây là các mô hình cơ bản về nguồn tài trợ vốn lưu động trong doanh
nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có thể lựa chọn một mô hình phù hợp với tình hình tài
chính của mình để có được nguồn tài trợ vốn lưu động hợp lý nhất nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn lưu động cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động SXKD.
1.2.3.3. Phân tích chính sách quản trị vốn lưu động
(1) Quản trị vốn lưu động bằng tiền
Tiền mặt tại quỹ, tiền đang chuyển và tiền gửi ngân hàng, các khoản đầu tư
chứng khoán ngắn hạn là một bộ phận quan trọng cấu thành vốn bằng tiền của doanh
nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn có nhu cầu dự trữ
vốn tiền mặt ở một quy mô nhất định. Nhu cầu dự trữ vốn tiền mặt trong các doanh
nghiệp thông thường là để đáp ứng yêu cầu giao dịch hàng ngày như mua sắm hàng
hóa, vật liệu, thanh toán các khoản chi phí cần thiết. Ngoài ra còn xuất phát từ nhu cầu
Tài sản
ngắn hạn


Tài sản
dài hạn
Nguồn vốn
ngắn hạn



Nguồn vốn
dài hạn
Thang Long University Library
`
14
dự phòng để ứng phó với những nhu cầu vốn bất thường chưa dự đoán được và động
lực trong việc dự trữ tiền mặt để sẵn sàng sử dụng khi xuất hiện các cơ hội kinh doanh
có tỷ suất lợi nhuận cao. Việc duy trì một mức dự trữ vốn tiền mặt đủ lớn còn tạo điều
kiện cho doanh nghiệp có cơ hội thu được chiết khấu trên hàng mua trả đúng kỳ hạn,
làm tăng hệ số khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp.
Quy mô vốn tiền mặt là kết quả thực hiện nhiều quyết định kinh doanh trong các
thời kỳ trước, song việc quản trị vốn tiền mặt không phải là một công việc thụ động.
Nhiệm vụ quản trị vốn tiền mặt do đó không phải chỉ là đảm bảo cho doanh nghiệp có
đủ lượng vốn tiền mặt cần thiết để đáp ứng kịp thời các nhu cầu thanh toán mà quan
trọng hơn là tối ưu hóa số vốn tiền mặt hiện có, giảm tối đa các rủi ro về lãi suất hoặc
tỷ giá hối đoái và tối ưu hóa việc đi vay ngắn hạn hoặc đầu tư kiếm lời. Chính vì thế,
việc quản trị vốn bằng tiền là vấn đề hết sức quan trọng trong công tác quản lý tài
chính doanh nghiệp, nhờ đó, mà doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
lưu động.
- Xác định mức dự trữ vốn tiền mặt hợp lý
Mức dự trữ vốn tiền mặt hợp lý cần được xác định sao cho doanh nghiệp có thể
tránh được các rủi ro do không có khả năng thanh toán ngay, phải gia hạn thanh toán
nên bị phạt hoặc phải trả lãi cao hơn, không làm mất khả năng mua chịu của nhà cung
cấp, tận dụng các cơ hội kinh doanh có lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Phương pháp
đơn giản thường dùng để xác định mức dự trữ ngân quỹ hợp lý là lấy mức xuất ngân
quỹ trung bình hàng ngày nhân với số lượng ngày dự trữ ngân quỹ.
Người ta cũng có thể sử dụng phương pháp tổng chi phí tối thiểu trong quản trị
vốn tồn kho dự trữ để xác định mức dự trữ vốn tiền mặt hợp lý của doanh nghiệp. Bởi

vì giả sử doanh nghiệp có một lượng tiền mặt và phải sử dụng nó để đáp ứng các
khoản chi tiêu tiền mặt một cách đều đặn. Khi lượng tiền mặt đã hết, doanh nghiệp có
thể bán các chứng khoán ngắn hạn có tính thanh khoản cao để có được lượng tiền mặt
như lúc đầu. Có hai loại chi phí cần được xem xét khi bán chứng khoán. Một là chi phí
cơ hội của việc giữ tiền mặt, đó chính là mức lợi tức chứng khoán doanh nghiệp bị mất
đi. Hai là chi phí cho việc bán chứng khoán mỗi lần, đóng vai trò như là chi phí mỗi
lần thực hiện hợp đồng. Trong điều kiện đó, mức dự trữ vốn tiền mặt tối đa của doanh
nghiệp chính bằng số lượng chứng khoán cần bán mỗi lần để có đủ lượng vốn tiền mặt
mong muốn bù đắp được nhu cầu chi tiêu tiền mặt. Công thức tính như sau:

2 * T * C2
Q max = C1
Trong đó:
Q max: số lượng dự trữ tiền mặt tối đa
`
15
T : lượng tiền mặt chi dùng trong năm
C1: lãi suất trên thị trường
C2: chi phí một lần giao dịch
(Nguồn:Sinh viên tự tổng hợp )
Như vậy, nếu doanh nghiệp dự trữ số lượng tiền mặt quá thấp thì sẽ gặp khó khăn
trong việc thanh toán. Ngược lại, nếu sự trữ số lượng tiền mặt quá lớn thì chi phí cơ
hội của việc nắm giữ tiền mặt sẽ tăng lên. Do đó, doanh nghiệp cần xác định rõ lượng
tiền mặt dự trữ tối ưu nhất đối với mình, hay chính là sự cân đối giữa chi phí cơ hội
của việc nắm giữ tiền mặt và chi phí gia dịch sao cho tổng chi phí là tối thiểu, bởi điều
này ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
- Dự đoán và quản lý các luồng nhập, xuất vốn tiền mặt
Dự đoán ngân quỹ là tập hợp các dự kiến về nguồn và sử dụng ngân quỹ. Ngân
quỹ hàng năm được lập vừa tổng quát, vừa chi tiết cho từng tháng và tuần.
Dự đoán các luồng nhập ngân quỹ bao gồm luồng thu nhập từ kết quả kinh

doanh, từ kết quả hoạt động tài chính, luồng đi vay và các luồng tăng vốn khác. Trong
các luồng nhập ngân quỹ kể trên, luồng nhập ngân quỹ từ kết quả kinh doanh là quan
trọng nhất. Nó được dự đoán dựa trên cơ sở các khoản doanh thu bằng tiền mặt dự
kiến trong kỳ.
Dự đoán các luồng xuất ngân quỹ thường bao gồm các khoản chi cho hoạt động
kinh doanh như mua sắm tài sản, trả lương, các khoản chi cho hoạt động đầu tư theo
kế hoạch của doanh nghiệp, các khoản chi trả tiền lãi phải chia, nộp thuế và các khoản
chi khác.
Trên cơ sở so sánh các luồng nhập và xuất ngân quỹ, doanh nghiệp có thể thấy
được mức dư hay thâm hụt ngân quỹ. Từ đó thực hiện các biện pháp cân bằng thu chi
ngân quỹ như tăng tốc độ thu hồi các khoản nợ phải thu, đồng thời giảm tốc độ xuất
quỹ nếu có thể thực hiện được hoặc khéo léo sử dụng các khoản nợ đang trong quá
trình thanh toán. Doanh nghiệp cũng có thể huy động các khoản vay thanh toán của
ngân hàng. Ngược lại, khi luồng nhập ngân quỹ lớn hơn luồng xuất ngân quỹ thì doanh
nghiệp có thể sử dụng phần dư ngân quỹ để thực hiện các khoản đầu tư trong thời hạn
cho phép. Từ đó, doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả sử dụng số vốn tạm thời nhàn
rỗi của mình nói chung cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng.
- Quản lý sử dụng các khoản thu chi vốn tiền mặt
Hoạt động thu chi vốn tiền mặt của doanh nghiệp diễn ra hàng ngày, hàng giờ.
Hơn nữa, vốn tiền mặt là một tài sản đặc biệt có khả năng thanh toán cao, dễ dàng
chuyển hóa sang các hình thức tài sản khác. Vì vậy, doanh nghiệp phải có biện pháp
quản lý, sử dụng vốn tiền mặt một cách chặt chẽ để tránh bị mất mát, lợi dụng. Các
biện pháp quản lý cụ thể là:
Thang Long University Library
`
16
+ Mọi khoản thu chi vốn tiền mặt của doanh nghiệp đều phải thực hiện thông qua
quỹ, không được thu chi ngoài quỹ, tự thu tự chi.
+ Phải có sự phân định trách nhiệm rõ ràng trong quản lý vốn tiền mặt, nhất là
giữa thủ quỹ và kế toán quỹ, phải có các biện pháp quản lý bảo đảm an toàn cho quỹ.

