Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Lý luận của chủ nghĩa mác lênin về hình thái kinh tế xã hội công sản chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.01 KB, 32 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
KHOA THƯƠNG MẠI DU LỊCH


BÀI TIỂU LUẬN
MÔN : Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-LêNin
Đề Tài : Lý luận của chủ nghĩa Mác-
LêNin về hình thái kinh tế xã hội công
sản chủ nghĩa
GVHD: Mai Thị Hồng Hà
Nhóm Thực Hiện: Lớp:


Stt Họ Và Tên MSSV LỚP Đánh
giá
1
2
3
4
5
6
7
8
9
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU…………………………………………………… 6
NỘI DUNG
Chương I: Lý luận hình thái kinh tế – xã hội và vai trò phương


pháp luận của lý luận này
I. Những tiền đề xuất phát để xây dựng hình thái kinh tế–xã hội 7
II. Cấu trúc xã hội, phạm trù hình thức kinh tế-xã hội 7
III. Phép biện chứng trong sự vận động, phát triển của các hình thái kinh
tế xã hội………………………………………………………… ………8
IV. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng…… 12
V. Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế xã hội và ý nghĩa
của học thuyết…………………………………………………………… 14
VI. Sự phát triển của hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên………………………………………………………………………14
Chương II: HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ
NGHĨA.
I. Xu thế tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ
nghĩa……………………………………………………………………….15
II. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ
nghĩa……………………………………………………………………….17
Page 3
Chương III: VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Tính tất yếu của con đường định hướng XHCN 26
II. Quá độ lên CNXH ở nước ta bỏ qua chế độ TBCN 27
III. Khả năng về quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt
Nam……………………………………………………………………….27
IV. Kết hợp giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan hệ sản
xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam…………………………28
V. Công nghiệp hóa,Hiện đai hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá
độ tiến lên CNXH ở Việt Nam…………………………………………… 29
VI. Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã
hội………………………………………………………………………… 30
VII. Thực tiễn về Cách Mạng Việt Nam…………………………….30

KẾT LUẬN…………………………………………………………31
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…… 32
Page 4
LỜI NÓI ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Lý luận, hình thái kinh tế - xã hội là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử do C. Mác
xây dựng lên. Nó có vị trí quan trọng trong triết học Mác. Lý luận đó đã được thừa nhận Lý luận
khoa học và là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực xã hội. Nhờ có lý luận hình
thái kinh tế - xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên
trong, nội tại của sự phát triển xã hội, chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Lý luận đó giúp
chúng ta nghiên cứu một cách đứng đắn và khoa học sự vận hành của xã hội trong giai đoạn phát
triển nhất định cũng như tiến trình vận động lịch sử nói chung của xã hội loài người. Song ngày nay,
đứng trước sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, lý luận đó đang được phê phán từ
nhiều phía. Sự phê phán đó không phải từ phía kẻ thù của chủ nghĩa Mác mà còn cả một số người
đã từng đi theo chủ nghĩa Mác. Họ cho rằng lý luận, hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác đã
lỗi thời trong thời đại ngày nay. Phải thay thế nó bằng một lý luận khác, chẳng hạn như lý luận về
các nền văn minh. Chính vì vậy làm rõ thực chất lý luận hình thái kinh tế - xã hội, giá trị khoa học
và tính thời đại của nó đang là một đòi hỏi cấp thiết. Về thực tiễn, Việt Nam đang tiến hành công
cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đó đang đặt ra hàng loạt vấn
đề đòi hỏi các nhà khoa học trên các lĩnh vực khác nhau phải tập chung nghiên cứu giải quyết. Trên
cơ sở làm rõ giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội, việc vận dụng lý luận đó vào điều
kiện Việt Nam; vạch ra những mối liên hệ hợp quy luật và đề ra các giải pháp nhằm đảm bảo thực
hiện thắng lợi công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam thành một nước giàu, mạnh, xã hội công
bằng văn minh cũng là một nhiệm vụ thực tiễn đang đặt ra.
II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
a. Mục đích: Góp phần tìm hiểu giá trị khoa học của lý luận, hình thái kinh tế - xã hội và việc
vận dụng nó vào điều kiện nước ta hiện nay.
b. Nhiệm vụ: nêu rõ thực chất của lý luận hình thái kinh tế - xã hội và chứng minh lý luận đó
vẫn giữ nguyên giá trị. Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh tính tất yếu lựa
chọn con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Page 5
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ
PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA LÝ LUẬN NÀY
I. Những tiền đề xuất phát để xây dựng lý luận hình thái kinh tế - xã hội
- C.Mác đã xem xã hội là một thể thống nhất của những nhân tố vật chất và nhân tố ý thức tạo
thành một hệ thống tự phát triển. Theo Mác xã hội dưới bất cứ hình thức nào cũng là sản phẩm của
sự tác động lẫn nhau giữa người với người.
- Quan điểm duy vật về xã hội đã lấy tồn tại xã hội để giải thích những hiện tượng về ý thức xã
hội.
- Quan niệm duy vật về xã hội đã xem xét xã hội là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên, vận
động và phát triển theo những quy luật kết quả. Tính đặc thù của xã hội là có sự tham gia của con
người có ý thức. Do đó, hoạt động của con người không chỉ tuân theo quy luật tự nhiên mà còn tuân
theo quy luật bản thân.
- Quan niệm duy vật về xã hội đã xác định chủ thể của tiến trình lịch sử là quần chúng nhân dân.
Vì vậy, muốn xác định một lực lượng cụ thể nào đó trong xã hội là người quyết định lịch sử, phải
xuất phát từ một luận điểm duy vật cho rằng “sản xuất vật chất là cái quyết định sự tồn tại phát triển
của xã hội. Lực luợng đó là quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung
lợi ích căn bản bao gồm những thành phần, tầng lớp liên kế với nhau thành một tập thể dưói sự lãnh
đạo của một cá nhân hay một tổ chức nào đó để thực hiện những vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội
trong mỗi giai đoạn lịch sử.
II. Cấu trúc xã hội, phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Quan điểm duy vật của chủ nghĩa Mác xem xã hội với tư cách là một hệ thống gồm 4 lĩnh vực
sau:
- Lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội tức là quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế giữ vai trò là quan
hệ ban đầu, quan hệ cơ bản quyết định các qhệ khác.
- Lĩnh vực xã hội tức là quan hệ gia đình, tầng lớp xã hội, giai cấp, dân tộc, trong đó quan hệ giai
cấp là quan trọng nhất, đóng vai trò chi phối các quan hệ khác trong xã hội.
- Lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội tức là các tổ chức, các thiết chế quyền lực, hệ thống pháp
luật và tư tưởng chính trị.

