Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam – chi nhánh sơn tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.54 KB, 87 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong xu thế toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, đối với mỗi ngân hàng
việc nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng là một vấn đề được rất nhiều ngân hàng
quan tâm và nó là một chiến lược phát triển kinh doanh của ngân hàng. Không ai có thể
phủ nhận được vai trò quan trọng của khách hàng trong hoạt động cung ứng các dịch vụ
ngân hàng, khách hàng có vai trò quyết định đến sự sống còn của ngân hàng. Trong thời
gian thực tập tổng hợp tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam –
chi nhánh Sơn Tây, nhận thấy vấn đề nâng cao chất lượng dịch vụ tín dụng cho vay nói
chung và chất lượng dịch vụ tín dụng cho vay hộ sản xuất nói riêng được ban lãnh đạo
Ngân hàng quan tâm rất nhiều nên em đã lựa chọn đề tài: “ Chất lượng tín dụng hộ sản
xuất tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – chi nhánh Sơn
Tây”.
Trước tiên em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của nhà trường trong suốt quá trình học
tập. Để hoàn thành luận văn này em đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của thầy giáo
Lê Đức Tố và các thầy cô trong khoa. Bên cạnh đó phải kể đến sự giúp đỡ nhiệt tình của
giám đốc, các phòng ban và nhân viên Ngân hàng NNo&PTNT Việt Nam chi nhánh Sơn
Tây, trong quá trình em tìm hiểu về ngân hàng đã cung cấp đầy đủ thông tin để em có thể
hoàn thành đề tài trên.
Bài luận văn chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý
kiến góp ý của các Thầy các Cô để giúp em có cái nhìn hoàn thiện hơn về vấn đề đang
hết sức cấp thiết này.
Một lần nữa em xin được chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
CV Cho vay
DPRR Dự phòng rủi ro
HĐV Huy động vốn
HSX Hộ sản xuất


KKH Không kỳ hạn
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHNo&PTNT Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
TCKT Tổ chức kinh tế
TCTD Tổ chức tín dụng
TG Tiền gửi
TTQT Thanh toán quốc tế
LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đã tăng trưởng mạnh mẽ và đạt được
nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Đường lối đổi mới
đúng đắn của Đảng và các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp trong đó có
tín dụng ngân hàng đã tạo bước ngoặt quan trọng, mở ra thời kỳ mới, lôi cuốn hàng triệu
hộ trong cả nước hăng hái lao động sản xuất, làm ra nhiều của cải cho xã hội.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT Việt
Nam) là một ngân hàng thương mại nhà nước có quy mô lớn nhất ở Việt Nam hiện nay.
Đối tượng phục vụ chủ yếu của ngân hàng là nông, lâm, ngư, diêm nghiệp với khách
hàng phần lớn là các hộ sản xuất trên phạm vi cả nước. Trong những năm gần đây, dư nợ
cho vay hộ sản xuất chiếm tỷ trọng lớn trên tổng dư nợ cho vay của NHNo&PTNT Việt
Nam (khoảng 60-63%).
Là một đơn vị thành viên của NHNo&PTNT Việt Nam, chi nhánh Sơn Tây hoạt
động trên một địa bàn rộng lớn đã đặc biệt chú trọng tới cho vay hộ sản xuất. Dư nợ cho
vay hộ sản xuất chiếm trên 50% tổng dư nợ và không ngừng tăng trưởng trong những
năm qua. Vốn tín dụng cho vay hộ sản xuất của chi nhánh Sơn Tây đã góp phần tích cực
vào phát triển kinh tế xã hội trong khu vực. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, do đặc
tính của cho vay hộ sản xuất là các món nhỏ lẻ, chi phí nghiệp vụ cao, trong khi đó địa
bàn hoạt động lại rộng, cơ chế chính sách, quy trình nghiệp vụ còn chưa được hoàn thiện
nên tín dụng hộ sản xuất của ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn. Do vậy, việc đánh giá
thực trạng và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại
NHNo&PTNT Sơn Tây là hết sức cần thiết đối với nhà quản lý ngân hàng cũng như

những nhà nghiên cứu về kinh tế khác.
Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng của vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng hộ
sản xuất trong kinh doanh ngân hàng, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, cũng như nhận
được sự quan tâm, hướng dẫn nhiệt tình của giáo viên, cán bộ, lãnh đạo NHNo&PTNT
Sơn Tây, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh Sơn Tây ” làm đề tài nghiên cứu cho
bản khóa luận của mình.
2. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
• Phân tích những vấn đề có tính lý luận về chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
• Làm rõ, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại NHNo&PTNT
Sơn Tây, chỉ rõ những kết quả đạt được, những mặt hạn chế còn tồn tại, và nguyên nhân
của những hạn chế đó.
• Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản
xuất tại NHNo&PTNT Sơn Tây.
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
• Đối tượng nghiên cứu: các khoản cho vay hộ sản xuất của NHNo&PTNT Sơn
Tây
• Phạm vi nội dung nghiên cứu: hoạt động tín dụng hộ sản xuất tại NHNo&PTNT
Sơn Tây, đánh giá thực trạng chất lượng của hoạt động tín dụng hộ sản xuất và đưa ra
những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động này.
• Phạm vi số liệu được sử dụng để phân tích:
- Số liệu mang tính thời điểm cập nhật vào ngày 31/12/2014.
- Số liệu mang tính thời kỳ cập nhật trong 3 năm 2012, 2013, 2014.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khóa luận sử dụng những vấn đề có tính lý luận về hộ sản xuất, vai trò của tín dụng
hộ sản xuất, kết hợp với phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp các số liệu về tín
dụng hộ sản xuất tại chi nhánh ngân hàng, phân tích tình hình địa bàn hoạt động của ngân
hàng để làm rõ thực trạng cho vay hộ sản xuất, từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị
nhằm nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
a. Thu thập dữ liệu

