Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

luận văn thạc sĩ Nâng cao chất lượng kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 102 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống ngân hàng trong bất kỳ nền kinh tế nào cũng giữ vai trò quan
trọng trong quá trình ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Với tư cách là một
định chế tài chính trung gian, hệ thống ngân hàng có vai trò điều tiết nền kinh
tế thông qua các hoạt động nghiệp vụ của mình. Tính hiệu quả trong hoạt
động kinh tế phụ thuộc rất lớn vào chất lượng hoạch định và thực thi chính
sách tiền tệ một cách có hiệu quả và chất lượng hoạt động của hệ thống ngân
hàng. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh ngân hàng lại là loại hình kinh doanh
chứa đựng nhiều rủi ro, việc đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng
không chỉ được các nhà kinh doanh ngân hàng quan tâm mà còn là mối quan
tâm của người gửi tiền, của các cơ quan quản lý Nhà nước, của cả xã hội vì
bất kỳ một sự phá sản nào của Ngân hàng đều gây ảnh hưởng dây chuyền đến
nền kinh tế.
Để ngăn ngừa những tổn thất và các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình
hoạt động kinh doanh ngân hàng, ngoài các biện pháp thanh tra, giám sát của
các cơ quan quản lý Nhà nước, đòi hỏi các ngân hàng phải có biện pháp hữu
hiệu tự bảo vệ mình. Biện pháp quan trọng và có ý nghĩa thiết thực nhất với
các ngân hàng thương mại là phải thiết lập, củng cố hệ thống kiểm soát nội bộ
của đơn vị mình.
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam là một trong
những ngân hàng lớn và có uy tín nhất tại Việt Nam, trải qua 45 năm hoạt
động và là Ngân hàng thương mại quốc doanh đầu tiên thực hiện chào bán cổ
phiếu lần đầu ra công chúng vào tháng 12/2007. Bề dày lịch sử phát triển và
hoạt động đã khẳng định vị thế của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại
thương Việt Nam và Ngân hàng cũng nhận thức rõ tầm quan trọng của phát
1
triển bền vững, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập WTO và trong quá trình
chuyển đổi loại hình sở hữu hiện nay. Ý thức được tầm quan trọng của hệ
thống kiểm soát nội bộ trong sự phát triển của NH TMCP NTVN, đề tài:
“Nâng cao chất lượng kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt


Nam” đã được lựa chọn nghiên cứu.
II. Mục đích
Trên cơ sở hệ thống hoá và phân tích về lý luận và kinh nghiệm hoạt
động kiểm soát nội bộ nói chung và tại các Ngân hàng thương mại nói riêng,
luận văn phân tích đánh giá thực trạng hoạt động kiểm soát nội bộ tại NH
TMCP NTVN, đưa ra những giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt
động kiểm soát nội bộ tại đơn vị.
III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: là hoạt động kiểm soát nội bộ của NH TMCP
Ngoại thương VN.
- Phạm vi: Luận văn nghiên cứu chủ yếu về hoạt động kiểm soát nội bộ của
NH TMCP NTVN. Về thời gian: Luận văn tập trung xem xét, đánh giá thực
trạng công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ của NHNTVN từ năm 2005-2007.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
làm phương pháp chủ đạo, ngoài ra còn sử dụng các phương pháp như: thống
kê, tổng hợp, phân tích, dùng hệ thống sơ đồ bảng biểu để trình bày.
V. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Kiểm soát nội bộ và chất lượng kiểm soát nội bộ trong Ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm soát nội bộ tại Ngân
hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam.
2
CHƯƠNG 1
KIỂM SOÁT NỘI BỘ VÀ CHẤT LƯỢNG KIỂM SOÁT NỘI
BỘ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ CỦA NHTM

1.1.1. Khái niệm về kiểm soát nội bộ
1.1.1.1. Khái niệm
Kiểm tra, kiểm soát là một chức năng quan trọng của hoạt động quản lý
và được thực hiện bởi công cụ chính yếu là hệ thống kiểm soát nội bộ tại đơn
vị. Các nhà quản lý, lãnh đạo của doanh nghiệp cần và có trách nhiệm cung
cấp cho các cổ đông, cho các cơ quan quản lý Nhà nước, cho những nhà đầu
tư tiềm năng những thông tin tài chính trên cơ sở hợp thời. Một hệ thống bao
gồm nhiều chế độ và thể thức đặc thù được thiết kế để cung cấp cho các nhà
quản lý sự bảo đảm hợp lý là các mục tiêu và mục đích quan trọng đối với
doanh nghiệp. Những chế độ và thể thức này được gọi là các quá trình kiểm
soát, và kết hợp lại hình thành nên cơ cấu kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp.
Theo quan điểm kinh tế học hiện đại, quản lý kinh tế được chia thành
bốn chức năng cơ bản là: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra, kiểm
soát. Trong đó, kiểm tra, kiểm soát không chỉ được coi là một kênh của quản
lý mà được thực hiện ở tất cả các khâu trong quá trình quản lý. Có nghĩa là,
kiểm tra, kiểm soát giúp cho nhà quản lý đánh giá được hiệu quả của các chức
năng khác trong toàn bộ quá trình hoạt động của mình.
Cùng với sự phát triển của kinh tế học, hoạt động quản lý ngày càng phát
triển, từ hoạt động riêng rẽ, biệt lập tương đối đến kết hợp nhiều hoạt động
kiểm tra, kiểm soát và dần tiến tới hoạt động độc lập. Khi nhu cầu kiểm tra,
kiểm soát chưa cao, chưa phức tạp thì kiểm tra, kiểm soát được thực hiện
3
đồng thời với các chức năng quản lý khác trên cùng bộ máy thống nhất.
Nhưng khi nhu cầu này đã phát triển lên đến một trình độ cao thì kiểm tra,
kiểm soát cần thiết phải tách ra thành một bộ máy riêng, có tính chất chuyên
môn độc lập.
Hình thức đơn giản nhất của kiểm tra, kiểm soát chính là hoạt động tự
kiểm tra, kiểm soát phục vụ quản trị nội bộ doanh nghiệp hay nói cách khác
đó là hoạt động kiểm soát nội bộ. Nghĩa là, kiểm soát nội bộ là hoạt động tự
thân của đơn vị, do đơn vị tự lập ra, tự tiến hành các thủ tục và các bước kiểm