Page 6
- Lĩnh vực tinh thần của đời sống chính trị: đóng góp khoa học của Mác và Ăngghen là xác định
đúng vị trí, vai trò của các yếu tố và chỉ ra chiều tác động qua lại giữa chúng; những mối liên hệ bản
chất tất yếu giữa chúng và do đó làm cho cả hệ thống xã hội vận động, biến đổi.
Mỗi lĩnh vực trong đời sống xã hội đều bị chi phối bởi những yếu tố khác nhau và được chủ
nghĩa duy vật lịch sử triển khai, phân tích bằng hệ thống những quy luật, những phạm trù sau:
+ Lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội có các phạm trù như phương thức sản xuất, lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Mối quan hệ giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị được khái quát trong các
phạm trù như cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng và nhất là quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến
trúc thượng tầng và sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.
+ Lĩnh vực xã hội có các phạm trù như giai cấp, đấu tranh giai cấp, kết cấu giai cấp và sự phân
chia giai cấp do địa vị các tập đoàn người trong hệ thống sản xuất xã hội quy định, đến lượt nó thì
giai cấp giữ vị trí thống trị trong hệ thống sản xuất lại quy định chính trị. Còn đấu tranh giai cấp
trong xã hội có giai cấp đối kháng là một trong những động lực phát triển của xã hội.
+ Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội được nghiên cứu trong mối qhệ giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội, tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, các cấp độ, các hình thái của ý thức - xã hội và
vai trò ngày càng to lớn của ý thức xã hội trong quá trình phát triển xã hội.
Vậy hình thái kinh tế- xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã
hội trong từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định với những quan hệ sản xuất của nó thích ứng
với lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng
dựa trên những quan hệ đó.
III. Phép biện chứng trong sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế
- xã hội
Lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử của sự vận động, phát triển, thay thế lẫn nhau giữa các hình
thái kinh tế - xã hội. Nguyên nhân của quá trình này là do sự tác động biện chứng giữa các bộ phận,
yếu tố cấu thành hình thái kinh tế - xã hội: giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, giữa cơ sở
hạ tầng với kiến trúc thượng tầng.
1) Phương thức sản xuất : Là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.

– Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định.
– Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội: kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Page 7
– Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của
xã hội loài người từ thấp tới cao .
Trong sản xuất, con người có quan hệ : Một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, tức là lực
lượng sản xuất; mặt khác là quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ sản xuất. Phương thức sản
xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định với quan hệ sản xuất
tương ứng.

Sơ đồ: Phương thức sản xuất
2) Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện quan hệ giữa người với giới tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình sản
xuất, con người phải chinh phục giới tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực của mình.
Lực lượng sản xuất bao gồm :
- Tư liệu sản xuất bao gồm :
+ Đối tượng lao động: một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất.
+ Tư liệu lao động: Công cụ lao động + kho hàng bến bãi , giao thông vận tải .
Trong tư liệu lao động, công cụ lao động không ngừng được cải tiến, cho nên nó là yếu tố động
nhất, cách mạng nhất.
Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản
xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội.
- Con người: Tuy nhiên, tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao
động, khi chúng được kết hợp với lao động sống, đó chính là con người, với kỹ năng kỹ xảo, với trí
tuệ và kinh nghiệm của mình. Hàm lượng trí tuệ trong điều kiện của khoa học công nghệ hiện nay,
Page 8
đã làm cho con người trở thành nguồn lực đặc biệt của sản xuất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô
tận.
3) Quan hệ sản xuất

Mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất được gọi là quan hệ sản xuất. Thể hiện
ba mặt sau đây:
- Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hữu về tư liệu sản xuất.
- Quan hệ giữa người với người đối với việc tổ chức quản lý.
- Quan hệ giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm.
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ thứ nhất có ý nghĩa quyết định đối
với tất cả những quan hệ khác . Bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào
vấn đề những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào .
Có hai hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội .
Các hệ thống quan hệ sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử đều tồn tại trong một phương thức sản xuất
nhất định. Hệ thống quan hệ sản xuất thống trị của mỗi hình thái kinh tế-xã hội quyết định tính chất,
bộ mặt hình thái kinh tế – xã hội ấy. Vì vậy, khi nghiên cứu, xem xét tính chất của một hình thái
kinh tế - xã hội nào thì không thể chỉ nhìn ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà còn phải
xét đến tính chất của các quan hệ sản xuất.
4) Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, có mối quan hệ biện
chứng lẫn nhau hình thành nên quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất. Quy luật này vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản
xuất vào sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất tác động trở lại đối
với lực lượng sản xuất.
Khuynh hướng chung của sản xuất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt
nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của công cụ lao động, của kỹ thuật , trình độ
kinh nghiệm , kỹ năng của người lao động , quy mô sản xuất, trình độ phân công lao động Trình
độ của lực lượng sản xuất gắn với tính chất của lực lượng sản xuất
Tính chất của lực lượng sản xuất : Khi sản xuất còn trình độ thấp kém thì lực lượng sản xuất có
tính chất cá nhân – Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí hiện đại, phân công lao động xã hội phát
triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa.
Page 9
Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người luôn

luôn tìm cách cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động mới, tinh
xảo hơn, đồng thời kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kỷ năng sản xuất, kiến thức khoa học
của con người cũng tiến bộ theo.
Như vậy, sự thay đổi của xã hội bao giờ cũng bắt đầu bằng sự thay đổi lực lượng sản xuất. Cùng
với sự phát triển của lực lượng sản xuất , quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất . Sự phù hợp đó là động lực làm cho lực lượng sản
xuất phát triển mạnh mẽ .
5) Thế nào là phù hợp
+ Quan hệ sản xuất phải tạo được điều kiện sử dụng và kết hợp tối ưu giữa tư liệu sản xuất và
người lao động .
+ Mở ra điều kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất , tinh thần đối với người lao động .
Nhưng lực lượng sản xuất luôn luôn phát triển còn quan hệ sản xuất có xu hướng tương đối ổn định
. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới, quan hệ sản xuất không còn phù hợp với
nó nữa , trở thành chướng ngại đối với sự phát triển của nó, sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai
mặt của phương thức sản xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu dẫn đến việc xóa bỏ quan hệ sản
xuất cũ, thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ mới của lực
lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển .
Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ , thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là sự diệt
vong của một phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của phương thức sản xuất mới. Trong xã
hội có giai cấp đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời là cơ
sở khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời cũng là tiền đề tất yếu của các cuộc cách
mạng xã hội .
Đây là quy luật cơ bản phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại “Quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.”
– Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất lại trở thành động lực cơ bản
thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển .
– Quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Song, tác dụng kìm hãm đó cũng chỉ có tính chất tạm thời, theo tính tất yếu
khách quan, cuối cùng quan hệ cũng sẽ phải thay đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất.