+ Doanh nghiệp phải xây dựng các quy chế thu chi bằng tiền mặt để áp dụng cho
từng trường hợp thu chi. Thông thường các khoản thu chi không lớn thì có thể sử dụng
tiền mặt, còn các khoản thu chi lớn cần sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền
mặt.
chiếm tỷ lệ đáng kể tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. Điều quan trọng hơn là
nhờ có dự trữ tồn kho đúng mức, hợp lý sẽ giúp cho doanh nghiệp không bị gián đoạn
sản xuất, không bị thiếu sản phẩm hàng hóa để bán, đồng thời lại sử dụng tiết kiệm và
hợp lý vốn lưu động.
Đối với mức tồn kho dự trữ NVL, nhiên liệu phụ thuộc vào quy mô sản xuất và
nhu cầu dự trữ NVL cho sản xuất của doanh nghiệp, khả năng sẵn sàng cung ứng của
thị trường, chu kỳ giao hàng, thời gian vận chu
Như vậy, doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp cân bằng thu chi thể thấy
được mức tăng hay thâm hụt để có các biện pháp điều chỉnh hợp lý.
(2) Quản trị hàng tồn kho dự trữ
- Tồn kho dự trữ và các nhân tố ảnh hưởng đến tồn kho dự trữ
Tồn kho dự trữ của doanh nghiệp là những tài sản mà doanh nghiệp lưu giữ để
sản xuất hoặc bán ra sau này. Trong các doanh nghiệp, tài sản tồn kho dự trữ thường ở
ba dạng: nguyên vật liệu, nhiên liệu dự trữ sản xuất, các sản phẩm dở dang và bán
thành phẩm, các sản phẩm chờ tiêu thụ. Tùy theo ngành nghề kinh doanh mà tỷ trọng
các loại tài sản dự trữ trên có khác nhau.
Việc quản lý tồn kho dự trữ trong các doanh nghiệp là rất quan trọng, không phải
chỉ vì trong doanh nghiệp tồn kho dự trữ thường yển và giá cả của các loại NVL.
Đối với mức tồn kho dự trữ bán thành phẩm, sản phẩm dở dang phụ thuộc vào
đặc điểm và các yếu tố về kỹ thuật, công nghệ trong quá trình chế tạo sản phẩm, độ dài
thời gian chu kỳ sản xuất sản phẩm, trình độ tổ chức quá trình SXKD của doanh
nghiệp.
Đối với tồn kho dự trữ sản phẩm thành phẩm thường chịu ảnh hưởng bởi các
nhân tố như sự phối hợp giữa khâu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Các phương pháp quản lý vốn tồn kho dự trữ
+ Phương pháp tổng chi phí tối thiểu

Mục tiêu của việc quản lý vốn tồn kho dự trữ là nhằm tối thiểu hóa các chi phí dự
trữ tài sản tồn kho trong điều kiện vẫn đảm bảo cho các HĐSXKD được tiến hành bình
thường.
`
17
Việc lưu giữ một lượng hàng tồn kho làm phát sinh các chi phí. Tồn kho càng
lớn, vốn tồn kho dự trữ càng lớn thì không thể sử dụng cho mục đích khác và làm tăng
chi phí cơ hội của số vốn này. Điều này sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử
dụng vốn lưu động. Vì vậy, doanh nghiệp cần xem xét mức dự trữ hợp lý để giảm tổng
chi phí dự trữ tồn kho tới mức thấp nhất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ. Để đạt
được mục tiêu này, nhà kinh tế Ford. W. Harris đã đề xuất mô hình EOQ (Economic
Order Quantity Model) áp dụng trong quản lý hàng tồn kho để tối thiểu hóa chi phí
hàng tồn kho và tối đa hóa an toàn trong cung ứng, đã được hầu hết các doanh nghiệp
sử dụng.
Mô hình này đưa ra giả thiết rằng một lượng hàng hóa như nhau được đặt tại mỗi
thời điểm đặt hàng lại. Bên cạnh đó, các nhà quản lý chỉ quan tâm tới chi phí bảo quản
và chi phí đặt hàng là những chi phí chịu ảnh hưởng bởi số lượng hàng tồn kho. Theo
giả thiết này thì số lượng hàng đặt hiệu quả là:
2 * S * Q
Q* =
C
Trong đó:
Q*: số lượng hàng đặt hiệu quả
S: tổng nhu cầu về hàng lưu kho trong một năm
O: chi phí một lần đặt hàng
C: chi phí bảo quản 1 đơn vị hàng hóa trong năm
(Nguồn:Sinh viên tự tổng hợp)
Vậy mức dự trữ trung bình tối ưu là Q*/2.
Như vậy, ta có thể thấy, muốn hiệu quả sử dụng vốn lưu động được nâng cao thì
việc quản trị vốn lưu động nói chung cũng như quản trị hàng tồn kho nói riêng là rất

quan trọng. Do vậy, các nhà quản lý doanh nghiệp cần có các biện pháp quản lý hàng
tồn kho một cách hiệu quả nhất.
+ Phương pháp tồn kho bằng không
Phương pháp này cho rằng các doanh nghiệp có thể giảm thấp các chi phí tồn
kho dự trữ đến mức tối thiểu với điều kiện các nhà cung cấp phải cung ứng kịp thời
cho doanh nghiệp các loại vật tư, hàng hóa khi cần thiết. Do đó có thể giảm được các
chi phí lưu kho cũng như các chi phí thực hiện hợp đồng. Phương pháp này có ưu
điểm tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể dành ra một khoản ngân quỹ sử dụng cho
đầu tư mới. Tuy nhiên, phương pháp này lại làm tăng các chi phí phát sinh từ việc tổ
chức giao hàng đối với các nhà cung cấp.