soát nhằm tự chấn chỉnh trong nền nếp hoạt động của mình. Hoạt động kiểm
soát nội bộ sẽ hiệu quả khi chúng được hình thành và thực hiện theo một hệ
thống (hệ thống kiểm soát nội bộ).
Theo Hiệp hội kế toán Anh quốc (EAA – England Association of
Accountant): “ Một hệ thống kiểm soát toàn diện có kinh nghiệm tài chính và
các lĩnh vực khác được thành lập bởi Ban quản lý nhằm:
- Đảm bảo các hoạt động kinh doanh của đơn vị phải được tiến hành
trong trật tự và có hiệu quả.
- Đảm bảo tuyệt đối tuân thủ các đường lối kinh doanh của Ban quản trị.
- Giữ tài sản an toàn.
- Đảm bảo tính toàn diện và chính xác của số liệu hạch toán.
Những thành phần riêng lẻ của Hệ thống kiểm soát nội bộ được coi là
hoạt động kiểm tra nội bộ”.
Theo Viện kiểm toán độc lập Hoa Kỳ (American Institute of Certified
Public Accountant – AICPA): “ Kiểm soát nội bộ là một cơ cấu tổ chức cộng
với toàn bộ biện pháp, giải pháp kết hợp trong kinh doanh nhằm:
- Bảo đảm an toàn tài sản.
4
- Kiểm soát tính chính xác, tin cậy của số liệu hạch toán.
- Thúc đẩy hiệu quả trong kinh doanh.
- Khuyến khích sự tuân thủ đường lối quản lý đã được chấp thuận.”
Theo Liên đoàn kế toán Quốc tế (The International Federation of
Accountant - IFAC) : “Hệ thống kiểm tra của toàn đơn vị là toàn bộ các
phương pháp, các bước công việc mà các nhà quản lý doanh nghiệp phải tuân
theo. Hệ thống kiểm tra nội bộ giúp cho các nhà quản lý đạt được mục tiêu
một cách chắc chắn theo trình tự và kinh doanh có hiệu quả kể cả tôn trọng
các quy chế quản lý, giữ an toàn tài sản, ngăn chặn, phát hiện sai phạm và
gian lận; ghi chép kế toán đầy đủ, chính xác, lập báo cáo tài chính kịp thời,
đáng tin cậy”.
Theo Luật các Tổ chức tín dụng tại Việt Nam, tổ chức tín dụng phải thiết

lập hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ thuộc bộ máy điều hành, giúp Tổng
giám đốc điều hành thông suốt, hiệu quả và đúng pháp luật mọi hoạt động
nghiệp vụ của Tổ chức tín dụng. Trong quy chế về tổ chức và hoạt động kiểm
tra, kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng tại Việt Nam “Kiểm tra, kiểm
toán nội bộ (gọi chung là kiểm tra nội bộ) trong các tổ chức tín dụng là việc
thực hiện các phương pháp giám sát, kiểm tra và kiểm toán nội bộ nhằm: bảo
đảm thực hiện đúng các quy định của pháp luật, các quy chế quản lý của
ngành và quy định nội bộ của Tổ chức tín dụng; hạn chế rủi ro trong hoạt
động và bảo vệ an toàn tài sản; đảm bảo tính toàn diện và độ tin cậy của số
liệu hạch toán”.
Như vậy, hệ thống kiểm soát nội bộ là tập hợp các chính sách, các thủ tục
kiểm soát do đơn vị thiết lập và duy trì nhằm điều hành toàn bộ các hoạt động
của đơn vị đảm bảo các mục tiêu:
- Bảo vệ tài sản và sổ sách kế toán.
5
- Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin.
- Bảo đảm duy trì và kiểm tra việc tuân thủ các quy định pháp lý, các
chính sách liên quan đến hoạt động của đơn vị.
- Bảo đảm hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý.
* Bảo vệ tài sản và sổ sách kế toán:
Tài sản của đơn vị bao gồm:
- Các loại tài sản được ghi trên bảng cân đối kế toán (tài sản cố định, các
khoản cho vay, đầu tư,…)
- Các loại tài sản phi vật chất, tài sản vô hình như: uy tín doanh nghiệp,
thương hiệu, số lượng và quan hệ khách hàng, lợi thế thương mại, quan hệ
trong bộ máy lãnh đạo, giữa lãnh đạo với nhân viên, chính sách thống nhất
trong công tác điều hành,…
Tài sản của đơn vị có thể bị mất mát, lạm dụng hoặc hư hại do cố ý hoặc
vô ý nếu không được bảo vệ với các biện pháp kiểm soát thích hợp. Các quy
trình, các biện pháp tổ chức, quy chế, những biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ sẽ

được áp dụng để bảo vệ tài sản của doanh nghiệp.
* Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin:
Nhà quản lý phải có các thông tin chính xác để điều hành các mặt của
hoạt động kinh doanh. Trong đó, thông tin kinh tế tài chính là thông tin quan
trọng cho việc hình thành và ra quyết định kinh tế của các nhà quản lý. Các
thông tin được sử dụng để ra các quyết định kinh doanh phải đảm bảo trung
thực, khách quan, không bị lạm dụng và sử dụng sai mục đích, cụ thể là:
- Độ tin cậy của cá tài liệu tài chính, kế toán do bộ phận kế toán chuẩn bị,
do Giám đốc ký duyệt hoặc báo cáo với Ban giám đốc, với Hội đồng quản trị.
- Tính thích đáng, phù hợp của các thông tin tài chính, kế toán. Các
thông tin này phải phản ánh đầy đủ, trung thực và khách quan đối với các hoạt
động kinh tế.
6
* Bảo đảm duy trì và kiểm tra việc tuân thủ các quy định pháp lý, các
chính sách có liên quan đến hoạt động của đơn vị.
Cơ cấu kiểm soát nội bộ được thiết kế để mang lại sự bảo đảm chắc chắn
các quyết định và chế độ quản lý được thực hiện đúng quy định của pháp luật
và các quy định nội bộ, đồng thời giám sát được mức hiệu quả của các chính
sách áp dụng. Nhân viên của doanh nghiệp phải tuân thủ các chính sách,
quyết định nội bộ, cụ thể là:
- Phát hiện kịp thời những rắc rối trong kinh doanh để hoạch định và
thực hiện các biện pháp đối phó.
- Ngăn chặn, phát hiện các sai phạm và các gian lận trong kinh doanh.
- Ghi chép kế toán đầy đủ, chính xác và đúng thể thức về các nghiệp vụ
của hoạt động kinh doanh.
- Lập các báo cáo tài chính kịp thời, hợp lệ và tuân theo các yêu cầu
pháp định có liên quan.
* Bảo đảm hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý:
Các quá trình kiểm soát trong mọi tổ chức đều nhằm ngăn ngừa sự lặp
lại không cần thiết các nỗ lực và sự lãng phí trong mọi lĩnh vực kinh doanh,