Sở dĩ quan hệ sản xuất có tác động trở lại mạnh mẽ với lực lượng sản xuất là vì nó qui định :
- Mục đích của sản xuất.
Page 10
- Hệ thống quản lý của sản xuất và quản lý xã hội.
- Phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng .
Từ đó, nó sẽ tạo ra những điều kiện để kích thích việc cải tiến lao động và kỹ thuật sản xuất ,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển .
Thực tiễn đã cho chúng ta thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có một quan hệ
sản xuất hợp lý, đồng bộ, phù hợp với nó. Quan hệ sản xuất lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách
giả tạo cũng sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất của sự phát triển xã
hội. Sự tác động của quy luật này đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất công
xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và phương thức sản xuất cộng sản
tương lai. Tuy nhiên không phải bất cứ nước nào cũng nhất thiết phải tuần tự trải qua tất cả các
phương thức sản xuất … một số nước có thể bỏ qua hoặc một số phương thức sản xuất để tiến lên
phương thức sản xuất mới cao hơn.
IV. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Xã hội – dưới bất kỳ hình thái nào đều là sản phẩm của quan hệ giữa người với người, rất đa
dạng phong phú, vận động, biến đổi không ngừng. Công lao to lớn của Mác và Ăngghen là từ
những quan hệ xã hội hết sức phức tạp đã phân biệt những quan hệ vật chất của xã hội với những
quan hệ tinh thần – tư tưởng của xã hội, nêu bật được cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định kiến trúc
thượng tầng .
1) Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh
tế-xã hội nhất định .
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm những quan hệ sản xuất thống trị, những quan hệ
sản xuất là tàn dư của xã hội trước và những quan hệ sản xuất là mầm mốmg của xã hội sau. Nhưng
đặc trưng cho tính chất của một cơ sở hạ tầng là do quan hệ sản xuất thống trị quyết định .
2) Kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội ( chính trị, pháp quyền, triết

học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật ) và những thiết chế tương ứng (nhà nước gồm ( bộ máy bạo lực,
quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù ) cùng các đảng phái, các đoàn thể xã hội ) và những quan hệ nội
tại của chúng được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định .
Page 11
Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều có liên hệ với cơ sở hạ tầng của nó nhưng không
như nhau . Các tổ chức chính trị, pháp luật có liên hệ trực tiếp, còn các yếu tố khác như triết học,
nghệ thuật, tôn giáo, thì ở xa cơ sở hạ tầng và chỉ liên hệ gián tiếp với nó.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, cơ sở hạ tầng tồn tại những quan hệ đối kháng thì kiến trúc
thượng tầng cũng mang tính chất đối kháng. Phản ánh tính đối kháng ấy biểu hiện ở sự xung đột về
quan điểm tư tưởng và ở cuộc đấu tranh tư tưởng của các giai cấp đối kháng .
Bộ phận có quyền lực mạnh nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp có đối kháng
giai cấp là Nhà nước - tiêu biểu cho chế độ chính trị hiện tồn về mặt chính trị, pháp lý. Chính nhờ
có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội.
3) Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a) Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ :
- Cơ sở hạ tầng nào thì sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy, nghĩa là giai cấp nào chiếm địa vị thống
trị về mặt kinh tế thì cũng thống trị về mặt tinh thần. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định
tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng .
- Những biến đổi căn bản của cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản trong
kiến trúc thượng tầng .
- Khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng do nó sinh ra cũng mất theo, khi cơ sở hạ
tầng mới ra đời thì kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với nó cũng xuất hiện. Tuy nhiên cũng có
những nhân tố riêng lẻ của kiến trúc thượng tầng còn tồn tại dai dẳng, sau khi cơ sở hạ tầng sinh ra
nó bị tiêu diệt và được giai cấp cầm quyền mới duy trì, kế thừa để xây dựng kiến trúc thượng tầng
mới.
b) Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối vơi cơ sở hạ tầng được thể hiện :
Bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ
và kiến trúc thượng tầng cũ . Trong đó Nhà nước giữ vai trò quan trọng nhất.

Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng đều
tác động mạnh mẽ nhưng thường là phải thông qua nhà nước, pháp luật và các thể chế tương ứng,
chỉ qua đó chúng mới phát huy được hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng cũng như đối với toàn xã hội.
Sự tác động mạnh mẽ của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng là điều không thể nghi ngờ.
Tuy nhiên nếu quá nhấn mạnh đến vai trò tác động ấy đến mức phủ nhận tác động của quá trình
kinh tế khách quan, phủ nhận tính tất yếu của quy luật vận động xã hội sẽ không tránh khỏi sai lầm,
hoặc ngược lại, nếu xem thường cũng gây tác hại.
Page 12

V. Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế –xã hội và Ý nghĩa của
học thuyết
1) Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế –xã hội :Lần đầu tiên trong lịch sử xã
hội học thuyết về hình thái kinh tế – xã hội vạch rõ, nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển
xã hội, tìm ra những nguyên nhân và cơ sở xuất hiện và biến đổi của những hiện tượng xã hội. Bác
bỏ quan điểm duy tâm, siêu hình về lịch sử, coi xã hội là sự kết hợp có tính chất máy móc của
nhiều cá nhân và gia đình, coi sự vận động, phát triển của xã hội là do ý chí của những nhà cầm
quyền chi phối, coi kỹ thuật là cái quyết định tính chất chế độ xã hội , là tiêu chuẩn khách quan
phân biệt các hình thái kinh tế – xã hội .
“… trước hết con người phải ăn, mặc, ở, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh giành
quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động triết học, tôn giáo, nghệ thuật …” Chừng nào cái sự thật
hiển nhiên đó vẫn còn tồn tại thì chừng đó quan niệm duy vật về lịch sử vẫn không thể trở nên lạc
hậu được .
2) Ý nghĩa của học thuyết:
+ Cung cấp cho chúng ta một phương pháp luận khoa học để nghiên cứu sự phát triển xã hội qua
các chế độ khác nhau, hiểu rõ cơ cấu chung của hình thái kinh tế – xã hội và những quy luật phổ
biến tác động chi phối sự vận động và phát triển của xã hội
+ Cung cấp những tiêu chuẩn thực sự duy vật, khoa học cho việc phân kỳ lịch sử, giúp con
người hiểu được logic khách quan của quá trình tiến hóa xã hội. Học thuyết này vạch ra sự thống
nhất của lịch sử trong cái muôn vẻ của các sự kiện ở các nước khác nhau trong các thời kỳ khác
nhau. Chính vì vậy nó đem lại cho khoa học xã hội sợi dây dẫn đường để phát hiện ra những mối