Thang Long University Library
`
18
(3) Quản lý các khoản phải thu, phải trả
- Quản lý các khoản phải thu
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để khuyến khích người mua, doanh nghiệp
thường áp dụng phương thức bán chịu đối với khách hàng. Điều này có thể làm tăng
thêm một số chi phí do việc tăng thêm các khoản nợ phải thu của khách hàng như chi
phí quản lý nợ phải thu, chi phí thu hồi nợ, chi phí rủi ro… Đổi lại doanh nghiệp cũng
có thể tăng thêm được lợi nhuận nhờ mở rộng số lượng tiêu thụ sản phẩm. Quy mô các
khoản phải thu chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố:
+ Thứ nhất là khối lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ bán chịu cho khách hàng.
+ Thứ hai là sự thay đổi theo thời vụ của doanh thu. Đối với các doanh nghiệp
sản xuất có tính chất thời vụ, trong những thời kỳ sản phẩm của doanh nghiệp có nhu
cầu tiêu thụ lớn cần khuyến khích tiêu thụ để thu hồi vốn.
+ Thứ ba là thời hạn bán chịu và chính sách tín dụng của mỗi doanh nghiệp. Đối
với các doanh nghiệp có quy mô lớn, có tiềm lực tài chính mạnh, sản phẩm có đặc
điểm sử dụng lâu bền thì kỳ thu tiền bình quân thường dài hơn các doanh nghiệp ít

vốn, sản phẩm dễ hư hao, mất phẩm chất, khó bảo quản.
Quản lý khoản phải thu ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Nếu các khoản phải thu bị chậm trễ, dòng tiền trong doanh nghiệp không đủ để
tái đầu tư không những gây ra tình trạng đình trệ, gia tăng thêm các khoản chi phí phát
sinh mà doanh nghiệp còn đối mặt với rất nhiều rủi ro. Mặt khác, chính sách bán chịu
sẽ giúp doanh nghiệp thu hút được khách hàng và tăng doanh thu nên hầu như các
doanh nghiệp vẫn đều chấp nhận sự có mặt của khoản phải thu. Do vậy, các doanh
nghiệp cần đưa ra các biện pháp quản lý khoản phải thu một cách hiệu quả nhất để
doanh thu của doanh nghiệp không bị ảnh hưởng cũng như góp phần nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn lưu động.
- Quản lý các khoản phải trả
Khác với các khoản phải thu, các khoản phải trả là các khoản vốn mà doanh
nghiệp phải thanh toán cho khách hàng theo các hợp đồng cung cấp, các khoản phải
nộp cho ngân sách Nhà nước hoặc thanh toán tiền công cho người lao động. Việc quản
lý các khoản phải trả không chỉ đòi hỏi doanh nghiệp phải thường xuyên duy trì một
lượng vốn tiền mặt để đáp ứng yêu cầu thanh toán mà còn đòi hỏi việc thanh toán các
khoản phải trả một cách chính xác, an toàn và nâng cao uy tín của doanh nghiệp đối
với khách hàng.
Để quản lý các khoản phải trả, doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra, đối
chiếu các khoản phải thanh toán với khả năng thanh toán của doanh nghiệp để chủ
động đáp ứng các yêu cầu thanh toán khi đến hạn. Doanh nghiệp còn phải lựa chọn các
hình thức thanh toán thích hợp, an toàn và hiệu quả nhất đối với doanh nghiệp nhằm
`
19
nâng cao uy tín của mình với các nhà cung cấp. Vì vậy, quản lý các khoản phải trả đối
với doanh nghiệp cũng rất cần thiết bởi nó có tác động không nhỏ tới vấn đề hiệu quả
sử dụng vốn lưu động.
(4) Quản lý vốn lưu động khác
Tài sản lưu động khác bao gồm các khoản tạm ứng, chi phí trả trước, cầm cố, ký
cược, ký quỹ ngắn hạn,… Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, theo yêu