nhằm ngăn cản sự sử dụng không hiệu quả các nguồn tiềm năng. Định kỳ, nhà
quản lý đánh giá kết quả hoạt động để nâng cao hiệu năng quản lý, đảm bảo
cơ cấu bộ máy đơn vị có đủ năng lực điều khiển, chỉ huy đơn vị.
Như vậy, kiểm soát nội bộ trong Ngân hàng thương mại có thể khái quát
như sau:
- Mục tiêu của hoạt động kiểm soát nội bộ không chỉ giới hạn trong việc
bảo vệ tài sản hay đảm bảo tính tin cậy của các thông tin tài chính mà còn bao
trùm mọi mặt trong chính sách, biện pháp quản lý, cơ chế hoạt động của ngân
hàng thương mại.
7
- Hoạt động kiểm soát nội bộ trong ngân hàng thương mại trước hết là
công việc của bộ máy lãnh đạo (Ban điều hành, Hội đồng quản trị). Theo đó,
các nhà lãnh đạo phải thực sự có trách nhiệm trong việc hoạch định, vận dụng
một cách nhất quán công tác kiểm soát nội bộ. Trách nhiệm này hàm chứa
việc họ phải đảm bảo duy trì một cơ chế kiểm soát tích cực.
- Hoạt động kiểm soát nội bộ phải được coi như công cụ gắn liền, hoà
nhập vào toàn bộ quá trình tác nghiệp của ngân hàng chứ không phải là một
hoạt động song song hay là một biện pháp bổ sung cho công tác quản trị kinh
doanh theo ý muốn chủ quan của bất kỳ nhà chức trách nào. Hơn thế, mọi quy
trình, thủ tục kiểm soát nội bộ phải là bộ phận không thể tách rời của quá
trình kinh doanh ngân hàng thương mại.
- Hoạt động kiểm soát nội bộ là một thể thống nhất, cần thiết phải được tách
ra thành hoạt động riêng, một bộ máy riêng có tính chất chuyên môn độc lập.
Dựa trên các định nghĩa về kiểm soát nội bộ của các tổ chức quốc tế và
các phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về kiểm soát nội bộ trong ngân
hàng thương mại như sau:
“ Kiểm soát nội bộ trong ngân hàng thương mại là một hệ thống tổ chức
bộ máy cùng với toàn bộ các chính sách, các biện pháp của ngân hàng thương
mại được hoạch định bởi Hội đồng quản trị và Ban giám đốc, được vận hành
một cách đồng bộ, đúng pháp luật nhằm:

- Bảo đảm an toàn tài sản, vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại.
- Kiểm tra, giám sát tính chính xác, độ tin cậy của các số liệu hạch toán
kinh doanh, phát hiện và ngăn ngừa kịp thời các sai lầm, thiếu sót có thể xảy
ra trong quá trình tác nghiệp của các bộ phận hoạt động trong ngân hàng
thương mại.
- Thúc đẩy kinh doanh, đảm bảo mang lại hiệu quả kinh tế bền vững nhất.
8
- Bảo đảm tuân thủ đường lối, chính sách về quản lý kinh tế của nhà
nước, chế độ, thể lệ về nghiệp vụ của ngân hàng nhà nước và của bản thân
ngân hàng thương mại đó”.
Như vậy, hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ thống bao gồm các quy
chế, những biện pháp, những thủ tục kiểm soát tài chính và phi tài chính do
ngân hàng xây dựng và vận hành nhằm đảm bảo việc tôn trọng các quy chế
quản lý, giữ gìn tài sản an toàn, duy trì chế độ ghi chép kế toán đầy đủ, chính
xác, lập báo cáo tài chính đúng thời hạn.
1.1.1.2. Các mục tiêu của hệ thống kiểm soát nội bộ
Các mục tiêu của hệ thống kiểm soát nội bộ đều nhằm ngăn ngừa, loại bỏ
các sai sót trong quá trình ghi nhận nghiệp vụ kinh tế phát sinh, 7 mục tiêu cụ
thể là:
- Các nghiệp vụ kinh tế phải có căn cứ hợp lý.
- Các nghiệp vụ kinh tế phải được phê chuẩn đúng đắn.
- Các nghiệp vụ kinh tế phải được ghi sổ một cách đầy đủ.
- Các nghiệp vụ kinh tế phải được đánh giá đúng đắn.
- Các nghiệp vụ kinh tế phải được phân loại đúng đắn
- Các nghiệp vụ kinh tế phải được phản ánh đúng hạn.
- Các nghiệp vụ kinh tế phải được ghi đúng đắn vào sổ phụ và đuợc tổng
hợp chính xác.
Như vậy, kiểm tra, kiểm soát nội bộ là những hệ thống có chức năng xác
minh, đánh giá, nhận xét về các đối tượng của kiểm tra, kiểm soát. Hoạt động
kiểm tra, kiểm soát nảy sinh từ nhu cầu thực tế của hoạt động quản lý. Các

yếu tố của hệ thống kiểm tra, kiểm soát bao gồm tất cả các yếu tố dối chiếu,
xem xét, xác minh đối tượng của quản lý. Tổ chức kiểm tra, kiểm soát thể
hiện tính khoa học và tính nghiệp vụ kỹ thuật về việc thực hiện các chiến lược
9
và bước đi cụ thể trong việc hoạch định chính sách và tổ chức bộ máy kiểm
tra, kiểm soát trong từng cá thể doanh nghiệp cũng như của cả nền kinh tế.
1.1.1.3. Vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ
Đối với công tác kiểm toán, Cơ quan kiểm toán nhà nước đã ban hành hệ
thống chuẩn mực kiểm toán nhà nước, trong đó quy định: “Khi xác định phạm
vi, thời gian, nội dung phương pháp kiểm toán, kiểm toán viên phải nghiên
cứu đầy đủ về hệ thống kiếm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán”. Thực
hiện chuẩn mực này giúp kiểm toán viên đánh giá độ tin cậy của hệ thống
kiểm soát nội bộ phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch và thu thập các bằng
chứng kiểm toán thích hợp. Thực tế, hoạt động kiểm soát nội bộ có mặt ở hầu
hết các yếu tố quan trọng liên quan đến quá trình kiểm toán. Nếu hệ thống
kiểm soát nội bộ hoạt động tốt và có độ tin cậy cao thì có thể thu hẹp phạm vi,
nội dung và khối lượng công việc kiểm toán và tiết kiệm chi phí kiểm toán.
Ngược lại, nếu đánh giá không đúng về tình hình, độ tin cậy của hệ thống
kiểm soát nội bộ thì kiểm toán viên có thể bỏ sót những nội dung trọng yếu và
không tránh khỏi những rủi ro kiểm toán. Do vậy, những hiểu biết và cách
đánh giá về hệ thống kiểm soát nội bộ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
quá trình kiểm toán.
1.1.2. Cơ cấu hệ thống kiểm soát nội bộ
Hoạt động kiểm soát nội bộ không phải là hoạt động riêng lẻ mà trong
thực tế nó cần phải tiến hành theo một hệ thống các yếu tố có tác động tương
hỗ lẫn nhau. Chính sự vận hành các yếu tố này trong hệ thống theo những quy
luật nhất định đã đưa toàn bộ hệ thống đạt tới mục tiêu định trước. Cơ cấu của
hệ thống kiểm soát nội bộ gồm:
(1)Môi trường kiểm soát
(2)Hệ thống kế toán