+ Xác định nguồn thông tin
Sơ cấp: lập bảng câu hỏi điều tra khách hàng của ngân hàng về dịch vụ cho vay hộ
sản xuất
Thứ cấp: thu thập số liệu từ các phòng ban như phòng tín dụng, phòng dịch vụ
khách hàng… với các chứng từ, sổ sách, số liệu có liên quan đến hoạt động tín dụng của
ngân hàng. Thu thập thông tin có liên quan đến ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh
thông qua internet, sách báo, tạp chí…
+ Xác định mẫu
Chọn mẫu nghiên cứu ≥ 100 đồng thời do đề tài điều tra sự thỏa mãn của khách
hàng nên bảng câu hỏi được thiết kế chủ yếu là câu hỏi lựa chọn theo thang điểm từ 1 đến
5.
+ Thiết kế bảng câu hỏi
Bảng câu hỏi được thiết kế dựa trên cơ sở lý luận khái niệm chất lượng dịch vụ, đo
lường chất lượng dịch vụ, khái niệm sự thỏa mãn của khách hàng và mô hình
SERVQUAL (Service Quality) được tạo bởi Parasuraman, Zeitham và Berry vào những
năm 1980. Đây là bộ phiếu thăm dò gồm 2 bộ câu hỏi chính có nội dung như sau:
Bộ 1: Mong đợi của khách hàng khi sử dụng cho vay hộ sản xuất, khách hàng
chọn số điểm thể hiện mức độ mong đợi của mình đối với các yếu tố
Bộ 2: Độ đáp ứng của ngân hàng về dịch vụ cho vay hộ sản xuất tại Agribank.
Khách hàng sẽ lựa chọn số điểm thể hiện sự đồng ý của mình đối với dịch vụ mà ngân
hàng đang cung cấp.
Ngoài 2 bộ câu hỏi theo mô hình của SERVQUAL, có thể xây dựng thêm một bộ
câu hỏi khảo sát về thái độ phục vụ của nhân viên Agribank.
Công cụ SERVQUAL có ưu điểm là làm nổi bật những điểm mạnh của dịch vụ
cần điều tra cũng như những điểm cần cải tiến nhằm đáp ứng được sự mong đợi của
khách hàng.
b. Xử lý dữ liệu
+ Sàng lọc các Phiếu thăm dò
Sau khi điều tra, các phiếu thăm dò khách hàng được sàng lọc, giữ lại những phiếu
trả lời đầy đủ các câu hỏi, những phiếu trả lời không đủ hoặc chọn nhiều phương án trả

lời cho một câu hỏi sẽ bị loại bỏ.
+ Mã hóa dữ liệu trên Exel
Mã hóa các câu trả lời, thống kê trên Exel, tiến hành tổng hợp kết quả, tính toán tỉ
lệ phần trăm.
5. KẾT CẤU KHÓA LUẬN
Kết cấu khóa luận ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung chính sẽ gồm ba chương:
• Chương I: Lý luận chung về chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
• Chương II: Thực trạng tín dụng hộ sản xuất tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Sơn Tây.
• Chương III: Các kết luận và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín
dụng hộ sản xuất tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Sơn Tây.
CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
HỘ SẢN XUẤT
1.1. Hộ sản xuất và vai trò của hộ sản xuất trong quá trình phát triển nông nghiệp
nông thôn hiện nay
1.1.1. Khái niệm hộ sản xuất
Theo phụ lục của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
(NHNo&PTNT Việt Nam) ban hành kèm theo quyết định 499A TDNH ngày 2/9/1993 thì
khái niệm hộ sản xuất được nêu như sau: “Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế tự chủ, trực
tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình”.
Hộ sản xuất hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế hàng hóa phụ thuộc rất
nhiều vào trình độ sản xuất kinh doanh, khả năng kỹ thuật, quyền làm chủ những tư liệu
sản xuất và mức độ vốn đầu tư của mỗi hộ gia đình. Có thể chia hộ sản xuất làm ba loại
sau:
• Loại thứ nhất: Các hộ có vốn, có kỹ thuật, kỹ năng lao động, biết tiếp cận với
môi trường kinh doanh, có khả năng thích ứng, hòa nhập với thị trường. Vì thế các hộ
này luôn có nhu cầu đầu tư thêm vốn. Việc vay vốn đối với những hộ sản xuất này là
hoàn toàn chính đáng và cần thiết trong quá trình mở rộng, phát triển sản xuất kinh

doanh. Đây chính là những khách hàng mà tín dụng ngân hàng cần quan tâm và coi trọng
vì đồng vốn đầu tư vào đây sẽ được sử dụng đúng mục đích, có khả năng sinh lời và có
thể hạn chế tối đa tình trạng nợ quá hạn.
• Loại thứ hai: Các hộ có sức lao động, làm việc cần mẫn nhưng lại không có
hoặc có ít tư liệu sản xuất, tiền vốn hoặc môi trường kinh doanh. Loại hộ này chiếm phần
lớn trong nền kinh tế nên việc tăng cường đầu tư để các hộ này mua tư liệu sản xuất có ý
nghĩa rất quan trọng trong phát triển sản xuất nông nghiệp.
• Loại thứ ba: Các hộ không có sức lao động, không tích cực lao động, không biết
tính toán làm ăn, gặp rủi ro trong sản xuất kinh doanh, gặp tai nạn ốm đau, hay những hộ
gia đình chính sách. Đối với các hộ này, trước mắt cần phải đào tạo tay nghề, khuyến
khích để người có sức lao động phải sống bằng kết quả lao động của chính bản thân mình
và vươn lên làm chủ cuộc sống.
Việc phân loại hộ sản xuất sẽ góp phần xây dựng và hoàn thiện hơn chính sách tín dụng
phù hợp nhằm đem lại hiệu quả đầu tư.
1.1.2. Vai trò của hộ sản xuất
Hộ sản xuất có vai trò là chủ thể trong nền kinh tế nói chung và nền kinh tế nông
thôn nói riêng. Kinh tế nông nghiệp nông thôn muốn phát triển, muốn được công nghiệp
hóa, hiện đại hóa thì trước hết hộ sản xuất phải được trang bị tư liệu sản xuất hiện đại, kỹ
năng sản xuất và vốn để sản xuất kinh doanh. Hộ sản xuất là nhân tố quan trọng, mang
tính chất quyết định trong việc tạo ra sản phẩm nông nghiệp, của cải vật chất, đa dạng
hóa các sản phẩm, hình thành thị trường sản phẩm sôi động nhằm góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế trên địa bàn.
Hộ sản xuất cũng đồng thời là thị trường tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp như
máy móc, thiết bị…để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và sản xuất. Hộ sản xuất cũng giữ
vai trò khá lớn trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách xóa đói giảm
nghèo, chính sách lao động, huy động nội lực, khuyến nông, khuyến lâm…
Thực hiện phương châm “dân giàu nước mạnh”, hộ sản xuất là nơi khai thác các
tiềm năng về đất đai, núi đồi, sông ngòi…để mở rộng các ngành nghề nông, lâm, ngư,
diêm nghiệp, các ngành nghề truyền thống, sản xuất vật liệu phục vụ xây dựng cơ sở hạ
tầng như đường xá, cầu cống, trường học… Hộ sản xuất còn tạo điều kiện cho việc sử