liên hệ nhân quả, để giải thích chứ không chỉ mô tả sự kiện lịch sử. Bất kỳ một hiện tượng xã hội
nào, từ hiện tượng kinh tế đến hiện tượng tinh thần, đều chỉ có thể hiểu đúng khi gắn với một hình
thái kinh tế – xã hội nhất định.
VI. Sự phát triển của hình thái kinh tế -xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên
Mác viết: “Tôi coi sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên
”. Sau này Lê-nin cũng khẳng định quan điểm trên đây của Mac khi viết: “Chỉ có những quan điểm
Page 13
xã hội và những quan hệ sản xuất và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lưc
lượng sản xuất thì người ta mới có được cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những
hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.”
Quá trình lịch sử tự nhiên có nguồn gốc sâu xa ở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Những
lực lượng sản xuất có được bằng tạo ra năng lực thực tiễn của con người song không phải con người
làm theo ý muốn chủ quan mà dựa trên những lực sản xuất đã đạt do thế hệ trước tạo ra. Chính tính
chất trình độ sản xuất đã quy định một cách khách quan hình thức của quan hệ sản xuất quyết định
quá trình vận động và phát triển của hình thái kinh tế xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên.
Trong các quy luật khách quan chi phối sự hoạt động, phát triển của hình thái kinh tế xã hội theo
quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quan trọng nhất, có vai trò quyết định nhất. Một mặt của phương thức sản xuất lực lượng sản
xuất là yếu tố đảm bảo tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của xã hội, quy định phương hướng
sản xuất từ thấp đến cao. Mặt thứ hai của phương thức sản xuất - quan hệ sản xuất biểu hiện tính
gián đoạn trong sản xuất phát triển của lịch sử. Những quan hệ sản xuất lỗi thời được xoá bỏ và thay
thế bằng những kiểu quan hệ sản xuất mới cao hơn và hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn ra đời.
Như vậy, sự xuất hiện, phát triển của hình thái kinh tế xã hội, sự chuyển biến từ hình thái này
sang hình thái khác cao hơn được giải thích trước hết bằng sự tác động của quy luật trên. Đó là
khuynh hướng tự tìm đường cho mình phát triển và thay thế của các hình thái kinh tế xã hội.
CHƯƠNG 2. HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA
I. Xu thế tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Trong tác phẩm của mình đặc biệt là trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Chống
Đuy-Rinh, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn

phát triển mới của nhân loại, ông viết: “ Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy
một thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của các
thế hệ trước kia gộp lại “. Nhưng mặt khác C.Mác và Ph.Ănggen cũng chỉ ra rằng: Trong xã hội đối
kháng giai cấp đó con người càng chinh phục, cải tạo thiên nhiên thì tình trạng người áp bức, bốc lột
người càng được mở rộng. Sự phát triển về kinh tế - xã hội dưới chủ nghĩa tư bản càng gia tăng thì
sự suy đồi về đạo đức, về lối sống con người , sự nghèo khổ của giai cấp công nhân, nguy cơ mất
việc làm của giai cấp công nhân càng lớn.
Page 14
C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích một cách khoa học phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
và chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất ngày càng xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về
tư liệu sản xuất dẫn tới sự kìm hãm lực lượng sản xuất. Nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất
tất yếu đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp
để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế được biểu
hiện trên lĩnh vực chính trị xã hội là mâu thuẫn giai cấp công nhân, nhân dân lao động với giai cấp
tư sản. Sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn tới chuyên chính vô sản và sự xác lập
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo sự ra đời của hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa từ những nước tư bản phát triển nhưng căn cứ vào những điều
kiện thực tế cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã dự báo sự xuất hiện của hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước có trình độ phát triển trung bình và những dân tộc thuộc địa.
Tuy nhiên, theo chủ nghĩa Mác - Lênin để hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa xuất hiện ở
các nước tiền tư bản, phải có những điều kiện nhất định là :
- Thứ nhất, do chính sách xâm lược của chủ nghĩa tư bản đối với các nước thuộc địa trên thế
giới, ở các quốc gia này phải xuất hiện những mâu thuẫn mới: mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và
giai cấp công nhân; mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc xâm lược với các quốc gia dân tộc bị xâm
lược; mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc tư bản với nhau; mâu thuẫn giữa địa chủ và nông
dân, tư sản và nông dân các nước thuộc địa…và đặc biệt là mâu thuẫn chủ yếu giữa một bên chủ
nghĩa đế quốc xâm lược cùng bọn phong kiến tay sai, tư sản phản động một bên là cả dân tộc gồm:
công nhân nông dân, trí thức và những lực lượng yêu nước khác.
- Thứ hai, có sự tác động toàn cầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, hệ tư tưởng