(3)Các thể thức kiểm soát
(4)Giám sát độc lập ngoài kiểm soát.
10
Bảng 1.1: Các bộ phận của hệ thống kiểm soát nội bộ
Môi trường kiểm soát
Hệ thống kế
toán
Các thể thức kiểm soát
Quan điểm điều hành của Ban quản trị Có căn cứ hợp lý
Cách ly đầy đủ về mặt
trách nhiệm
Cơ cấu tổ chức Sự phê chuẩn
Các thể thức phê chuẩn
đúng đắn
Các phương pháp để truyền đạt sự
phân công quyền hạn và trách nhiệm
Tính đầy đủ
Chứng từ và sổ sách đầy
đủ
Các phương pháp
kiểm soát của Ban quản trị
Sự đánh giá
Kiểm soát vật chất đối
với tài sản và sổ sách
Các thủ tục và chính sách nhân viên Sự phân loại
Kiểm soát độc lập việc
thực hiện
Các ảnh hưởng bên ngoài Tính thời gian
Sự chuyển sổ và
sự tổng hợp

1.1.2.1. Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát của đơn vị là một hệ thống các nhân tố có tính
chất là môi trường chung tác động tới việc thiết kế, xây dựng và tổ chức kiểm
soát thực hiện các chính sách, chế độ, quy định của đơn vị. Môi trường kiểm
soát thể hiện thái độ, khả năng, sự nhận biết và các hoạt động của người quản
lý, các chính sách, thủ tục kiểm soát, tính trung thực và giá trị đạo đức, cơ cấu
trách nhiệm và sự phân chia quyền lực, chính sách về nhân sự.
• Quan điểm điều hành của Ban quản trị:
Quan điểm điều hành của Ban quản trị có ảnh hưởng rất lớn đến các
chính sách, chế độ, các quy định và cách thức kiểm soát tại đơn vị, bởi vì:
chính các nhà quản trị danh nghiệp là người đưa ra các quyết định và phê
chuẩn trực tiếp các chính sách, thủ tục áp dụng tại đơn vị. Nếu người quản lý
cao nhất coi trọng công việc kiểm soát thì các nhân viên trong đơn vị sẽ tuân
thủ nghiêm túc và thận trọng quy chế quản lý của đơn vị đã xây dựng và
11
ngược lại. Nói cách khác, nếu những người quản lý cao cấp được đào tạo
chính quy, đúng chuyên ngành, họ hiểu biết công việc kiểm soát cùng với hệ
thống các chính sách thủ tục kiểm soát được ban hành đầy đủ, thì đó là biểu
hiện của người quản lý có năng lực, quan tâm và coi trọng công tác kiểm soát.
• Cơ cấu tổ chức:
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý là tổng hợp các bộ phận được chuyên
môn hoá với những trách nhiệm và quyền hạn nhất định có mối liên hệ mật
thiết với nhau nhằm thực hiện các chức năng khác nhau trong quản lý. Nếu một
đơn vị có được một cơ cấu tổ chức hợp lý thì thường tạo ra được một môi
trường kiểm soát tốt, bởi lẽ, nó đảm bảo cho một hệ thống thông suốt từ trên
xuống dưới trong việc ban hành các quy định cũng như việc triển khai thực
hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện chúng từ trên xuống các đơn vị cơ sở.
• Công tác lập kế hoạch:
Lập kế hoạch là một trong các chức năng quan trọng của nhà quản lý, đó
là quá trình xác lập các mục tiêu của tổ chức và các phương thức để thực hiện

những mục tiêu đó. Kế hoạch sẽ được thực hiện dựa trên những tính toán ban
đầu cho cả một thời kỳ nhất định. Kế hoạch đó sẽ xác định các tiêu chuẩn cơ
bản, quan trọng nhất nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt
động của đơn vị trong đó có hoạt động kiểm soát nội bộ. Vì vậy, nếu nhà
quản lý thực hiện tốt khâu này thì việc lập kế hoạch sẽ trở thành công cụ kiểm
soát hữu hiệu thông qua việc xem xét tiến độ thực hiện kế hoạch và so sánh số
liệu thực hiện trong thực tế với các mục tiêu ban đầu.
• Chính sách về nhân sự:
Con người luôn là mối quan tâm lớn của bất kỳ nhà quản trị doanh
nghiệp nào, nó cũng là khía cạnh quan trọng nhất của hệ thống kiểm soát nội
bộ. Mặt này của doanh nghiệp bao gồm các phương pháp trong quản lý
nhân sự và các chế độ của đơn vị đó về tuyển dụng, đào tạo, đánh giá, khen
12
thưởng, kỷ luật…
Thực tế đã chứng minh rằng, một đội ngũ nhân viên kém năng lực,
không trung thực sẽ làm cho hoạt động của doanh nghiệp trở nên rối ren, kém
hiệu quả, hoạt động kiểm soát cũng không đạt được kết quả cao. Ngược lại,
một đội ngũ nhân viên trung thực, có trình độ có thể làm cho một chu trình
kiểm soát còn nhiều hạn chế cũng sẽ thu được kết quả theo các mục tiêu đã
định trước. Trong thực tế, nhân sự là yếu tố quan trọng nhưng rất nhạy cảm,
vì thế, nó đòi hỏi các nhà quản trị phải thực sự tinh tế trong việc giải quyết
vấn đề này.
•Các ảnh hưởng bên ngoài:
Các ảnh hưởng bên ngoài có tác động tới hoạt động kiểm soát nội bộ có
thể kể đến là: các yếu tố về môi trường pháp lý, đường lối phát triển và bộ
máy quản lý ở tầm vĩ mô…Các nhân tố này trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh
hưởng tới hoạt động của đơn vị, vì thế nó có ảnh hưởng gián tiếp tới môi
trường kiểm soát của doanh nghiệp.
1.1.2.2. Hệ thống kế toán
Hệ thống kế toán là hệ thống thông tin và kiểm tra tài sản, nguồn hình