dụng có hiệu quả các nguồn lực của địa phương, góp phần quyết định kiến trúc thượng
tầng. Bên cạnh đó, hộ sản xuất cũng góp phần củng cố khối liên minh công – nông, thể
hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1.2. Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ
sản xuất
1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (tài sản) từ người sở hữu
sang người sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định. Khi đến hạn, người sử dụng
phải hoàn trả một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Như vậy phạm trù tín dụng có ba
nội dung chính là: tính chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn và tính
hoàn trả.
Quan hệ tín dụng ra đời và tồn tại từ đòi hỏi khách quan của quá trình tuần hoàn
vốn để giải quyết hiện tượng dư thừa, thiếu hụt vốn diễn ra thường xuyên giữa các chủ
thể trong nền kinh tế.
Quan hệ tín dụng thể hiện ba nội dung cơ bản:
• Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định, lượng
giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hóa, máy
móc, thiết bị…
• Người đi vay chỉ sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết
thời hạn sử dụng theo thỏa thuận, người vay phải hoàn trả lại cho người cho vay.
• Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách
khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức.
Trong lịch sử, tín dụng ra đời và phát triển cùng với nền sản xuất hàng hóa. Khi
nền kinh tế ngày càng phát triển thì quan hệ tín dụng cũng được mở rộng. Các hình thức
tín dụng cũng đa dạng, phong phú hơn như tín dụng thương mại, tín dụng nhà nước, tín
dụng doanh nghiệp, tín dụng cá nhân, tín dụng ngân hàng… Tuy nhiên, do có nhiều ưu
điểm phục vụ cho sự phát triển sản xuất kinh doanh nên tín dụng ngân hàng đóng vai trò
quan trọng hơn cả. Nó đã khắc phục được những hạn chế của tín dụng thương mại về quy
mô, thời gian và phương hướng vận động.
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ kinh tế được hình thành trong quá trình

chuyển nhượng giá trị dưới hình thức tiền tệ hay hiện vật từ người này sang người khác
với điều kiện trả cả vốn lẫn lại trong một thời gian nhất định. Mặt khác, tín dụng ngân
hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là Ngân hàng – tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ
với một bên là tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò
vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Với tư cách là người đi vay, ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
trong xã hội bằng các hình thức như nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân, phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu. Do vậy ngân hàng đã tập trung
được những nguồn vốn nhỏ lẻ trong xã hội thành một nguồn vốn lớn để thực hiện cho
vay.
Với tư cách là người cho vay, ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Tín dụng
ngân hàng đã thực hiện chức năng phân phối lại vốn để đáp ứng yêu cầu tái sản xuất xã
hội mà cơ sở khách quan để hình thành chức năng này là sự dư thừa vốn tạm thời trong
tuần hoàn vốn sản xuất.
Nói một cách tổng quát, tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng thỏa thuận để khách
hàng sử dụng một tài sản (bằng tiền, tài sản thực hay uy tín) với nguyên tắc có hoàn trả
bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu (tái chiết khấu), cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân
hàng và các nghiệp vụ khác.
1.2.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở lòng tin.
Ngân hàng chỉ cấp tín dụng khi có lòng tin vào việc khách hàng sử dụng vốn vay đúng
mục đích, hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ vay (gốc, lãi) đúng hạn, còn người đi vay
thì tin tưởng vào khả năng kiếm được tiền trong tương lai để trả nợ gốc và lãi vay.
Tín dụng là sự chuyển nhượng một tài sản có thời hạn.
Ngân hàng là trung gian tài chính "đi vay để cho vay" nên mọi khoản tín dụng của ngân
hàng đều phải có thời hạn, bảo đảm cho ngân hàng hoàn trả vốn huy động. Để xác định
thời hạn cho vay hợp lý, ngân hàng phải căn cứ vào tính chất thời hạn nguồn vốn của
mình và quá trình luân chuyển vốn của đối tượng vay. Nếu ngân hàng có nguồn vốn dài
hạn ổn định thì có thể cấp được nhiều tín dụng dài hạn, ngược lại, nếu nguồn vốn không

ổn định và kỳ hạn ngắn mà cấp nhiều tín dụng dài hạn thì sẽ gặp rủi ro thanh khoản. Mặt
khác, thời hạn cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì
người vay mới có điều kiện trả nợ đúng hạn. Nếu ngân hàng xác định thời hạn vay nhỏ
hơn chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì khách hàng không có đủ nguồn để trả
nợ khi đến hạn, gây khó khăn cho khách hàng. Ngược lại, nếu thời hạn cho vay lớn hơn
chu kỳ luân chuyển vốn sẽ tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn vay không đúng
mục đích, tiềm ẩn rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng phải trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Nếu không có sự hoàn trả thì không được coi là tín dụng. Giá trị hoàn trả phải lớn hơn giá
trị lúc cho vay (giá trị gốc), nghĩa là ngoài việc hoàn trả giá trị gốc, khách hàng phải trả
cho ngân hàng một khoản lãi, đây chính là giá của quyền sử dụng vốn vay. Khoản lãi phải
luôn là một số dương, có như vậy mới bù đắp được chi phí hoạt động và tạo ra lợi nhuận,
phản ánh bản chất hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Tín dụng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao cho ngân hàng.
Việc thu hồi tín dụng phụ thuộc không những vào bản thân khách hàng mà còn phụ thuộc
vào môi trường hoạt động, ngoài tầm kiểm soát của khách hàng như sự biến động về giá
cả, lãi suất, tỷ giá, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, thị trường, thiên tai Khi khách hàng
gặp khó khăn do môi trường kinh doanh thay đổi, dẫn đến khó khăn trong việc trả nợ,
điều này khiến cho ngân hàng gặp rủi ro tín dụng.
Tín dụng phải trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện.
Quá trình xin vay và cho vay diễn ra trên cơ sở những căn cứ pháp lý chặt chẽ như: hợp
đồng tín dụng, khế ước vay tiền, hợp đồng bảo đảm tiền vay trong đó bên đi vay phải
cam kết hoàn trả vô điều kiện khoản vay cho ngân hàng khi đến hạn.
1.2.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng
1.2.3.1. Đối với nền kinh tế thị trường
Tín dụng ngân hàng góp phần làm giảm tỷ trọng tiền nhàn rỗi trong lưu thông và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại.
Để thực hiện quá trình kinh doanh ngân hàng ngoài vốn tự có còn thường phải tạo vốn
bằng cách “đi vay để cho vay”.