cầu của bên đối tác, khi vay vốn, thuê mượn tài sản hoặc mua bán đấu thầu làm đại
lý… doanh nghiệp phải tiến hành cầm cố, ký quỹ, ký cược,…
Ký cược là việc bên thuê tài sản theo yêu cầu của bên cho thuê phải đặt cược một
số tiền hay vật có giá trị nhằm ràng buộc và nâng cao trách nhiệm trong việc quản lý,
sử dụng tài sản đi thuê và hoàn trả tài sản đúng thời gian quy định với người đi thuê.
Trường hợp bên thuê không trả lại tài sản thì tài sản ký cược thuộn về bên cho thuê.
Cầm cố là bên có nghĩa vụ (doanh nghiệp) giao một động sản thuộc sở hữu của
mình hoặc một quyền tài sản được phép giao dịch cho bên có quyền (phía đối tác) để
bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ hay thỏa thuận.
Ký quỹ là việc bên có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải gửi trước một số tiền,
kim khí quý, đá quý hoặc các giấy tờ khác giá trị được bằng tiền vào tài khoản phong
tỏa tại Ngân hàng. Số tiền ký quỹ sẽ ràng buộc bên ký quỹ phải thực hiện cam kết, hợp
đồng, đồng thời, người yêu cầu ký quỹ yên tâm khi giao hàng hay nhận hàng theo
những điều đã ký kết. Trong trường hợp bên ký quỹ không tôn trọng hợp đồng sẽ bị
phạt và trừ vào tiền đã ký quỹ. Bên có quyền được Ngân hàng nơi ký quỹ thanh toán,
bồi thường thiệt hại do bên có nghĩa vụ gây ra sau khi trừ chi phí dịch vụ ngân hàng.
Qua đây, ta có thể thấy vốn lưu động tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, do
vậy, để sử dụng vốn lưu động có hiệu quả thì cần phải quản lý tốt vốn lưu động ở từng
khâu của quá trình dự trữ, sản xuất và lưu thông. Có như vậy, hiệu quả sử dụng vốn
lưu động mới được nâng cao cũng như góp phần gia tăng hiệu quả hoạt động XSKD
cho doanh nghiệp.
1.2.3.4. Phân tích các chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp kinh
doanh là thu được lợi nhuận cao. Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp cũng là quá
trình hình thành và sử dụng vốn lưu động. Vì vậy, hiệu quả sử dụng vốn lưu động
được thể hiện ở số lợi nhuận doanh nghiệp thu được trong kỳ và mức sinh lời của một
đồng vốn lưu động. Để đánh giá đầy đủ hơn hiệu quả sử dụng vốn lưu động cần phải
xem xét hiệu quả sử dụng vốn lưu động từ nhiều góc độ khác nhau, sử dụng nhiều chỉ
tiêu khác nhau để đánh giá mức sinh lời của đồng vốn lưu động.
Phải xuất phát từ mục tiêu đánh giá để xác định và sử dụng các chỉ tiêu tài chính

thích hợp. Khi sử dụng các chỉ tiêu phản ánh mức sinh lời của vốn lưu động, để so
Thang Long University Library
`
20
sánh giữa các doanh nghiệp khác nhau hay so sánh giữa các thời kỳ khác nhau của một
doanh nghiệp cần phải đảm bảo tính đồng nhất giữa các nhóm chỉ tiêu.
(1) Nhóm chỉ tiêu tổng quát
- Khả năng sinh lời của vốn lƣu động
Lợi nhuận trước thuế (sau thuế)
Sức sinh lời = x 100
của vốn lưu động Vốn lưu động bình quân
ĐVT: %
Chỉ tiêu này phản ánh cứ 100 đồng vốn lưu động sử dụng vào hoạt động SXKD
trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế (hoặc lợi nhuận sau thuế thu
nhập doanh nghiệp). Hệ số này càng cao thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động
càng cao.
- Hiệu suất sử dụng vốn lƣu động
Hiệu suất sử dụng vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động sẽ được bao
nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn thể hiện doanh nghiệp đang sử dụng vốn
lưu động của mình hiệu quả, có nghĩa là hiệu quả sử dụng vốn lưu động là tốt.
Doanh thu thuần
Hiệu quả sử dụng =
vốn lưu động VLĐ bình quân
ĐVT: Lần
- Suất hao phí vốn lƣu động
VLĐ bình quân
Suất hao phí =
vốn lưu động Doanh thu thuần
ĐVT: Lần
Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp muốn có một đồng doanh thu thuần trong kỳ

thì cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt, chứng tỏ hiệu
quả sử dụng vốn lưu động càng cao.
(2) Nhóm chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động
- Số vòng quay vốn lƣu động
Tổng doanh thu tiêu thụ
Số vòng quay VLĐ =
VLĐ bình quân
ĐVT: Vòng
Chỉ tiêu này cho biết số vòng quay của vốn lưu động thực hiện trong một thời kỳ
nhất định. Nó cho biết một đồng vốn lưu động bình quân bỏ ra có thể tạo ra được bao
nhiêu đồng tổng doanh thu, bao gồm doanh thu thuần, doanh thu tài chính và thu nhập
`
21
khác. Việc tăng vòng quay vốn lưu động có ý nghĩa kinh tế rất lớn, giúp doanh nghiệp
giảm được lượng vốn lưu động không cần thiết trong kinh doanh, từ đó giảm vốn vay
và hạ thấp chi phí sử dụng vốn. Số vòng quay càng lớn, hiệu quả sử dụng vốn lưu
động càng cao và ngược lại.
- Thời gian 1 vòng quay vốn lƣu động
360
Thời gian 1 vòng quay =
VLĐ Số vòng quay VLĐ
ĐVT: Ngày
Chỉ tiêu này phản ánh số ngày bình quân cần thiết để vốn lưu động thực hiện
được một lần luân chuyển hay chính là độ dài thời gian một vòng quay của VLĐ ở
trong kỳ. Vòng quay VLĐ càng nhanh thì kỳ luân chuyển của vốn lưu động càng được
rút ngắn và chứng tỏ vốn lưu động được sử dụng hiệu quả. Chỉ tiêu này càng thấp
chứng tỏ vốn lưu động vận động nhanh, góp phần tăng doanh thu cho doanh nghiệp.
- Hệ số đảm nhiệm vốn lƣu động
VLĐ bình quân
Hệ số đảm nhiệm VLĐ =