thành tài sản và sự vận động của tài sản bằng các phương pháp kế toán. Hệ thống
kế toán gồm: hệ thống chứng từ, sổ sách, báo cáo và các tài khoản kế toán.
Mục đích của hệ thống kế toán doanh nghiệp là nhận biết, thu thập, phân
loại, phân tích, ghi sổ và báo cáo các nghiệp vụ kinh tế phát sinh của tổ chức
đó cho các đối tượng quan tâm trong doanh nghiệp.
Một hệ thống kế toán được coi là có hiệu quả phải là hệ thống thoả mãn
các mục tiêu của hệ thống kiểm soát nội bộ: hiệu lực, đầy đủ, định giá, phê
chuẩn, phân loại, đúng kỳ, chuyển sổ và tổng hợp.
Do bất kỳ một doanh nghiệp nào sử dụng hệ thống sổ sách kế toán để
13
phân loại, phân tích, đánh giá, báo cáo cũng là để tự kiểm tra, giám sát mình.
Vì thế, hệ thống kế toán luôn là một bộ phận quan trọng của hệ thống kiểm
soát nội bộ.
1.1.2.3. Các thể thức kiểm soát
Kiểm soát trực tiếp: là biện pháp được xây dựng trên cơ sở đánh giá các
yếu tố dẫn liệu trên các báo cáo tài chính, bao gồm:
- Kiểm soát quản lý: là loại kiểm soát các hoạt động đơn lẻ do những
nhân viên độc lập tiến hành. Đây là biện pháp kiểm soát rất có hiệu quả trong
việc phát hiện, ngăn chặn các sai sót và gian lận.
- Kiểm soát xử lý: là loại kiểm soát được đặt ra để xử lý các giao dịch.
- Kiểm soát bảo vệ tài sản: là các biện pháp, quy chế kiểm soát nhằm bảo
đảm sự an toàn của tài sản và các thông tin trong đơn vị.
1.1.2.4. Hệ thống kiểm toán nội bộ
Hệ thống kiểm toán nội bộ là hệ thống trực thuộc lãnh đạo cao nhất của
đơn vị, thực hiện chức năng kiểm toán các nghiệp vụ hàng ngày của đơn vị và
kiểm toán bảng khai tài chính của các đơn vị trực thuộc. Đội ngũ kiểm toán
viên nội bộ có ảnh hưởng lớn tới chất lượng của bộ phận kiểm soát nội bộ,
một đội ngũ nhân viên đầy đủ cả về số lượng và chất lượng có thể giúp doanh
nghiệp giảm bớt chi phí về việc thuê kiểm toán viên bên ngoài bằng cách trực
tiếp cung cấp sự giúp đỡ cho kiểm toán viên thuê ngoài.

1.1.3. Nguyên tắc kiểm soát nội bộ
Hoạt động kiểm soát nội bộ phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau:
1.1.3.1. Nguyên tắc bất kiêm nhiệm
Nguyên tắc này được thực hiện nhằm tách biệt trách nhiệm đối với một
số hành vi khác nhau trong quá trình quản lý. Trong đó, sự tách biệt về mặt
trách nhiệm là một nguyên tắc cơ bản nhằm ngăn ngừa cả sai phạm cố ý và vô
ý, tránh được đến mức tối đa việc lạm dụng quyền hạn trong quá trình hoạt
14
động. Nguyên tắc này gồm 3 nội dung chính:
- Cách ly quyền phê chuẩn các nghiệp vụ kinh tế với việc bảo quản tài
sản có liên quan nhằm tránh sự lạm dụng quyền hạn để sử dụng nguồn lực
một cách tuỳ tiện.
Trong vấn đề này, tốt nhất là có sự tách biệt về chức năng và nhiệm vụ
của người phê duyệt các nghiệp vụ kinh tế phát sinh với người chịu trách
nhiệm về các tài sản có liên quan. Sở dĩ phải có sự tách biệt như vậy là vì nếu
để một người vừa phê chuẩn nghiệp vụ phát sinh, vừa kiểm soát tài sản thì
mức độ gian lận trong tổ chức sẽ rất cao. Nói cách khác, mức độ tin cậy của
các nghiệp vụ kinh tế giảm xuống trong trường hợp nghiệp vụ đó không được
cách ly đầy đủ về mặt trách nhiệm.
- Cách ly việc bảo quản tài sản với kế toán.
Nếu không có sự tách biệt của hai chức năng: bảo quản tài sản và ghi sổ
kế toán thì thường dẫn tới hiện tượng có sự chênh lệch giữa số thực tế phát
sinh và số ghi sổ kế toán do những cố ý của người làm công tác kế toán. Ví
dụ, nếu để thủ quỹ ghi sổ kế toán thì rất có thể anh ta sẽ biển thủ công quỹ và
ghi tăng lên cho một khoản mục chi nào đó trong sổ kế toán.
- Cách ly những chức năng thực hiện nghiệp vụ với những chức năng
kiếm soát nghiệp vụ nhằm phát huy tác dụng của công tác kiểm soát.
Nếu cùng một con người thực hiện cả hai chức năng trên thì cũng không
cần phải phân biệt rạch ròi giữa công tác kế toán và công tác kiểm soát. Và
như thế, việc thực hiện nghiệp vụ sẽ trở nên thiếu nghiêm túc, làm phát sinh

các sai phạm trong quá trình hoạt động của tổ chức.
1.1.3.2. Nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn đúng đắn
Một nhà quản lý dù có tài giỏi đến đâu cũng không thể trực tiếp quyết
định được mọi vấn đề, và càng không thể nói rằng các vấn đề đó đều đúng
đắn. Vì vậy, việc uỷ quyền bớt một số chức năng, nhiệm vụ cho cấp dưới
15
nhằm bảo đảm cho hoạt động của tổ chức trở nên có hiệu quả hơn là một số
vấn đề có tính chất tất yếu. Tuy nhiên, việc uỷ quyền như thế nào phụ thuộc
vào từng đơn vị cụ thể. Chế độ uỷ quyền thực hiện dưới hai hình thức: Uỷ
quyền trong cả thời ký theo một cơ chế nhất định và uỷ quyền chỉ thực hiện
trong một khoảng thời gian nhất định.
Nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn cho thấy, các nghiệp vụ kinh tế phát
sinh khác nhau sẽ được phê chuẩn bởi những người khác nhau tuỳ thuộc vào
thẩm quyền hay chức vụ của họ. Sự phê chuẩn này có thể là sự phê chuẩn
chung hoặc sự phê chuẩn cụ thể. Một sự phê chuẩn chung có nghĩa là ban
quản trị xây dựng nên các chuẩn mực, các chính sách để tổ chức phải tuân
theo. Các cấp dưới được học tập để thi hành những phê chuẩn chung bằng
cách tán thành các nghiệp vụ kinh tế trong phạm vi giới hạn của chính sách đã
đề ra. Sự phê chuẩn cụ thể phải được thực hiện riêng cho từng nghiệp vụ kinh
tế. Ví dụ, sự phê chuẩn các giới hạn tín dụng đối với khách hàng là sự phê
chuẩn chung thì việc duyệt cho vay từng lần được coi là sự phê chuẩn cụ thể.
Sự phê chuẩn cụ thể có thể được người quản lý cấp cao uỷ quyền cho
người quản lý cấp thấp hơn và việc uỷ quyền tạo ra những ưu thế lớn trong
quản lý. Trong trường hợp nhà quản lý cấp cao không có mặt kịp thời thì có
thể uỷ quyền cho cấp dưới phê chuẩn những giới hạn đuợc cho phép. Tuy
nhiên, trong trường hợp nào thì cá nhân hay nhóm người được phê chuẩn
cũng phải giữ một vị trí tương xứng với bản chất và ý nghĩa của nghiệp vụ
kinh tế phát sinh.
1.1.3.3. Nguyên tắc phân công, phân nhiệm
Theo nguyên tắc này, công việc và trách nhiệm cần được phân chia ra