Trong nền kinh tế, thường xuyên tồn tại song song một bộ phận vốn tạm thời nhàn
rỗi nằm ngoài quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa và nhu cầu đầu tư vốn để mở
rộng sản xuất kinh doanh. Việc thừa thiếu vốn là tình trạng thường xuyên xảy ra ở các
đơn vị kinh tế. Quá trình tập trung và phân phối vốn của tín dụng ngân hàng đã biến bộ
phận vốn nhỏ lẻ bên ngoài quá trình sản xuất kinh doanh cũng như các khoản tiền tiết
kiệm của các tầng lớp dân cư trong xã hội thành vốn cho vay, góp phần điều hòa vốn cho
nền kinh tế, bù đắp được nhu cầu thiếu vốn tạm thời, giúp các doanh nghiệp tích tụ vốn
một cách triệt để nhằm mở rộng tái sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tín dụng ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi động, thúc
đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, góp phần tạo nên một cơ cấu kinh tế hợp lý.
Trong môi trường cạnh tranh, các chủ doanh nghiệp luôn chủ động tìm kiếm và
thực hiện nhiều biện pháp làm tăng hiệu quả sản xuất như ứng dụng thành tựu khoa học
kỹ thuật, đổi mới công nghệ… Những việc này đòi hỏi một lượng vốn rất lớn mà tín dụng
ngân hàng chính là nguồn tài trợ cho nhu cầu này. Mặt khác, tín dụng ngân hàng cũng tạo
điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển sản xuất kinh doanh từ ngành này sang ngành khác
vì nó đáp ứng được nhu cầu vốn lớn cho việc thay đổi cơ cấu sản xuất kinh doanh.
Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng
giao lưu kinh tế quốc tế.
Ngày nay khi mối quan hệ kinh tế giữa các nước trên thế giới và khu vực đang
phát triển rất đa dạng cả về nội dung lẫn hình thức thì việc đầu tư ra nước ngoài và kinh
doanh xuất nhập khẩu hàng hóa là hai lĩnh vực hợp tác quốc tế thông dụng, phổ biến nhất
giữa các nước. Trong đó vốn là nhân tố quyết định đầu tiên cho việc thực hiện quá trình
này. Tuy nhiên trên thực tế không một tổ chức kinh tế, nhà kinh doanh nào có dư vốn để
hoạt động. Do vậy, để duy trì hoạt động đòi hỏi phải có một khối lượng lớn về vốn và
chính tín dụng ngân hàng sẽ là nguồn tài trợ cho các nhu cầu đó. Ngân hàng với tư cách
là một tổ chức kinh tế đặc thù trong kinh doanh tiền tệ, qua hoạt động tín dụng sẽ là trợ
thủ đắc lực cung ứng vốn cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa, trở
thành một trong những phương tiện nối liền nền kinh tế các nước với nhau.
Tín dụng ngân hàng góp phần điều tiết và ổn định lưu thông tiền tệ.
Trong nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ là công cụ kinh tế phục vụ cho mọi lĩnh vực

sản xuất kinh doanh, dịch vụ để tái mở rộng sản xuất. Vì thế, việc phát triển sản xuất, lưu
thông hàng hóa phải luôn đi kèm với ổn định lưu thông tiền tệ. Khi ngân hàng cho vay
tức là đưa tiền vào lưu thông, còn khi thu nợ là rút tiền ra khỏi lưu thông. Chính vì thế tín
dụng ngân hàng cũng góp phần kiểm soát lượng cung tiền. Bên cạnh đó, với chức năng
tạo tiền của mình, các ngân hàng có khả năng mở rộng tiền gửi làm tăng khối lượng tiền
trong lưu thông. Để duy trì sự ổn định của việc lưu thông tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước
phải sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm điều tiết hoạt động tín dụng của các
ngân hàng thương mại như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, hạn mức tín dụng.
Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và các
ngành kinh tế mũi nhọn.
Các ngành kinh tế mũi nhọn và các ngành kinh tế kém phát triển đòi hỏi phải có
lượng vốn nhiều và kịp thời. Tín dụng ngân hàng là nguồn cung ứng vốn cũng như là
động lực giúp các doanh nghiệp tìm ra biện pháp sử dụng vốn có hiệu quả. Vì nếu chỉ có
vốn mà các doanh nghiệp không biết cách quản lý vốn, đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn
thì sẽ dễ dẫn đến nguy cơ phá sản. Bên cạnh đó, việc áp dụng lãi suất ưu đãi cũng góp
phần thúc đẩy các ngành kinh tế này phát triển nhanh chóng hơn.
Tín dụng ngân hàng có vai trò kiểm soát đối với nền kinh tế.
Với chức năng phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng ngân hàng có thể kiểm soát được
các hoạt động kinh tế trong quá trình huy động và sử dụng vốn. Thông qua việc huy động
vốn tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp cũng như các tầng lớp dân cư, và việc tổ chức
thanh toán cho khách hàng, ngân hàng có thể đánh giá được tình hình tiêu thụ sản phẩm,
tình hình sản xuất, khả năng thanh toán, chi trả của khách hàng nhờ theo dõi sự biến động
của số dư tài khoản. Trong quá trình cho vay, ngân hàng phải luôn đề phòng đến nguy cơ
rủi ro có thể xảy ra vì vậy việc phân tích, đánh giá khả năng tài chính, giám sát, kiểm tra
hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng phải được thực hiện thường xuyên để kịp
thời có biện pháp điều chỉnh khi cần thiết. Từ việc nắm bắt được tình hình hoạt động của
các doanh nghiệp, ngân hàng có thể đưa ra những đề xuất, góp ý giúp chính phủ điều tiết
lại nền kinh tế khi có sự mất cân đối về cơ cấu kinh tế.
Tóm lại, tín dụng ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế
cũng như hoạt động của các ngân hàng thương mại. Tín dụng ngân hàng có chất lượng và

hiệu quả mới thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, ổn định lưu thông tiền tệ.
1.2.3.2. Đối với hộ sản xuất
Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành thị trường tài chính, đáp ứng nhu cầu
vốn duy trì, mở rộng sản xuất, hạn chế cho vay nặng lãi ở nông thôn.
Nước ta là một nước nông nghiệp với phần lớn dân cư sinh sống ở nông thôn và
tham gia sản xuất trong các lĩnh vực nông – lâm – ngư – diêm nghiệp. Chính vì thế, thị
trường ở nông thôn vừa là nơi tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ vừa là nơi cung ứng sản phẩm
hàng hóa, nông sản, nguyên liệu cho chế biến. Đây đồng thời cũng là nơi cung cấp nguồn
lao động dồi dào cho cả nước. Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa người cần vốn và
người thiếu vốn đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng
hóa, hình thành nên thị trường tài chính ở nông thôn, tạo động lực cho sự phát triển kinh
tế. Nhờ có chính sách cho vay vốn trực tiếp của ngân hàng đối với các hộ sản xuất mà
vấn đề cho vay nặng lãi ở nông thôn được hạn chế, việc sản xuất không chỉ dừng lại ở
mức độ tự cung tự cấp mà đã tiến lên thành hình thức sản xuất hàng hóa. Sản phẩm làm
ra ngoài việc phục vụ cho tiêu dùng của người chính người sản xuất còn là hàng hóa bán
ra thị thường. Nền sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường đã thúc đẩy hộ sản xuất phải
mở rộng sản xuất, tiếp cận với khoa học kỹ thuật hiện đại nhằm nâng cao năng suất lao
động và chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Tín dụng ngân hàng kiểm soát và thúc đẩy hộ sản xuất thực hiện chế độ hạch toán
kinh tế.
Ngân hàng thương mại bằng các nghiệp vụ của mình có thể kiểm soát đồng tiền
trong hầu hết các hoạt động kinh tế. Trước khi cho vay, cán bộ tín dụng phải nắm được
toàn bộ tình hình sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất có nhu cầu xin vay, những biến
động trong thời kỳ sản xuất, khả năng tài chính, khả năng sản xuất, còn sau khi giải ngân
thì phải theo dõi quá trình sử dụng vốn vay của hộ xem có đúng mục đích và có hiệu quả
hay không. Thông qua đó, cán bộ ngân hàng sẽ nắm bắt được khả năng thực sự của từng
hộ sản xuất để có chính sách đầu tư thích hợp. Việc đầu tư vốn của ngân hàng kèm theo
điều kiện phải hoàn trả nợ vay cả vốn lẫn lãi theo đúng thời hạn trong hợp đồng tín dụng
giúp cho các hộ làm quen và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả,
giảm chi phí sản xuất để sau khi trả nợ cho ngân hàng, các hộ sản xuất vẫn thu được lợi