Mác - Lênin, đặc biệt là những luận điểm về chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc bị áp bức…, làm thức
tỉnh nhiều dân tộc, dấy lên phong trào yêu nước, giành độc lập dân tộc, trong đó có Việt Nam. Như
vậy, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa khi ra đời ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển
trung bình và các nước chưa qua chủ nghĩa tư bản không phải là ngẫu nhiên mà dựa vào những điều
kiện lịch sử nhất định.
Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa tư bản biểu hiện trên lĩnh vực
chính trị - xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với giai cấp tư sản ngày
càng trở nên quyết liệt. Qua thực tiễn cuộc đấu tranh đã khiến cho giai cấp công nhân hiểu rằng,
muốn giành thắng lợi phải tiếp thu chủ nghĩa xã hội khoa học hình thành chính đảng của giai cấp
mình. Khi đảng cộng sản ra đời, toàn bộ hoạt động của đảng đều hướng vào lật đổ nhà nước của giai
Page 15
cấp tư sản, xác lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Việc thiết lập nhà nước
này là sự mở đầu của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, một mặt chủ nghĩa Mác-Lênin xem sự ra đời chủ nghĩa Cộng sản là kết quả tất yếu
của sự vận động và phát triển của xã hội loài người, là quá trình “lịch sử tự nhiên”, mặt khác cũng
khẳng định hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là kết quả hoạt động tự giác của giai
cấp công nhân, bằng hành động đấu tranh cách mạng của giai cấp này bởi vì chế độ tư bản chủ
nghĩa không tự nó sụp đổ.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, lực lượng sản
xuất của chủ nghĩa tư bản có tính xã hội hóa cao đã mang tính chất toàn cầu ngày càng mâu thuẩn
với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa. Nhưng sở hữu nhà nước trong chủ nghĩa tư bản, thực
chất chỉ là giai cấp tư sản lợi dụng nhà nước, nhân dân nhà nước để nắm tư liệu sản xuất. Do vậy
mâu thuẩn đối kháng trong kinh tế và trong lĩnh vực xã hội không hề suy giảm. Mâu thuẩn đó chỉ có
thể giải quyết bằng một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, thiết lập hình thái kinh tế - xã hội chủ
nghĩa nhằm mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
“Mác đặt vấn đề chủ nghĩa cộng sản giống như một nhà tự nhiên học đặt, chẳng hạn, vấn đề
tiến hóa của một giống sinh vật mới, một khi đã biết nguồn gốc của nó” nhưng cũng khẳng định
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là kết quả hoạt động tự giác của giai cấp công
nhân, bằng hành động đấu tranh cách mạng của giai cấp này, bởi vì thế chế độ tư bản chủ nghĩa
không tự nó sụp đổ. Ngày nay chủ nghĩa tư bản đã lỗi thời, nhưng giai cấp tư sản vẫn kiên quyết

bảo vệ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng mọi thủ đoạn, mọi phương tiện chúng có trong
tay.
Trong khi nhấn mạnh vai trò tích cực của nhân tố chủ quan trong tiến trình cách mạng xóa bỏ
chế độ tư bản chủ nghĩa, xác lập chế độ mới xã hội chủ nghĩa, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội
khoa học cũng cương quyết đấu tranh chống lại khuynh hướng cách mạng phiêu lưu, không tính đến
trình độ phát triển của hiện thực cách mạng, không xem xét tới trình độ giác ngộ của nhân dân, thiếu
sự chuẩn bị chu đáo.
II. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội CSCN
Dựa trên quan điểm khoa học, cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen
không chỉ phân chia lịch sử phát triển xã hội loài người thành các hình thái kinh tế - xã hội mà còn
chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành các giai đoạn khác nhau. Theo các ông, hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp đến cao, từ giai đoạn xã hội xã hội chủ
nghĩa lên xã hội CSCN.
Page 16
Giai đoạn cao của chủ nghĩa Cộng sản là giai đoạn xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Ở giai đoạn này
con người không còn lệ thuộc một cách phiến diện và cứng nhắc vào phân công lao động xã hội,
đồng thời lao động của thời lao động trong giai đoạn này không chỉ là phương tiện kiếm sống mà nó
trở thành nhu cầu số một của con người như những nhu cầu thiết yếu khác. Khi đó con người thực
hiện nguyên tắc phân phối “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước”, trên cơ sở diễn đạt tư tưởng của
C.Mác, V.I.Lênin đã chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành ba thời kỳ: “Những
cơn đau đẻ kéo dài” (thời kỳ quá độ); Giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa (chủ nghĩa xã
hội); Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa (chủ nghĩa cộng sản).
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa có thể chia thành ba thời kỳ:
1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên lên chủ nghĩa xã hội
Để chuyển từ thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mà chủ nghĩa xã hội
phát triển trên cơ sở vật chất - kỹ thuật của nó, cần trải qua một thời kỳ quá độ nhất định, là thời kỳ
cải biến cách mạng sâu sắc trên toàn bộ các mặt của đời sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất

và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa
xã hội sẽ được thực hiện. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do:
+ Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất, dựa trên chế độ sở hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, dựa trên áp bức, bóc lột và bất công. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên
cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, không còn tình trạng áp bức, bóc lột. Muốn có xã hội như
vậy cần phải có thời kỳ lịch sử nhất định.
+ Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền đại công nghiệp có trình độ cao. Quá trình
phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất kỷ thuật nhất định cho chủ nghĩa xã hội.
Muốn có cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội cần phải có thời gian để tổ chức lại, sắp xếp,
cải tạo nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa thành cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
+ Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh từ chủ nghĩa tư bản,
cần phải có thời gian xây dựng và cải tạo quan hệ xã hội chủ nghĩa.
- Đặc điểm, nội dung tính chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại của xã hội cũ đan xen với
những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau
Page 17
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng…và phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Trên lĩnh vực kinh tế: là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong hệ thống kinh tế quốc
dân thống nhất, vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế có nhiều thành phần (VD:
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế tư bản
nhà nước), được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu (VD: sở hữu
nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu chung, sở hữu tư nhân, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp), về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp với nhau,
nhiều hình thức phân phối thu nhập khác nhau (VD: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn và
tài sản, phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi khác).
+ Trên lĩnh vực chính trị: do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng,
phức tạp nên kết cấu giai cấp xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng, phức tạp. Thời kỳ này bao

gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư
sản. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Trong một giai cấp, tầng lớp
cũng có nhiều bộ phận có trình độ, ý thức khác nhau, do đó ý thức chính trị của các bộ phận cũng có
sự khác nhau.
+ Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa - xã hội: là sự tồn tại nhiều tư tưởng và văn hóa khác nhau.
Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tư tưởng Mác - Lênin giữ vai trò thống trị vẫn tồn tại các tư
tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông…V.I.Lênin cho rằng, tính tự phát tiểu tư sản là kẻ thù
giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn cả bọn phản cách mạng công khai. Trên lĩnh vực văn
hóa cùng tồn tại văn hóa củ và văn hóa mới, và chúng thường xuyên đấu tranh nhau.
Vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội về thực chất là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giữa
giai cấp tư sản đã bị đánh bại, không còn là giai cấp thống trị và các thế lực chống phá chủ nghĩa xã
hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong
điều kiện mới là giai cấp công nhân đã cầm quyền, quản lý tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc
đấu tranh với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa tư
tưởng, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp.
VD: Đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Tồn tại nhiều tư tưởng, văn hóa tinh thần khác nhau, có cả sự đối lập nhau. Các dân tộc đoàn
kết bình đẳng cùng tiến bộ, có quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới.
Tương ứng với kinh tế nhiều thành phần với một cơ cấu phức tạp bao gồm nhiều giai cấp và
tầng lớp xã hội; giữa các giai cấp vừa có sự thống nhất vừa có sự đối kháng nhau về lợi ích cơ bản.
Page 18
- Nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của thời kỳ quá độ lên CNXH
+ Trong lĩnh vực kinh tế: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần phải sắp xếp, bố trí lại
lực lượng sản xuất hiện có của xã hội, cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới
theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân
dân. Quá trình này phải tuân thủ những đòi hỏi khách quan của quy luật kinh tế, nhất là quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Bước phát triển tất yếu là
phải cải tạo quan hệ sản xuất cũ, đồng thời từng bước xây dựng quan hệ sản xuất tư hữu xã hội chủ
nghĩa.
Đối với những nước chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành công nghiệp

hóa xã hội chủ nghĩa để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đó là nhiệm vụ trung
tâm của thời kỳ quá độ. Quá trình này đòi hỏi phải tuân thủ quy luật kinh tế khách quan và tùy thuộc
điều kiện lịch sử, bối cảnh cụ thể của mỗi nước để xác định chiến lược, bước đi và nội dung thích
hợp.
+ Trong lĩnh vực chính trị: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội; xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh,
đảm bảo quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế - văn hóa - xã hội của nhân dân lao động; xây dựng
các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây
dựng Đảng Cộng sản trong sạch, vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ lịch sử.
VD: Cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch ở nước ta chủ yếu là tội phạm xã hội như
buôn bán hàng hóa cấm, tham ô,…và hiện nay với tinh thần thanh niên chúng ta đều chung tay góp
sức hướng về Trường Sa, Hoàng Sa thân yêu…
+ Trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa xã hội: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa xã
hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thực hiện tuyên truyền phổ biến những tư tưởng khoa
học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong toàn xã hội: khắc phục những tư tưởng và tâm
lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng CNXH; xây dựng nền văn hóa mới XHCN đậm
đà bản sắc dân tộc, tiếp thu những giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên thế giới.
VD: Những lễ hội quái dị ở Việt Nam ( Đâm trâu, chém lợn) dân tộc Tây Nguyên, họ sống
bằng nương rẫy, không phải cư dân lúa nước. Lễ “Ăn trâu” vì thế gắn với phong tục tập quán, tôn
giáo tín ngưỡng của người Tây Nguyên. Với họ, con trâu không phải là đầu cơ nghiệp như quan
niệm của cư dân nền văn minh lúa nước. Con trâu nuôi chủ yếu để ăn thịt, phục vụ cuộc sống và là
vật tế lễ thần linh, trời đất. Xét về bản chất, đây là những lễ hội tốt, cần phát huy. Tuy nhiên tính
hoang dã, hoang sơ cũng cần phải hạn chế. Phần hành lễ không nên để mọi người cùng chứng kiến
Page 19
những cảnh hoang dã. Nên thực hiện phần nghi lễ trong không gian hạn hẹp, giới hạn đối tượng
xem, không nên phơi bày những nghi lễ mang tính sơ khai nguyên thủy. Người thưởng thức cũng
không nên lấy cái nhìn thời văn minh đánh giá phán xét thời mông muội.
+ Trong lĩnh vực xã hội: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là khắc phục tệ nạn do xã hội cũ để lại; từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển

giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội;
xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người.
Tóm lại, Thời kỳ quá độ lên CNXH là một thời kỳ lịch sử tất yếu trên con đường phát triển của
hình thái kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Đó là thời kỳ lịch sử có điểm riêng với nội dung kinh
tế, chính trị, văn hóa và xã hội đặc thù mà giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đường phát
triển kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể được trên cơ sở hoàn thành các nội dung đó.
2. Chủ nghĩa xã hội
Là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản có các đặc trưng sau:
- Thứ nhất, cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội XHCN là nền đại công nghiệp.
Mỗi chế độ xã hội đều có cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng của nó, phản ánh trình độ phát
triển kinh tế - kỹ thuật của chế độ đó. Nếu công cụ thủ công là đặc trưng cho cơ sở vật chất kỹ thuật
của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa thì nền đại công nghiệp cơ khí đặc trưng cho cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội với tư cách là xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản, cao
hơn chủ nghĩa tư bản thì cơ sở vật chất kỹ thuật của nó phải là nền sản xuất đại công nghiệp có trình
độ cao hơn so với trình độ của xã hội tư bản chủ nghĩa. Đối với các nước tư bản chủ nghĩa đi lên
chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển cao là điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội tất yếu phải thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Cả mặt thực tế, cả lôgíc - lý luận khoa học đều chứng minh rằng, xã hội xã hội chủ nghĩa là sự
kế tiếp sau xã hội tư bản chủ nghĩa, có nhiệm vụ giải quyết những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản
đã không thể giải quyết triệt để. Đặc biệt là giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu xã hội hoá ngày càng
tăng của lực lượng sản xuất ngày càng hiện đại hơn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất. Do đó, lực lượng sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa khi nó hoàn thiện phải
cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, các nước tư bản phát triển đã có lực lượng sản xuất
cao (VD: Mỹ, Nhật, Pháp, Đức, ) thì lên xã hội xã hội chủ nghĩa giai cấp vô sản ở đó chủ yếu chỉ
phải trải qua một cuộc cách mạng chính trị thành công. Khi đó chính trình độ lực lượng sản xuất đã
Page 20
phát triển cao là một cơ sở rất thuận lợi cho việc tiếp tục xây dựng thắng lợi, hoàn thiện chủ nghĩa
xã hội - cả quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất cao hơn chủ nghĩa tư bản.