cho nhiều người hoặc nhiều bộ phận của tổ chức với mục đích là không để
một cá nhân hay một bộ phận nào được thực hiện hoàn chỉnh một công việc,
từ đó mà tránh đuợc sai sót.
Trong phân công, phân nhiệm cần tránh 2 xu hướng cực đoan là quá tập
16
trung hoặc quá phân tán. Quá tập trung dẫn đến lạm quyền, quá phân tán dễ
dẫn đến những quyết định trong quản lý không đáp ứng được yêu cầu kịp thời
hay chuẩn xác, dẫn tới các thông tin không được cung cấp kịp thời cho nhà
quản lý. Việc phân công, phân nhiệm phù hợp sẽ làm tăng hiệu lực quản lý và
hiệu quả trong công việc.
1.1.4. Nội dung của kiểm soát nội bộ
1.1.4.1. Kiểm soát quy trình, nghiệp vụ
Kiểm soát nghiệp vụ là việc thẩm tra các trình tự và phương pháp tác
nghiệp ở bộ phận hoặc đơn vị kiểm soát nhằm đánh giá tính hiệu quả của các
nghiệp vụ; từ đó đưa ra những kiến nghị để cải tiến và hoàn thiện các hoạt
động của doanh nghiệp.
1.1.4.2. Kiểm soát tuân thủ
Kiểm soát tuân thủ là việc xem xét, đánh giá sự tuân thủ của các thủ tục,
các nguyên tắc, các quy định pháp lý của Nhà nước và các chính sách của tổ
chức.
Mục đích của kiểm soát tuân thủ là nhằm đảm bảo giữ vững kỷ cương,
nề nếp trong công tác quản lý kinh tế - tài chính của đơn vị
1.1.4.3. Kiểm soát chứng từ, sổ sách và các báo cáo tài chính
Kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo kế toán quản trị là việc kiểm tra
và xác nhận tính kịp thời, trung thực, đầy đủ, khách quan và tin cậy của báo
cáo tài chính.
- Chứng từ là vật mang tin dùng để chứng minh cho tính có thật của các
nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Chứng từ phải luôn đầy đủ để đảm bảo cung cấp
thông tin cần thiết một cách hợp lý cho các đối tượng quan tâm. Một hệ thống
chứng từ, sổ sách hợp lý cần phải được ghi chép dựa vào các nguyên tắc sau:

- Chứng từ phải được đánh số hiệu liên tiếp để tạo điều kiện cho việc
theo dõi.
17
- Thời gian lập chứng từ và ghi sổ phải kịp thời.
- Công tác ghi chép trên sổ sách, chứng từ phải rõ ràng, dễ hiểu.
- Chứng từ, sổ sách phải được thiết kế cho phù hợp với các hoạt động
thực tế của doanh nghiệp.
Đối với hoạt động kiểm soát thì chứng từ sổ sách là đối tượng thường
xuyên, trực tiếp trong việc chứng minh tính đúng đắn của các nghiệp vụ kinh
tế đã phát sinh trong kỳ. Việc thiếu các thông tin từ chứng từ, sổ sách thường
gây nên vấn đề lớn trong kiểm soát.
Cùng với hệ thống chứng từ, sơ đồ tài khoản cũng có mối liên quan chặt
chẽ với công tác kiểm soát. Sơ đồ tài khoản là một công cụ dùng để phân loại
các nghiệp vụ kinh tế thành những khoản mục riêng biệt, nó cung cấp một bố
cục rõ ràng để xác minh các thông tin cần thiết cho Ban quản trị và những đối
tượng quan tâm khác.
1.1.4.4. Kiểm soát tài sản
Cũng như việc bảo vệ tài sản, các hình thức bảo vệ vật chất là rất cần
thiết đối với sổ sách và chứng từ. Bởi lẽ, việc làm lại sổ sách và chứng từ bị
mất là rất tốn kém và mất thời gian. Công tác kiểm soát phải phòng ngừa các
mất mát xảy ra. Bên cạnh đó, việc hạn chế tiếp cận trực tiếp tài sản, sổ sách
cũng là biện pháp quan trọng để bảo vệ tài sản bằng cách: ban hành nội quy,
quy định về kiểm soát vào, ra ngân hàng; quy định về tham khảo tài liệu kế
toán và các dữ liệu lưu trữ trong máy điện toán.
1.1.5. Mối quan hệ giữa hoạt động kiểm soát của Ngân hàng Trung
ương với kiểm soát nội bộ của các ngân hàng thương mại
Hoạt động kiểm soát của Ngân hàng Trung ương (NHTW) bao gồm hoạt
động thanh tra, giám sát đối với các NHTM. Phương thức thanh tra, giám sát
các NHTM gồm:
- Thanh tra trực tiếp: là việc NHTW định kỳ hoặc đột xuất cử các nhân

viên là giám sát viên hoặc thanh tra viên tới làm việc tại các NHTM. Trên cơ
18
sở xem xét trực tiếp các hoạt động thực tế tại NHTM và các tài liệu do ngân
hàng cung cấp, các giám sát viên hoặc thanh tra viên sẽ đưa ra các đánh giá,
khuyến nghị về các mảng hoạt động của ngân hàng.
Mục tiêu của hoạt động thanh tra trực tiếp là:
+ Đánh giá toàn bộ hoạt động và điều kiện tài chính của ngân hàng, đánh
giá môi trường hoạt động chung của ngân hàng, tập trung vào hệ thống quản
lý, hệ thống kiểm soát nội bộ và hệ thống quản lý rủi ro.
+ Đánh giá mức độ đáng tin cậy của những thông tin, dữ liệu mà ngân
hàng cung cấp cho NHTW và cho các yêu cầu công khai thông tin.
+ Tiếp xúc trực tiếp với Ban lãnh đạo và nhân viên ngân hàng để có được
cái nhìn bên trong và sự hiểu biết tốt hơn, thực tế hơn về một ngân hàng cụ thể.
- Giám sát từ xa: là quá trình thu thập, phân tích, đánh giá, xử lý thông
tin một cách thường xuyên, liên tục về hoạt động của NHTM trên cơ sở các
thông tin, dữ liệu do các NHTM báo cáo về NHTW và thông qua việc gặp gỡ,
trao đổi qua điện thoại với lãnh đạo và nhân viên ngân hàng, cũng như thông
qua các nguồn thông tin khác…
Mục tiêu của hoạt động giám sát từ xa:
+ Phát hiện, cảnh báo sớm những rủi ro tiềm ẩn đối với từng ngân hàng
và cả hệ thống ngân hàng.
+ Cung cấp những thông tin ban đầu cho việc xây dựng kế hoạch thanh
tra tại chỗ cũng như tiến hành một cuộc thanh tra cụ thể.
+ Phát hiện những xu thế phát triển của hệ thống ngân hàng, làm cơ sở
cho việc ban hành chính sách.
Như vậy, so với hoạt động thanh tra trực tiếp, hoạt động giám sát từ xa
có 3 điểm khác biệt cơ bản. Thứ nhất, đó là cách thức thu thập, tiếp cận
19
thông tin; thứ hai, là mức độ và phạm vi giám sát; thứ ba, là nội dung và
mục tiêu giám sát cụ thể. Do những điểm khác biệt này, thanh tra trực tiếp