nhuận.
Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển các ngành nghề truyền thống, ngành
nghề mới, giải quyết vấn đề lao động ở nông thôn.
Nước ta có nhiều làng nghề truyền thống nhưng vẫn chưa được quan tâm và đầu tư
đúng mức. Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc phát triển các
ngành nghề truyền thống cũng như các ngành nghề mới đều cần được chú trọng. Tín
dụng ngân hàng là nguồn chính cung cấp vốn để thực hiện mở rộng quy mô, nâng cao
chất lượng sản xuất. Nhờ đó, vấn đề việc làm ở nông thôn được giải quyết. Các hộ gia
đình ở các làng nghề đều có thể tự tạo công ăn việc làm cho chính các thành viên trong
gia đình để vừa cải thiện kinh tế gia đình, vừa hạn chế được tệ nạn xã hội phát sinh do
thất nghiệp.
1.2.4. Phân loại tín dụng ngân hàng
1.2.4.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng.
• Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn đến 1 năm và được sử dụng
để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp như: bổ sung ngân quỹ,
ứng trước tiền hàng, đảm bảo yêu cầu thanh toán đến hạn, duy trì hàng tồn kho ; phục
vụ cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình. Đây là loại tín dụng có mức rủi ro thấp
vì thời hạn hoàn vốn nhanh, tránh được các rủi ro về lãi suất, lạm phát cũng như sự bất ổn
của môi trường kinh tế vĩ mô và thị trường, vì thế lãi suất thường thấp hơn các loại tín
dụng khác.
• Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm và
sử dụng chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới trang thiết bị, mở
rộng sản xuất và xây dựng công trình vừa và nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh. Tín
dụng trung dài hạn còn là nguồn quan trọng hình thành nên vốn lưu động thường xuyên
của các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với doanh nghiệp mới thành lập.
• Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, đáp ứng cho nhu
cầu đầu tư dài hạn như: xây dựng cơ bản (nhà xưởng, dây chuyền sản xuất ), xây dựng
cơ sở hạ tầng (đường xá, cảng biển, sân bay ), cải tiến và mở rộng sản xuất quy mô lớn.
Do thời hạn đầu tư thường kéo dài nên tín dụng dài hạn thường áp dụng hình thức giải
ngân nhiều lần theo tiến độ dự án. Nhìn chung, tín dụng dài hạn chịu rủi ro rất lớn, bởi vì

thời hạn càng dài thì những biến động không dự tính có thể xảy ra càng lớn.
1.2.4.2. Căn cứ vào bảo đảm tín dụng
• Tín dụng có bảo đảm: là loại tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có
bảo lãnh của người thứ ba. Hình thức tín dụng này áp dụng đối với những khách hàng
không đủ uy tín, khi vay vốn phải có tài sản bảo đảm hoặc phải có người bảo lãnh. Tài
sản bảo đảm hoặc bảo lãnh của người thứ ba là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm
nguồn thu dự phòng khi nguồn thu chính (dòng tiền) của người đi vay thiếu hụt, tạo áp
lực buộc người đi vay phải trả nợ, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
• Tín dụng không có bảo đảm: là loại tín dụng không có tài sản cầm cố, thế
chấp hay không có bảo lãnh của người thứ ba. Loại tín dụng này áp dụng cho những
khách hàng truyền thống, có hệ số tín nhiệm cao.
1.2.4.3. Căn cứ mục đích tín dụng:
• Tín dụng bất động sản: Đây là khoản tín dụng đầu tư vào bất động sản, bao
gồm: tín dụng ngắn hạn cho xây dựng nhà cửa, mở rộng đất đai, tín dụng dài hạn để mua
đất đai, nhà cửa, căn hộ, cơ sở dịch vụ, trang trại, bất động sản ở nước ngoài.
• Tín dụng công thương nghiệp: đây là khoản tín dụng cấp cho các doanh
nghiệp để trang trải các chi phí như mua hàng hóa, nguyên vật liệu, trả thuế, chi trả
lương.
• Tín dụng nông nghiệp: đây là các khoản tín dụng các hoạt động nông
nghiệp, nhằm trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng, chăn nuôi gia súc.
• Tín dụng tiêu dùng: đây là khoản tín dụng cấp cho cá nhân, hộ gia đình để
mua sắm hàng hóa tiêu dùng đắt tiền như xe hơi, trang thiết bị trong nhà
1.2.4.4. Căn cứ vào chủ thể vay vốn
• Tín dụng doanh nghiệp (tín dụng bán buôn): gọi là bán buôn vì những
doanh nghiệp thường vay với những khoản vay có giá trị lớn.
• Tín dụng cá nhân, hộ gia đình (tín dụng bán lẻ): gọi là bán lẻ vì những cá
nhân thường vay với những khoản vay có giá trị nhỏ nhằm vào mục đích tiêu dùng.
• Tín dụng cho các tổ chức tài chính: đây là khoản tín dụng cấp cho các ngân
hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, và các tổ chức tài chính khác. Những khoản đi
vay này trở thành nguồn vốn của ngân hàng đi vay nên chúng có thể dùng để trả nợ hay