Tổng doanh thu tiêu thụ
ĐVT: Lần
Chỉ tiêu này phản ánh để có một đồng doanh thu thuần về bán hàng thì cần bao
nhiêu đồng vốn lưu động. Hệ số này càng thấp thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu
động càng cao, vốn lưu động tiết kiệm được là lớn.
(3) Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động của vốn lưu động
- Thời gian quay vòng tiền mặt
Doanh thu thuần
Vòng quay tiền mặt =
Vốn bằng tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
ĐVT: Vòng
Vòng quay tiền mặt là khoảng thời gian bắt đầu từ khi trả tiền mặt đã mua
nguyên vật liệu và kết thúc khi thu được tiền mặt từ các khoản phải thu. Vì vậy, các
doanh nghiệp luôn mong muốn có vòng quay tiền mặt ngắn để có một lượng vốn đưa
vào hoạt động SXKD nhằm tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
- Vòng quay các khoản phải thu
Doanh thu thuần
Vòng quay các khoản phải thu =
Các khoản phải thu bình quân
ĐVT: Vòng
Thang Long University Library
`
22
Vòng quay các khoản phải thu thể hiện mối quan hệ giữa doanh thu bán hàng với
các khoản phải thu của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích, các
khoản phải thu quay được bao nhiêu vòng. Chỉ tiêu này càng cao chúng tỏ doanh
nghiệp thu hồi tiền hàng kịp thời, ít bị chiếm dụng vốn. Điều này giúp cho doanh
nghiệp nâng cao luồng tiền mặt, tạo ra sự chủ động trong việc tài trợ nguồn vốn lưu
động trong sản xuất. Tuy nhiên, nếu chỉ tiêu này cao quá có thể là do chính sách bán
hàng của doanh nghiệp quá chặt chẽ và sẽ ảnh hưởng đến sản lượng hàng hóa tiêu thụ.

Chỉ tiêu này cho biết mức độ hợp lý các khoản phải thu đối với từng mặt hàng cụ thể
của doanh nghiệp trên thị trường. Vì vậy, doanh nghiệp cần có các chính sách bán
hàng hợp lý để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như góp phần nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
- Kỳ thu tiền bình quân
Kỳ thu tiền bình quân là tỷ số đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của doanh
nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết để thu hồi các khoản phải thu của mình thì doanh nghiệp
mất bình quân bao nhiêu ngày. Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thì chỉ tiêu này
càng nhỏ và ngược lại. Nếu chỉ tiêu này cao đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đang
thực hiện chính sách thu hồi công nợ của mình chưa có hiệu quả và ngược lại. Tuy
nhiên, nếu kỳ thu tiền bình quân mà quá ngắn chứng tỏ doanh nghiệp đang sử dụng
chính sách bán hàng khắt khe sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến quá trình tiêu thụ sản
phẩm cũng như làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
360
Kỳ thu tiền bình quân =
Vòng quay các khoản phải thu
ĐVT: Ngày
- Vòng quay hàng tồn kho
Giá vốn hàng bán
Vòng quay hàng tồn kho =
Hàng tồn kho bình quân
ĐVT: Vòng
Chỉ tiêu này cho biết số lần mà hàng hóa tồn kho bình quân luân chuyển trong
kỳ. Số vòng quay hàng tồn kho càng cao thì việc kinh doanh càng được đánh giá tốt,
khả năng tiêu thụ hàng tồn kho của doanh nghiệp tốt làm gia tăng doanh thu, tức hiệu
quả sử dụng vốn lưu động được gia tăng. Tuy nhiên, hệ số này quá cao cũng không tốt,
bởi cho thấy lượng dự trữ hàng tồn kho không đủ cung cấp cho thị trường nếu nhu cầu
tăng cao khiến cho doanh nghiệp bị mất khách hàng. Vì vậy, hệ số quay vòng hàng tồn
kho phải đủ lớn thì mới đảm bảo được hoạt động sản xuất kinh doanh và đáp ứng được
nhu cầu khách hàng.