phù hợp cho những đánh giá toàn diện, cụ thể và mang tính định kỳ còn
giám sát từ xa phù hợp cho việc đánh giá một cách thường xuyên, liên tục
và với một số lớn các ngân hàng. Chính vì thế mà giám sát từ xa và thanh
tra tại chỗ là 2 phương thức được NHTW sử dụng đồng thời để kiểm soát
hoạt động của các NHTM.
• Nội dung thanh tra, giám sát:
- Nội dung về mặt định tính:
+ Đánh giá năng lực quản trị, điều hành, dựa trên các tiêu chí như: Sự
phân định trách nhiệm, quyền hạn trong Ban lãnh đạo; Hệ thống và cơ chế
điều hành thông tin cho phép Ban lãnh đạo cập nhật các thông tin chính xác,
kịp thời; Sự chủ động của Ban lãnh đạo trong việc thiết lập các giới hạn rủi ro
phù hợp với quy định của pháp luật, phù hợp với chiến lược kinh doanh và
khả năng chống chọi của ngân hàng trong từng thời kỳ; Trách nhiệm của lãnh
đạo các cấp trong việc ban hành hệ thống các chính sách, thủ tục, quy trình,
nghiệp vụ và định kỳ xem xét lại hệ thống này phù hợp với pháp luật hiện
hành và điều kiện cụ thể từng ngân hàng.
+ Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của NHTM.
Dựa trên 5 yếu tố: 1. Môi trường kiểm soát: phản ánh sự quan tâm cũng
như tác động của Ban lãnh đạo, nhân viên đối với những vấn đề liên quan đến
hoạt động kiểm soát nội bộ. 2, Quy trình đánh giá rủi ro: quy trình nhận dạng,
đo lường, kiểm soát toàn bộ rủi ro, phù hợp với khả năng chống chọi và chiến
lược kinh doanh của ngân hàng. 3, Các hoạt động kiểm soát: bao gồm các
chính sách và thủ tục nhằm thiểu rủi ro đã được xác định (chính sách, thủ tục
phân tán rủi ro, phòng ngừa rủi ro, thủ tục trích lập và sử dụng dự phòng rủi
20
ro) 4, Thông tin liên lạc: quy trình nắm bắt và trao đổi thông tin để quản lý và
kiểm soát các hoạt động. 5, Giám sát: đánh giá hoạt động của hệ thống kiểm
soát nội bộ theo thời gian, để đảm bảo hoạt động này được tiến hành như dự
kiến và có những thay đổi khi cần thiết.
+ Đánh giá sự phù hợp của hệ thống kế toán

+ Đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.
- Thanh tra, giám sát về mặt định lượng.
+ Việc tuân thủ các yêu cầu về vốn: vốn tự có, cơ cấu vốn,…phải phù
hợp với quy định của NHNN và đảm bảo bù đắp được rủi ro ở mức độ hợp lý.
+ Đo lường rủi ro: lượng hoá các rủi ro đã được nhận biết thông qua việc
tính toán các chỉ tiêu vảư dụng các mô hình toán.
+ Việc tuân thủ các hạn mức, giới hạn trong hoạt động: giới hạn cho
vay, bảo lãnh đối với một khách hàng, một nhóm khách hàng, trạng thái
ngoại hối,…
+ Tính bền vững của các khoản thu nhập: thu nhập trước thuế so với tài
sản có bình quân và so với vốn chủ sở hữu, chi phí huy động vốn so với tài
sản có bình quân,…
• Phương pháp thanh tra, giám sát đối với các NHTM:
- Thanh tra trên cơ sở tuân thủ: là việc tập trung phát hiện, đánh giá mức
độ tuân thủ pháp luật có liên quan của đối tượng được thanh tra, coi đây là
mục tiêu quan trọng nhất.
- Thanh tra định hướng rủi ro: nhằm vào việc đánh giá các rủi ro mà
NHTM gặp phải khi không tuân thủ các quy trình, quy định đã có và khi
không có các thủ tục, quy trình hoạt động phù hợp, đồng thời trên cơ sở đánh
giá mức độ rủi ro, nguồn lực để kiểm soát, xử lý rủi ro của ngân hàng để đưa
ra những giải pháp phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro.
21
Trên đây là hoạt động kiểm soát của NHNN đối với NHTM. Về bản
chất, không có sự khác nhau quá lớn giữa phương thức, nội dung và phương
pháp thanh tra của NHNN đối với NHTM so với kiểm soát nội bộ tại NHTM.
vấn đề khác nhau cơ bản là về quy mô của hoạt động kiểm soát và kết quả của
hoạt động này sẽ tác động đến một hay nhiều ngân hàng, sự điều chỉnh về quy
trình, quy định, thủ tục kiểm soát và phát hiện sai sót, sơ hở của quy trình,
quy chế,… tại một ngân hàng hay toàn bộ hệ thống ngân hàng.
1.2. CHẤT LƯỢNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ CỦA NHTM

1.2.1. Khái niệm và các tiêu thức đánh giá chất lượng kiểm soát nội
bộ của NHTM
1.2.1.1. Khái niệm
Chất lượng kiểm soát nội bộ của NHTM không thoát ly khỏi khái niệm
chung về hiệu quả, đó là sự so sánh giữa lợi ích thu về và chi phí bỏ ra để có
được lợi ích đó. Tuy nhiên, điểm khác nhau cơ bản khi xem xét hiệu quả của
những hoạt động khác nhau chính là quan điểm về lợi ích thu về. Đó có thể là
lợi ích trước mắt hoặc lâu dài, lợi ích cho đa số hay thiểu số, lợi ích đo đếm
được hay không đo đếm được.
Trong khi lợi ích do hoạt động kiểm soát mang lại tính định tính nhiều hơn
thì chi phí cho hoạt động kiểm soát mang tính định lượng nhiều hơn. Đó là các
chi phí trả lương; chi phí đào tạo; chi phí cho hạ tầng hoạt động kiểm soát; chi
phí thuê chuyên gia… Vì vậy, chất lượng hoạt động kiểm soát không thể xác
định bằng việc xem xét, so sánh trực tiếp giữa chi phí và lợi ích mà có thể được
đánh giá trên cơ sở mức độ đạt được các mục tiêu: một hệ thống ngân hàng lành
mạnh, hoạt động ổn định, có khả năng phòng ngừa và chống chịu rủi ro; tuân thủ
các luật và quy chế; có đủ các điều kiện cơ bản để thực hiện tốt các chức năng
của một trung gian tài chính, phục vụ cho tăng trưởng kinh tế.
22
Mặc dù chi phí cho hoạt động kiểm soát ngân hàng thực sự cao, song chi
phí phải trả cho sự kiểm soát lỏng lẻo còn cao hơn nhiều và có sự đánh đổi
giữa mức độ đảm bảo an toàn mà hoạt động kiểm soát đem lại với chi phí bỏ
ra cho việc khắc phục khó khăn của ngân hàng. Các nhà quản lý muốn mức
độ tác động của rủi ro lên ngân hàng và hệ thống tài chính càng thấp thì càng
cần phải có hoạt động giám sát và phải chịu tốn kém.
Một hệ thống kiểm soát nội bộ được đánh giá là có chất lượng khi nó
đảm bảo được 2 điều kiện:
- Đạt được các mục tiêu đề ra
- Không lãng phí các nguồn lực
(1) Đạt được các mục tiêu đề ra:

- Bảo vệ tài sản của ngân hàng: Mỗi ngân hàng đều đối mặt với các rủi
ro cố hữu như: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản, rủi ro tác
nghiệp, rủi ro về tính tuân thủ, rủi ro về danh tiếng và rủi ro kinh doanh.
Một hệ thống kiểm soát nội bộ tốt trước hết phải đánh giá được các rủi
ro trong hoạt động của ngân hàng và sắp xếp chúng theo một thứ tự ưu tiên
nhằm hạn chế các vụ việc xấu xảy ra cho ngân hàng.
Ví dụ: Kiểm soát hoạt động tín dụng của ngân hàng: với mục tiêu là giảm
tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ. Kiểm soát viên tốt phải nhận biết rõ các nguyên
nhân dẫn đến tình trạng nợ xấu như: do môi trường (thiên tai, do cạnh tranh,…);
do khách hàng (trình độ đánh giá xu thế phát triển ngành nghề, lĩnh vực mà họ
kinh doanh còn non kém, tiềm lực tài chính chưa cao,…); do bản thân ngân hàng
(trình độ nghiệp vụ và đạo đức cán bộ tín dụng, đánh giá không đúng khách
hàng, đảo nợ hoặc giãn nợ cho khách hàng,…). Hậu quả của rủi ro tín dụng là
dẫn đến rủi ro thanh khoản, giảm thu nhập và giảm uy tín của ngân hàng.
23
Kiểm soát hoạt động tín dụng cần đánh giá lại tỷ lệ nợ xấu của ngân
hàng, đánh giá mức độ chính xác trong việc phân loại nợ theo các tiêu chuẩn
của Ngân hàng Trung ương đã đặt ra. Từ đó, nêu ra được các câu hỏi về thực
trạng hoạt động tín dụng: các cán bộ tại các phòng ban thực hiện cho vay đã
thực hiện đúng quy trình cho vay chưa? Có đầy đủ các hồ sơ cần thiết trước
khi tiến hành giải ngân như: Báo cáo đề xuất cấp tín dụng, báo cáo rà soát rủi
ro, tập hợp các báo cáo tài chính, báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh, tài
sản đảm bảo cho khoản vay…của khách hàng. Các khoản cấp tín dụng cho
khách hàng đã đúng với quyền hạn, trách nhiệm của cấp Phòng, cấp chi nhánh
theo phân cấp, ủy quyền đã được Tổng Giám đốc phê duyệt hay chưa? Lĩnh
vực cho vay có phù hợp với tình hình của nền kinh tế và chính sách tín dụng
của ngân hàng hay không? Tình hình kiểm tra sau cho vay có được thực hiện
nghiêm túc? ….Kiểm soát nội bộ sẽ thực hiện kiểm tra, kết luận nguyên nhân
của tình trạng nợ xấu hay rủi ro tín dụng là do: Danh mục khách hàng của chi
nhánh có qua tập trung vào một lĩnh vực kinh doanh hay không, có hiện tượng

đảo nợ hay giãn nợ,…Sau đó tiến hành đề xuất hướng xử lý đối với các
trường hợp cụ thể cũng như đề xuất hoàn thiện quy trình nghiệp vụ cho vay.
Ngoài ra kiểm soát nội bộ còn kiểm soát hoạt động huy động vốn, kế
toán, ngân quỹ, đầu tư, mua sắm và thanh lý tài sản.
-Bảo vệ sổ sách kế toán: Kiểm soát nội bộ phải thực hiện đánh giá hoạt
động kế toán của ngân hàng có được phản ánh đầy đủ, chính xác và kịp thời
hay không. Công tác chi tiêu tài chính và mua sắm, thanh lý tài sản cố định có
thực hiện đúng quy định hay không. Bảng cân đối kế toán, báo cáo tài chính,
báo cáo doanh số thu chi…của ngân hàng có được khớp đúng với các nghiệp
vụ phát sinh theo dõi trên sổ phụ của từng loại tài khoản hay không, có phản
ánh được mức độ tin cậy và hợp lý của các chỉ tiêu trọng yếu hay không.
24
- Hệ thống kiểm soát nội bộ có chất lượng phải phân định được mối quan
hệ giữa kiểm soát nội bộ và người quản lý rủi ro. Công việc của người quản lý
rủi ro là xác định, đo lường, sắp xếp ưu tiên và quản lý rủi ro, đây là một phần
trong quản trị doanh nghiệp. Kiểm soát nội bộ đóng vai trò chính trong hoạt
động của các hệ thống quản lý rủi ro của ngân hàng bằng cách: cung cấp phản
hồi chính xác, khách quan và kịp thời cho nhóm quản trị ngân hàng.
(2) Không lãng phí các nguồn lực:
-Về con người: Hệ thống kiểm soát nội bộ có chất lượng cần tập hợp
được các kiểm soát viên am hiểu quy trình nghiệp vụ, nắm vững quy chế, chế
độ của ngành ngân hàng nói chung cũng như của bản thân mỗi ngân hàng
thương mại để có các bước kiểm soát phù hợp và không làm ảnh hưởng nhiều
tới công việc của các nhân viên khác. Số lượng kiểm soát viên rõ ràng là phải
phụ thuộc vào quy mô của ngân hàng, tuy nhiên theo chuyên gia Gunter
Hofmann tham gia trong chương trình hợp tác của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam và tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức thì số lượng hợp lý là 01 kiểm soát viên
cho 80 nhân viên.
- Về thời gian: Hoạt động kiểm soát nội bộ có chất lượng cũng đảm bảo
thời gian kiểm soát cho một lĩnh vực nghiệp vụ của ngân hàng không quá dài

hay không quá ngắn. Bởi vì: Nếu thời gian quá dài sẽ gây ảnh hưởng đối với
công việc của các đối tượng được kiểm tra, không đảm bảo tính kịp thời. Nếu
thời gian quá ngắn thì các nội dung kiểm soát sẽ không đảm bảo, và thường
đẩy chi phí về các thủ tục hành chính lên cao.
- Về chi phí: Chi phí cho hoạt động kiểm soát nội bộ có thể được định
lượng rõ ràng như: Chi lương nhân viên, chi phí thuê chuyên gia,…Tuy nhiên
có thể giảm chi phí đào tạo bằng biện pháp đào tạo tại chỗ, kết hợp với các
phòng ban chức năng khác để tự đào tạo nhân viên kiểm soát.
25

×