cho vay lại.
1.2.4.5. Căn cứ phương thức hoàn trả nợ vay:
• Tín dụng trả góp: là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và
lãi vay định kỳ thành những khoản bằng nhau. Loại tín dụng này áp dụng cho những
khoản vay lớn và có thời hạn dài.
• Tín dụng hoàn trả một lần: là loại tín dụng mà khách hàng chỉ hoàn trả vốn
gốc và lãi vay một lần khi đến hạn. Loại tín dụng này áp dụng cho những khoản vay nhỏ,
có thời hạn ngắn.
• Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: là loại tín dụng mà khách hàng có thể hoản
trả nợ vay bất cứ khi nào. Loại tín dụng này thường áp dụng cho những khoản vay thấu
chi, thẻ tín dụng.
1.2.4.6. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng
• Tín dụng bằng tiền: là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng tiền. Tín
dụng bằng tiền gọi là cho vay
• Tín dụng bằng tài sản: là tín dụng mà hính thái giá trị của nó là bằng tài sản.
Hình thức tín dụng này chính là cho thuê tài chính.
• Tín dụng bằng uy tín: là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng uy tín.
Hình thức tín dụng này chính là bảo lãnh ngân hàng.
1.2.4.7. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng
• Tín dụng trực tiếp: là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng cấp vốn trực
tiếp cho khách hàng có nhu cầu vay vốn, đồng thời khách hàng hoàn trả nợ vay trực tiếp
cho ngân hàng.
• Tín dụng gián tiếp: là hình thức cấp tín dụng thông qua trung gian như: tín
dụng ủy thác, tín dụng thông qua tổ chức đoàn thể.
1.3. Chất lượng tín dụng hộ sản xuất
1.3.1. Chất lượng tín dụng hộ sản xuất
Chất lượng tín dụng là một phạm trù phản ánh mức độ rủi ro và sinh lời trong
bảng tổng hợp cho vay của một tổ chức tín dụng.
Chất lượng tín dụng được thể hiện như sau:
• Đối với khách hàng: Việc cấp tín dụng phải thỏa mãn yêu cầu, phù hợp với

mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng cả về lãi suất và kỳ hạn, thủ tục đơn giản, thu
hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc tín dụng, đáp ứng đầy đủ
nhu cầu cần thiết về vốn của khách hàng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh.
• Đối với sự phát triển kinh tế, xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu
thông hàng hóa, góp phần giải quyết vấn đề việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong
nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn, giải quyết tốt các quan hệ giữa
tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng kinh tế.
• Đối với ngân hàng thương mại: phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải
phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng, phải đảm bảo được nguyên tắc hoàn trả
đúng hạn và có lãi của tín dụng, hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình
hoạt động và cạnh tranh trên thương trường, mang lại lợi nhuận và đảm bảo được khả
năng thanh toán cho ngân hàng.
Chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan (khả năng quản lý,
trình độ cán bộ) và khách quan (sự thay đổi của môi trường bên ngoài), môi trường pháp
lý, sự thay đổi của giá cả thị trường, xu thế phát triển của nền kinh tế …
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh mức độ thích nghi
của ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh
của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất cũng không nằm ngoài khái niệm về chất
lượng tín dụng nói chung. Chất lượng tín dụng hộ sản xuất là khả năng của ngân hàng
đáp ứng nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất, đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro về vốn, tạo
được lợi nhuận và phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên, chất lượng tín dụng hộ sản xuất chịu sự ảnh hưởng nhiều của các nhân
tố tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ sản xuất bên cạnh những yếu
tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng nói chung.
1.3.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng tín dụng
Tiêu chí 1:
Tốc độ tăng trưởng CV HSX= x100%
Tốc độ tăng trưởng cho vay hộ sản xuất được tính bằng tỷ lệ phần trăm chênh lệch giữa

dư nợ cho vay hộ sản xuất năm nay so với dư nợ cho vay hộ sản xuất năm trước. Chỉ tiêu
này phản ánh sự gia tăng về mức độ, quy mô hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất của
ngân hàng. Khi đánh giá chỉ tiêu này cần phải kết hợp so sánh với tốc độ tăng trưởng tín
dụng nói chung của ngân hàng và tốc độ tăng trưởng tín dụng của các thành phần kinh tế
khác.
Tiêu chí 2:
Tỷ lệ nợ quá hạn hộ sản xuất = x 100%
Chỉ tiêu này được sử dụng chủ yếu trong đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng. Tỷ lệ
nợ quá hạn phản ánh số dư nợ gốc và lãi đã quá hạn mà chưa thu hồi được. Tỷ lệ này cao
chứng tỏ chất lượng tín dụng thấp và ngược lại, tỷ lệ này thấp chứng tỏ chất lượng tín
dụng cao.
Tiêu chí 3: Chỉ tiêu nợ xấu
Nợ của ngân hàng được phân thành năm nhóm sau:
• Nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn và TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc
và lãi đúng hạn.
- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy
đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại.
• Nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày.
- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu.
• Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu.
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi
vay đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
• Nhóm 4 (nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
• Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ
được cơ cấu lại lần thứ hai.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn
hoặc đã quá hạn.
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
Nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3,4,5.
Tỷ lệ nợ xấu HSX = x 100%
Tỷ lệ nợ xấu HSX cho biết trong 100 đồng tổng dư nợ HSX thì có bao nhiêu đồng là nợ
xấu, đây là một chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng tín dụng HSX của ngân hàng. Nợ xấu
phản ánh khả năng thu hồi vốn khó khăn, vốn của ngân hàng lúc này không còn ở mức độ
rủi ro thông thường nữa mà là nguy cơ mất vốn.
Tiêu chí 4:
Tỷ lệ sinh lời tín dụng HSX = x 100%
Chỉ tiêu này phán ảnh khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng hộ sản xuất, cho
biết số tiền lãi thu được trên 100 đồng dư nợ là bao nhiêu. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ
chất lượng tín dụng càng tốt.
Tiêu chí 5:
Tỷ lệ trích lập DPRR tín dụng HSX =
Tùy theo cấp độ rủi ro mà tổ chức tín dụng phải trích lập DPRR từ 0 đến 100% giá
trị của từng khoản vay sau khi đã trừ giá trị tài sản bảo đảm đã được định giá lại). Nếu
một ngân hàng có danh mục cho vay càng rủi ro thì tỷ lệ trích lập dự phòng càng cao.
Điều này cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng chưa cao. Thông thường tỷ lệ trích
lập DPRR dao động trong khoảng 0 đến 5%.
1.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất
Ngân hàng là một ngành kinh tế kinh doanh đặc biệt gắn bó mật thiết với mọi lĩnh