`
23
- Thời gian 1 vòng quay hàng tồn kho
360
Thời gian 1 vòng quay hàng tồn kho =
Vòng quay hàng tồn kho
ĐVT: Ngày
Chỉ tiêu này cho biết một vòng quay của hàng tồn kho mất bao nhiêu ngày, chỉ
tiêu này càng thấp, chứng tỏ hàng tồn kho vận động nhanh. Đó là nhân tố góp phần
tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Số ngày vòng quay hàng tồn kho càng
thấp thì thời gian quay vòng hàng tồn kho càng nhiều cho thấy việc kinh doanh của
doanh nghiệp đang được thực hiện tốt. Tuy nhiên, vẫn cần xem xét những yếu tố như
phương thức bán hàng chuyển bán thẳng hay bàn giao tay ba trong khi phân tích, nếu
duy trì mức tồn kho thấp sẽ khiến cho số ngày một vòng quay hàng tồn kho thấp đồng
thời cũng sẽ làm cho khối lượng tiêu thụ sản phẩm sẽ ít hơn, điều này sẽ gây ảnh
hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
(4) Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
- Hệ số khả năng thanh toán hiện thời
TSLĐ
Hệ số thanh toán hiện thời =
Tổng nợ ngắn hạn
ĐVT: Lần
Chỉ tiêu này là công cụ đo lường khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn
biểu thị sự cần bằng giữa TSLĐ và nợ ngắn hạn. Tỷ số này với ý nghĩa là phản ánh
khả năng chuyển đổi một bộ phận tài sản thành tiền để trang trải các khoản nợ ngắn
hạn, tức là một đồng nợ ngắn hạn mà doanh nghiệp đang có thì sẽ có bao nhiêu đồng
TSLĐ có thể dử dụng được để thanh toán. Chỉ tiêu này luôn phụ thuộc vào ngành nghề
kinh doanh bởi ngành nghề nào có tài sản lưu động chiếm tỷ trọng cao trong tổng tài
sản thì hệ số này cao và ngược lại. Tỷ số này càng cao tức là doanh nghiệp đang không
gặp khó khăn đối với việc thực hiện các nghĩa vụ thanh toán của mình. Nhìn chung, tỷ

số này ở mức 1 – 2 được cho là tốt. Nhưng đối với một công ty dịch vụ thì tỷ số này
bằng 1,5 thì được xem là tốt, còn bằng 2 hoặc lớn hơn sẽ tốt với công ty sản xuất.
- Hệ số khả năng thanh toán nhanh
TSLĐ – Hàng tồn kho
Khả năng thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
ĐVT: Lần
Hệ số khả năng thanh toán nhanh là thước đo về khả năng trả nợ trong một thời
gian ngắn không dựa vào việc bán vật tư, hàng hóa, là một đặc trưng tài chính quan
Thang Long University Library
`
24
trọng của doanh nghiệp. Hệ số này đã loại trừ hàng tồn kho ra bởi trên thực tế, hàng
tồn kho kém thanh khoản hơn vì phải mất thời gian và chi phí tiêu thụ mới có thể
chuyển đổi thành tiền. Chỉ tiêu này lớn hơn 1 thì tốt cho doanh nghiệp, chứng tỏ doanh
nghiệp có đủ khả năng thanh toán ngay lập tức toàn bộ các khoản nợ ngắn hạn bằng tài
sản lưu động mà không tính đến hàng tồn kho.
- Hệ số khả năng thanh toán tức thời
Hệ số khả năng thanh toán tức thời: phản ánh khả năng thanh toán ngay các
khoản nợ bằng tiền và các chứng khoán ngắn hạn có thể nhanh chóng chuyển đổi
thành tiền. Trong đó các khoản tương đương tiền gồm CKNH hoặc thương phiếu.
Tiền và các khoản tương đương tiền
Khả năng thanh toán tức thời =
Tổng nợ ngắn hạn
ĐVT: Lần
Với việc nghiên cứu về vốn lưu động, hiệu quả sử dụng vốn lưu động và các chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động, chúng ta đã thấy được tầm quan trọng
của vốn lưu động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hay nói
cách khác, việc phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một trong
những nhiệm vụ quan trọng trong công tác tài chính của doanh nghiệp bởi vốn lưu