Ở những nước xã hội chủ nghĩa "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" (như Việt Nam và các nước
khác) thì đương nhiên phải có quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng từng
bước cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại của chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, Trung Quốc, Việt Nam,
Cuba đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc độ khá cao, đạt được nhiều
thành tựu to lớn và ngày càng vững chắc hơn.
- Thứ hai, xã hội xã hội chủ nghĩa xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ
công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội không xoá bỏ chế độ
tư hữu nói chung mà chủ yếu xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất (còn các chế
độ tư hữu khác: chế độ tư hữu chủ nô, phong kiến, xét trên toàn cầu thì đã bị chủ nghĩa tư bản xoá
bỏ trước đó rồi). Bởi vì chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa đã nô dịch, áp bức bóc lột giá trị thặng dư
đối với đại đa số nhân dân lao động, đem lại lợi nhuận ngày càng cao cho thiểu số các tập đoàn tư
bản lũng đoạn và giai cấp thống trị xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu xã hội còn đan xen nhiều giai cấp, tầng lớp
xã hội; cơ sở kinh tế quá độ còn nhiều thành phần vận hành theo cơ chế sản xuất hàng hoá, quan hệ
thị trường, vẫn tồn tại những quan hệ kinh tế cụ thể như thuê mướn lao động cá nhân người này
vẫn có thể còn bóc lột những cá nhân khác. Đó chỉ là những quan hệ bóc lột cụ thể chứ không phải
xem xét trên cả một chế độ xã hội, giai cấp này bóc lột các giai cấp, tầng lớp khác. V.I. Lênin và
Đảng Cộng sản Nga, sau một thời gian áp dụng "Chính sách cộng sản thời chiến" (trưng thu lương
thực do yêu cầu phục vụ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc) đã bãi bỏ chính sách này khi bước vào thời
kỳ quá độ, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ thực hiện "Chính sách kinh tế mới" (NEP) với
kinh tế hàng hoá 5 thành phần và tự do lưu thông hàng hoá trên thị trường nhiều loại sản phẩm. Đó
là một đặc trưng kinh tế của thời kỳ quá độ và cả của chủ nghĩa xã hội. Việc xoá bỏ một cách nóng
vội những đặc điểm trên, sa vào bệnh chủ quan duy ý chí trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ XX của các
nước xã hội chủ nghĩa là trái với quan điểm của V.I. Lênin về nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội tạo ra được cách tổ chức lao động và
kỷ luật lao động mới.
Quá trình xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội là một quá trình hoạt động tự giác của đại đa số
nhân dân, vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính từ bản chất và mục đích đó mà các nhà kinh điển
Mác - Lênin đã đưa ra những kết luận khoa học cho đến nay vẫn còn giá trị: chủ nghĩa xã hội sẽ là

một kiểu tổ chức lao động mới của bản thân nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo, hướng dẫn của
Page 21
Đảng Cộng sản, đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, kỷ luật
lao động mới cũng có những đặc trưng mới, vừa là kỷ luật chặt chẽ theo những quy định chung của
luật pháp, pháp chế xã hội chủ nghĩa, vừa có tính tự giác - kỷ luật tự giác (tức là mỗi người lao động
giác ngộ về vai trò làm chủ đích thực của mình trước xã hội, trước mọi công việc được phân công
ngày càng tốt hơn). Đương nhiên, để mọi người lao động có được tổ chức và kỷ luật lao động mới
tự giác như thế, phải trải qua quá trình đấu tranh, từng bước hoàn thiện chủ nghĩa xã hội.
- Thứ tư, Xã hội xã hội chủ nghĩa thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động - nguyên tắc
phân phối cơ bản nhất.
Trong quá trình lao động cụ thể, mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một số lượng sản
phẩm tiêu dùng có giá trị tương đương số lượng, chất lượng và hiệu quả lao động của họ đã tạo ra
cho xã hội, sau khi đã trừ đi một số khoản đóng góp chung cho xã hội. Bằng thu thuế, những đóng
góp khác của xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa xây dựng trường học, bệnh viện, công viên, đường
giao thông, Nguyên tắc phân phối này là phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản
xuất trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những cơ sở của công bằng xã hội
ở giai đoạn này.
- Thứ năm, nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi
và tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân
Khi đề cập đến hệ thống chuyên chính vô sản, chủ nghĩa Mác - Lênin đã xác định rõ bản chất,
chức năng, nhiệm vụ của nhà nước chuyên chính vô sản. Thực chất nhà nước đó là do đảng của giai
cấp công nhân lãnh đạo, nhân dân tổ chức ra. Thông qua nhà nước là chủ yếu mà đảng lãnh đạo
toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt
của xã hội. Nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc nhà nước, theo V.I. Lênin, nhà nước
chuyên chính vô sản (hay nhà nước xã hội chủ nghĩa) không còn nguyên nghĩa như nhà nước của chủ
nghĩa tư bản, mà là "nhà nước nửa nhà nước", với tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện
các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn.
- Thứ sáu, xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ đã giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc
lột, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con người
phát triển toàn diện.

Việc giành chính quyền, độc lập, tự do, dân chủ - giải phóng con người về chính trị suy cho
cùng cũng là để giải phóng con người về kinh tế, về đời sống vật chất và tinh thần. Dù lúc đầu mới
có chính quyền, trình độ kinh tế, mức sống vật chất của nhân dân còn thấp, nhưng đã bước vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội là đã không còn chế độ tư hữu, áp bức bất công với tư cách một chế độ xã
hội. Đây là những tiền đề chính trị, kinh tế khác về bản chất so với các chế độ cũ để từng bước thực
Page 22
hiện việc giải phóng con người và phát triển con người toàn diện. Không có những tiền đề cơ bản đó
không thể giải phóng con người, không thực hiện được công bằng, bình đẳng, tiến bộ và văn minh
xã hội Nói bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội, là nói trong điều kiện, giai đoạn xã hội vẫn còn giai
cấp, còn nhà nước, trước hết bình đẳng giữa các công dân, giữa các chủ thể sản xuất - kinh doanh (dù
họ ở thành phần kinh tế nào ) trước pháp luật chung của nhà nước; bình đẳng nam, nữ, bình đẳng giữa
các dân tộc và đoàn kết toàn dân tộc, v.v
Cùng với việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, phát
triển lực lượng sản xuất, chủ nghĩa xã hội thực hiện xóa bỏ đối kháng giai cấp, thực hiện công bằng,
bình đẳng xã hội. Đây là một quá trình lâu dài và được thực hiện từng bước trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng…Tuy nhiên, trong giai đoạn xã hội
XHCN, sự bình đẳng được xác lập trong điều kiện xã hội vẫn còn giai cấp, còn nhà nước do đó,
chưa thể có “bình đẳng thực sự”.
Những đặc trưng trên đây là những nét chung nhất của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, là tiêu
chí phân biệt xã hội chủ nghĩa với chế độ xã hội khác. Đồng thời, những đặc trưng ấy còn là mục
tiêu phấn đấu của tất cả các quốc gia dân tộc đi theo con đừng xã hội chủ nghĩa theo quan điểm Mác
- Lênin hiện nay. Tuy nhiên, tùy điều kiện lịch sử, đặc điểm, mức độ trình độ của mổi quốc gia có
những đặc trưng khác nhau.
3. Giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác dự báo về sự xuất
hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa:
+ Về mặt kinh tế: Lực lượng sản xuất phát triển vô cùng mạnh mẽ, của cải xã hội tuôn ra dào
dạt, ý thức con người được nâng lên, khoa học phát triển, lao động của con người được giảm nhẹ,
thực hiện phân phối theo nhu cầu. Trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gôta” C.Mác đã viết:
“Khi nào lao động trở thành không những là một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là