vực của đời sống kinh tế xã hội: kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật… Vì vậy để quản lý
chất lượng tín dụng hộ sản xuất phải hiểu rõ tác động đồng bộ của các nhân tố ảnh hưởng
đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất, bao gồm hai loại: nhân tố khách quan và nhân tố chủ
quan.
1.4.1. Nhân tố khách quan
• Sự ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia
Hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng đạt hiệu quả, chất
lượng cao hay thấp, rủi ro nhiều hay ít đều có quan hệ gắn bó với sự phát triển kinh tế của
một quốc gia. Khi nền kinh tế, chính trị ổn định sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng,
hiệu quả tín dụng và ngược lại.
Xét trên phương diện tổng thể, nền kinh tế có ổn định thì mới tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động tín dụng. Sự ổn định của nền kinh tế làm cho quá trình sản xuất, kinh
doanh của các hộ sản xuất tiến hành và phát triển một cách bình thường, không bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố lạm phát, khủng hoảng. Việc cho vay và trả nợ vay cũng không bị
biến động lớn. Trong trường hợp này, chất lượng tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào khả
năng quản lý chất lượng tín dụng của chính bản thân các ngân hàng thương mại. Tuy vậy,
để tồn tại và phát triển thì nền kinh tế phải có sự tăng trưởng thông qua việc đạt được các
mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Hoạt động tín dụng hộ sản xuất cũng phụ thuộc vào việc huy động và sử dụng vốn.
Tín dụng làm trung gian giữa một bên là hoạt động kinh doanh của ngân hàng với một
bên là hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ của các hộ sản xuất. Do vậy, mỗi biểu hiện
tốt hay xấu trong hoạt động của khách hàng sẽ có những ảnh hưởng tương ứng đến hoạt
động của ngân hàng, tới tín dụng thông qua cơ chế tác động của những mối quan hệ tín
dụng.
Đối với những khách hàng sản xuất kinh doanh có lãi, có xu hướng phát triển, có khả
năng chiếm lĩnh thị trường, có quan hệ tín dụng tốt thì cầu nối giữa vay và cho vay thống
nhất, tạo điều kiện tăng vòng quay vốn tín dụng, mở rộng quy mô đầu tư vốn. Bằng cơ
chế tín dụng hợp lý, các ngân hàng thương mại sẽ tìm kiếm được khách hàng tốt để vay
và cho vay tạo ra sự cân đối giữa nguồn vốn huy động với việc đáp ứng nhu cầu vay vốn
của khách hàng.

Mức độ phù hợp giữa lãi suất ngân hàng với lợi nhuận của hộ sản xuất kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng hộ
sản xuất. Nếu mức lãi suất cao hơn mức lợi nhuận của hộ sản xuất thì hộ sản xuất sẽ khó
khăn trong việc trả nợ ngân hàng, gây tác động không tốt đến quá trình tái sản xuất của
hộ sản xuất nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Lúc này tín dụng ngân
hàng không còn là đòn bẩy thúc đẩy sản xuất phát triển và theo đó chất lượng tín dụng hộ
sản xuất cũng bị sụt giảm.
Ngoài ra, chính sách kinh tế của nhà nước nhằm ưu tiên hay hạn chế sự phát triển của
một ngành nghề hay một lĩnh vực nào đó để đảm bảo sự cân đối trong nền kinh tế cũng
ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
• Hệ thống pháp luật
Tất cả các tác nhân tham gia vào nền kinh tế đều chịu sự chi phối của pháp luật.
Nếu hệ thống pháp luật đồng bộ, ổn định, đầy đủ và thống nhất sẽ tạo hành lang pháp lý
vững chắc cho hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng hộ sản xuất nói
riêng. Từ đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản
xuất.
• Nhân tố xã hội
Tín dụng là sự vay mượn trên cơ sở lòng tin. Điều đó cũng có nghĩa là quan hệ tín
dụng là sự kết hợp giữa ba yếu tố: nhu cầu của khách hàng, khả năng của ngân hàng và
sự tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau giữa ngân hàng và khách hàng. Vì vậy chất lượng tín
dụng hộ sản xuất cũng phụ thuộc vào cả ba yếu tố trên. Trong đó, sự tin tưởng là cầu nối
quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng. Ngân hàng có uy tín càng cao thì thu hút được
lượng khách hàng càng lớn. Ngược lại, khách hàng có xếp hạng tín dụng cao có thể vay
vốn dễ dàng và vay với lãi suất thấp hơn so với các đối tượng khác. Sự tín nhiệm là cơ
sở, tiền đề, là điều kiện để cải tiến chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
Với tư cách là người đi vay, các hộ sản xuất mong muốn những khoản tín dụng mà
ngân hàng cung cấp sẽ đáp ứng đầy đủ lượng tiền, thời gian và lãi suất được xác định rõ
ràng, có thể chấp nhận được. Nếu nhu cầu vốn của hộ sản xuất được chấp nhận với thái
độ ân cần, thủ tục đơn giản sẽ thu hút được nhiều hộ có điều kiện tốt vay vốn, tạo điều
kiện cho hoạt động tín dụng hộ sản xuất được thuận lợi, chất lượng đảm bảo.

Ngân hàng là chủ thể đại diện cho nhu cầu về huy động vốn cho vay đồng thời
cũng đại diện cho bên cung về tín dụng. Quy mô và phạm vi của hoạt động tín dụng hộ
sản xuất phụ thuộc vào trình độ, kỹ thuật nghiệp vụ, mạng lưới hoạt động và các công cụ
quản lý tiền tệ. Bên cạnh đó còn có các yếu tố làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng hộ
sản xuất như: rủi ro đạo đức có liên quan đến rủi ro tín dụng trong trường hợp lợi dụng
lòng tin để lừa đảo, trình độ dân trí chưa cao, kém hiểu biết, hiểu chưa đúng hoạt động
kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, làm ăn kém hiệu
quả, dẫn tới không trả được nợ, gây tổn thất và ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của
ngân hàng. Ngoài ra chất lượng tín dụng còn phụ thuộc vào các yếu tố môi trường như:
thời tiết, dịch bệnh, bão lụt … và các biện pháp tích cực trong bảo vệ cải thiện môi
trường sinh thái. Đây là yếu tố bất khả kháng xảy ra bất ngờ gây nên rủi ro cho hoạt động
tín dụng hộ sản xuất, và theo đó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
1.4.2. Nhân tố chủ quan
• Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng của một ngân hàng thương mại là một hệ thống các biện pháp có
liên quan tới việc khuếch trương hoặc hạn chế tín dụng để đạt được mục tiêu đã hoạch
định của ngân hàng hoặc hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. Một
chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng đảm bảo khả năng sinh
lời từ hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính
sách và đảm bảo công bằng xã hội. Điều này cũng có nghĩa là chất lượng tài sản tùy
thuộc vào việc xây dựng chính sách tín dụng của ngân hàng có đúng hay không. Bất cứ
ngân hàng nào muốn có chất lượng tín dụng tốt đều phải có chính sách tín dụng rõ ràng,
thích hợp.
• Công tác tổ chức của ngân hàng
Tổ chức ngân hàng cần được cụ thể hóa và sắp xếp một cách khoa học đảm bảo sự
phân phối nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các phòng ban trong ngân hàng, trong hệ thống,
cũng như giữa ngân hàng với các cơ quan khác như tài chính, tư pháp…sẽ tạo điều kiện
đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, giúp ngân hàng theo dõi quản lý sát sao các
khoản cho vay, các khoản huy động vốn. Đây là cơ sở tiến hành các nghiệp vụ tín dụng
lành mạnh và quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng, phát hiện và giải quyết kịp