động có mặt trong mọi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh từ khâu dự trữ, khâu sản xuất
đến khâu lưu thông và vận động theo những vòng tuần hoàn.
Trên đây là một số chỉ tiêu tài chính nhằm đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ của
doanh nghiệp, giúp cho nhà quản lý đánh giá đúng đắn tình hình của kỳ trước, từ đó có
nhận xét và nêu ra những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động cho kỳ
tiếp theo. Tuy nhiên khi đánh giá, nhận xét cần chú ý không thể đồng nhất khi so sánh
các chỉ tiêu này ở các doanh nghiệp khác nhau bởi có nhiều khác nhau trong tính toán
ghi chép ở các ngành khác nhau với các đặc điểm kinh doanh khác nhau.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động
1.2.4.1. Các nhân tố khách quan
Đó là những nhân tố mang tính định tính và mức độ tác động của chúng đối với
hiệu quả sử dụng VLĐ là không thể tính được. Vốn lưu động của doanh nghiệp trong
cùng một lúc được phân bố trên khắp các giai đoạn luân chuyển và biểu hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau. Trong quá trình vận dụng đó, vốn lưu động chịu tác động
của các nhân tố làm ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp sau:
Thiểu phát: do tác động của nền kinh tế thiểu phát nên sức mua của thị trường bị
giảm sút, điều này làm ảnh hưởng tới tiêu thụ của doanh nghiệp, sản phẩm của doanh
nghiệp khó tiêu thụ hơn, doanh thu sẽ ít hơn và như thế sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng
vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng.
`
25
Lạm phát: do tác động của nền kinh tế có lạm phát làm cho sức mua của đồng
tiền sụt giảm hay giá cả của các loại vật tư hàng hóa tăng lên. Vì vậy, nếu doanh
nghiệp không điều chỉnh kịp thời giá trị của các loại tài sản đó thì sẽ làm cho VLĐ
giảm dần theo tốc độ trượt giá của tiền tệ.
Rủi ro: do những rủi ro bất thường trong quá trình sản xuất kinh doanh mà các
doanh nghiệp thường gặp phải trong điều kiện kinh doanh có nhiều thành phần kinh tế
cùng tham gia cạnh tranh với nhau. Ngoài ra, doanh nghiệp còn gặp phải những rủi ro
thiên tai gây ra như hỏa hoạn, lũ lụt… mà các doanh nghiệp khó có thể lường trước
được. Điều này trực tiếp gây ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả hoạt động sản xuất

kinh doanh cũng như góp phần làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Do tác động của cách mạng khoa học công nghệ nên sẽ làm giảm giá tài sản,
vật tư. Vì vậy, nếu doanh nghiệp không bắt kịp điều này để điều chỉnh kịp thời giá trị
của sản phẩm thì hàn hóa bán ra sẽ thiếu tính cạnh tranh làm giảm hiệu quả sử dụng
vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng.
Yếu tố sản xuất tiêu dùng: chu kỳ, tính thời vụ của sản xuất và tiêu dùng ảnh
hưởng trực tiếp tới mức lưu chuyển hàng hóa. Những hàng hóa có chu kỳ sản xuất dài,
vốn hàng hóa lớn sẽ làm cho tốc độ chu chuyển VLĐ chậm và ngược lại, bên cạnh sự
phân bổ hàng hóa giữa nơi sản xuất và tiêu dùng cũng ảnh hưởng tới tốc độ chu
chuyển hàng hóa. Nếu sự phân bổ này là hợp lý sẽ tạo điều kiện rút ngắn thời gian lưu
thông hàng hóa, tăng tốc độ chu chuyển, tăng hiệu quả sử dụng VLĐ.
Giá cả cũng tác động không nhỏ, sự thay đổi giá cả có thể do sự biến động đột
ngột của nhu cầu hoặc số lượng cung ứng. Giá cả thay đổi sẽ làm tăng lên hoặc giảm
đi mức độ lãi mà doanh nghiệp thu được trên một đơn vị hàng hóa tiêu thụ. Điều này
tác động trực tiếp tới doanh thu của doanh nghiệp dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn lưu
động cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Các chính sách kinh tế của Nhà nƣớc: để thực hiện chức năng quản lý vĩ mô
nền kinh tế, Nhà nước đưa ra chính sách kinh tế phù hợp để thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Sự thay đổi chế độ
các chính sách đều có tác động tốt hoặc không tốt đối với doanh nghiệp cũng như hiệu
quả sử dụng vốn lưu động.
Các chính sách thuế: đây là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước,
thuế có tác động trực tiếp đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vì đây là
khoản chi phí bắt buộc. Nếu Nhà nước bắt đóng thuế thấp đối với các ngành kinh
doanh của doanh nghiệp thì lợi nhuận thu được nhiều hơn, doanh nghiệp có xu hướng
mở rộng quy mô kinh doanh. Ngược lại với mức thuế cao, lợi nhuận giảm, doanh
nghiệp không muốn mở rộng quy mô kinh doanh mà còn thu hẹp dần hoạt động. Bên
cạnh chính sách thuế còn có tác động của các chính sách khác ảnh hưởng tới việc kinh
Thang Long University Library

×