một nhu cầu bậc nhất của đời sống, khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, sức
sản xuất của họ ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào - chỉ khi
đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có
thể ghi lên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
+ Về mặt xã hội: Trình độ xã hội phát triển ngày càng cao, con người có điều kiện phát triển
năng lực của mình, tri thức con người được nâng cao, không còn sự khác biệt giữa thành thị và nông
thôn, giai cấp và nhà nước sẽ tiêu vong. Chỉ lúc đó, một nền dân chủ thực sự hoàn bị, thực sự không
hạn chế mới có thể có và được thực hiện. Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin đã tiếp tục đưa ra những luận giải về mô hình xã hội trong tương lai. Ông cho rằng, khi xã
Page 23
hội đạt được trình độ phát triển cao như vậy, thì dân chủ mới thực hiện đầy đủ, dân chủ cho mọi
người, không còn đối tượng bị hạn chế dân chủ, do vậy dân chủ cũng không còn, nhà nước luật
pháp tự tiêu vong, pháp luật trở thành phong tục, tập quán, thành quan niệm đạo đức mọi người tự
giác thực hiện. Tới giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, con người được
giải phóng hoàn toàn, chuyển từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do, có điều kiện
phát triển toàn diện năng lực và mang hết tài năng, trí tuệ cống hiến cho xã hội V.I.Lênin cho
rằng, không phải nhà nước tiêu vong ngay một lúc, mà là một quá trình: “Chúng ta chỉ có quyền nói
rằng, nhà nước tất nhiên sẽ tiêu vong đồng thời nhấn mạnh vào tính chất lâu dài của quá trình ấy,
sự phụ thuộc của quá trình ấy vào tốc độ phát triển của giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản”.
Qua phân tích của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội
Cộng sản chủ nghĩa, đã cho chúng ta những bài học đúng đắn sau đây:
Một là, C.Mác. Ph.Ăngghen và V.I.Lênin dự báo về giai đoạn cao của hình thái kinh tế - cộng
sản chủ nghĩa khi có những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự xuất hiện của giai đoạn này.
Hai là, sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là một quá
trình lâu dài, bằng việc không ngừng phát triển lực lượng sản xuất, cơ cấu lại tổ chức xã hội về mọi
mặt, giáo dục tinh thần tự giác của con người
Ba là, quá trình xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ở các
nước khác nhau diễn ra với những quá trình khác nhau, tuỳ thuộc vào sự nỗ lực phấn đấu về mọi
phương diện. Khi chưa xuất hiện giai đoạn cao thì “trong một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng
sản, không những vẫn còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư sản nhưng không có

giai cấp tư sản”. Khi chưa đạt đến giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa,
trong điều kiện vẫn còn chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc trên thế giới thì những vấn đề lý luận
của chủ nghĩa Mác về nhà nước, về dân chủ vẫn còn nguyên giá trị.
CHƯƠNG III: VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Tính tất yếu của con đường định hướng XHCN
Page 24
Nước ta là nước lạc hậu về kinh tế lại bị đế quốc thực dân thống trị một thời gian dài cơ sở
vật chất kỹ thuật còn nghèo và lạc hậu. Đảng ta khẳng định sau khi Việt Nam tiến hành công cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa , xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước tiến từ bản chủ nghĩa bỏ qua
chủ nghĩa tư bản sự lựa chọn trên 2 căn cứ sau đây.
- Một là, chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động thoát khỏi áp bức, bóc lột bất
công đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
- Hai là, thắng lợi của cuộc cách mạng thắng lợi Nga năm 1971 đã mở ra một thời đại mới, tạo
khả năng thực hiện cho các dân tộc lạc hậu tiến lên con đường CNXH.
- Sự lựa chọn ấy không mâu thuẫn với quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của XHCN, không
mâu thuẫn với hình thái kinh tế xã hội củ chủ nghĩa Mác Lê-nin. Trong điều kiện cụ thể sự lựa chọn
ấy chính là sự lựa chọn con đường rút ngắn bỏ qua chế độ TBCN. Con đường CNXH cho phép
chúng ta có thể phát triển nhanh lực lượng sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, giải quyết có
hiệu quả các vấn đề xã hội phát triển xã hội theo chiều hướng tiến bộ vừa có thể tránh cho xã hội và
nhân dân lao động phải trả giá cho các vấn đề của xã hội tư bản mà trước hết là chế độ người bóc lột
người, là quan hệ bất bình đẳng người với người.
II. Quá độ lên CNXH ở nước ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa:
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin vào điều kiện cụ thể của nước ta,Đảng ta khẳng
định Độc lập dân tộc và CNXH không tách rời nhau,đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt
Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng.Việc Đảng ta kiên định con đường đi
lên XHCN là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể trong nước.Điều kiện đó thể
hiện ở chỗ:
Mặc dù CNXH bị khủng hoảng và sụp đổ,nhưng đó là sự sụp đổ của mô hình CNXH tập
trung quan liêu, bao cấp, chứ không phải CNXH với tính cách là một xã hội cao hơn Chủ nghĩa Tư

bản. CNTB mặc dầu chưa hết vai trò lịch sử và đang đạt được nhiều thành tựu to lớn,nhất là khoa
học và công nghệ , nhưng những thành tựu của tư bản tạo ra, đến lượt nó lại trở thành cái phủ định
CNTB và thay thế bằng xã hội khác cao hơn-CNXH,CNCS.Vì vậy lựa chọn con đường tiến lên
CNXH là phù hợp với xu hướng của thời đại.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là con đường mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn từ năm
1930.Với thử thách của thời gian con đường đó từng bước hiện thực hóa trên con đường phát triển
Page 25

×