thời các khoản tín dụng khi cần thiết.
• Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng bao gồm nhưng quy định phải thực hiện trong quá trình cho vay,
thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng.
Thẩm định và xét duyệt cho vay là giai đoạn khởi đầu nhưng có ý nghĩa quan trọng đối
với việc đảm bảo an toàn vốn vay. Khi nhận được hồ sơ xin vay ngân hàng tiến hành
thẩm định về tư cách pháp lý của các hộ sản xuất, đánh giá khả năng sản xuất kinh doanh,
tình hình tài chính, hiệu quả kinh tế và tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh.
Nếu làm tốt giai đoạn này sẽ hạn chế rủi ro, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
Sau khi thẩm định xét duyệt cho vay, tính hiệu quả và khả năng thu hồi vốn thì
ngân hàng ra quyết định cho vay. Mức cho vay phụ thuộc vào nhu cầu vay vốn của các hộ
sản xuất, nguồn vốn của ngân hàng, giá trị tài sản đảm bảo của các hộ. Khi quyết định
được đưa ra cũng đồng nghĩa với khoản tín dụng được cấp ra thì ngân hàng phải tiến
hành kiểm tra. Cán bộ tín dụng phải theo dõi, giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng tiền
vay của hộ sản xuất nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những khoản nợ có vấn đề, những
khoản vốn sử dụng sai mục đích.
Giai đoạn thu hồi nợ là khâu quan trọng có tính chất quyết định đến sự tồn tại của
ngân hàng. Thu hồi nợ đúng hạn cả gốc lẫn lãi là nguyên tắc cơ bản, nó đảm bảo sự phát
triển của tín dụng. Nếu công tác thu hồi nợ không làm tốt thì khả năng mất vốn sẽ xảy ra.
Sự kết hợp nhịp nhàng giữa các khâu trong quy trình tín dụng sẽ tạo điều kiện cho vốn tín
dụng được luân chuyển nhịp nhàng, theo đúng kế hoạch đã định, nhờ đó đảm bảo được
chất lượng tín dụng.
• Thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng là yếu tố cơ bản, có vai trò quan trọng trong việc quản lý tín dụng
của ngân hàng. Nhờ có thông tin tín dụng mà người quản lý có thể đưa ra những quyết
định cần thiết có liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay. Thông tin
tín dụng càng nhanh nhạy, kịp thời, chính xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi
ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng cao. Bên cạnh đó, thông tin tín dụng
cũng giúp cho các nhà lãnh đạo ngân hàng có được những thông tin cần thiết về môi
trường mà họ đang hoạt động. Nó cung cấp các số liệu về tình hình giá cả thị trường, lực

lượng tham gia thị trường… để đưa ra những quyết định phù hợp nhằm hạn chế những
rủi ro tín dụng và nhờ đó chất lượng tín dụng được nâng cao.
• Kiểm soát nội bộ
Trong điều hành kinh doanh cần đặc biệt quan tâm đến công tác kiểm tra, kiểm soát
để tự điều chỉnh, đặc biệt là việc chấp hành chế độ, quy tắc tín dụng và những quy chế
phòng ngừa rủi ro cho các khoản vay. Qua kiểm tra, kiểm soát, ngân hàng có thể phát
hiện ra những khe hở trong quy định chỉ đạo hoạt động tín dụng, từ đó có biện pháp kịp
thời bổ sung, sửa đổi. Thực hiện tốt việc kiểm tra, kiểm soát nội bộ sẽ góp phần làm tăng
chất lượng tín dụng và hiệu quả của kinh doanh ngân hàng.
• Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng
Trang thiết bị ngân hàng là một nhân tố không thể thiếu để cải thiện chất lượng tín
dụng. Trang thiết bị đầy đủ, thiết bị tiến tiến phù hợp với khả năng tài chính, phạm vi,
quy mô hoạt động sẽ giúp ngân hàng phục vụ kịp thời yêu cầu của khách hàng về tất cả
các dịch vụ với chi phí mà cả hai bên cùng chấp nhận được, đồng thời cũng giúp cho các
nhà quản lý ngân hàng kịp thời nắm bắt tình hình hoạt động tín dụng để điều chỉnh phù
hợp với thực tế nhằm thỏa mãn yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. Nhờ đó, chất
lượng tín dụng được nâng cao.
• Chất lượng quan hệ tín dụng
Hoạt động ngân hàng gắn chặt vào hoạt động của các hộ sản xuất nhằm nâng cao, đáp
ứng mong muốn của khách hàng. Ngân hàng vừa phải thu hút khách hàng để củng cố đầu
vào vừa phải mở rộng đầu ra. Như vậy, ngân hàng phải thiết lập chặt chẽ mối quan hệ với
khách hàng. Trong môi trường bình đẳng thì cả ngân hàng và khách hàng phải sử dụng
những mối quan hệ tín dụng của mình như là một công cụ để mang lại lợi nhuận. Vì vậy,
chất lượng các mối quan hệ tốt hay xấu đều có thể tác động đến chất lượng hoạt động
ngân hàng tương ứng.
1.5 Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất
1.5.1. Chất lượng tín dụng hộ sản xuất đối với sự phát triển của nền kinh tế
xã hội
Việt Nam vẫn còn là một nước nặng về sản xuất nông nghiệp nền kinh tế của các
hộ sản xuất đóng vai trò khá lớn trong việc phát triển kinh tế quốc gia. Do đó, việc nâng

cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất ngày càng được quan tâm vì:
• Đảm bảo chất lượng tín dụng hộ sản xuất là điều kiện góp phần để ngân hàng
làm tốt chức năng trung gian thanh toán. Khi hoạt động tín dụng hộ sản xuất có hiệu quả
sẽ phần nào làm tăng vòng quay vốn. Với một lượng tiền như cũ có thể thực hiện được số
lần giao dịch lớn hơn, củng cố được sức mua của đồng tiền.
• Đảm bảo chất lượng tín dụng hộ sản xuất cũng tạo điều kiện cho ngân hàng làm
tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế quốc dân, là cầu nối giữa tiết kiệm và
đầu tư.
• Nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất góp phần ổn định và phát triển kinh tế
khu vực nông thôn, hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi và chơi hụi đầy rủi ro trong khu
vực này.
• Nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất
của các hộ. Thông qua sự phân tích, đánh giá khả năng phát triển của các đối tượng định
đầu tư, ngân hàng sẽ có quyết định đầu từ đúng đắn nhằm khai thác khả năng tiềm tàng
về tài nguyên, lao động, tiền vốn… để tăng cường năng lực sản xuất, cung cấp nhiều sản

×