PHềNG GIO DC- O TO HUYN I LC
TRNG TIU HC TRNH TH LIN
.
SNG KIN KINH NGHIM
SNG KIN KINH NGHIM
ti:
ti:
Ngửụứi thửùc hieọn
Ngửụứi thửùc hieọn
:
:
Nguyn Th Chớn
Nguyn Th Chớn
Chửực vuù:
Chửực vuù:
Giỏo viờn
Giỏo viờn
N
N
m hc
m hc
: 2014-2015
: 2014-2015
I/ TÊN ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT
MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 2
II/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
- Tập làm văn là một phân môn quan trọng của môn Tiếng Việt, nó giúp học
sinh có năng lực sử dụng tiếng Việt để học tập, giao tiếp. Trau dồi những
ứng xử có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những
tình cảm lành mạnh, tốt đẹp qua nội dung bài dạy.
- Để làm được một bài tập làm văn, học sinh cần phải huy động các kiến
thức về tập đọc, từ và câu, về những kiến thức đã học, về môi trường xung
quanh, về vốn hiểu biết, … nói chung môn tập làm văn đòi hỏi là tổng hợp
các kiến thức mà học sinh đã học được ở các phân môn tiếng việt khác. Bởi
vậy, tập làm văn mang tính thực hành toàn diện, tổng hợp.
- Tập làm văn còn mang tính hiện thực sáng tạo vì một bài tập làm văn thể
hiện sự suy nghĩ, tư duy của cá nhân, là tác phẩm không trùng lặp của mỗi
học sinh.
- Khi dạy một bài tập làm văn, giáo viên hay gặp khó khăn là học sinh thụ
động, ít phát biểu, có chăng cũng chỉ là những học sinh khá giỏi là hoạt động
hoặc các em chỉ trả lời câu hỏi mà không có sự liên kết thành đoạn, diễn đạt
lủng củng, ý tưởng nghèo nàn… Nói đã khó, viết càng khó hơn. Do đó, sau
một thời gian giảng dạy, tôi suy nghĩ nên làm cách nào để giúp các em hứng
thú khi học môn này. Chính vì vậy nên tôi chọn đề tài: “ MỘT SỐ BIỆN
PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 2”
III/ CƠ SỞ LÝ LUẬN :
- Phân môn TLV trong nhà trường giúp HS hình thành năng lực và thói
quen viết đúng, văn hoá, tiếng Việt chuẩn mực. Ở bậc tiểu học, phân môn
tập làm văn càng có vị trí quan trọng. Bởi vì, giai đoạn tiểu học là giai đoạn
then chốt trong quá trình hình thành kĩ năng viết văn cho HS. Phân môn này
có nhiệm vụ giúp HS nắm vững các qui tắc và hình thành kĩ năng viết hoàn
chỉnh một câu. Ngoài ra, phân môn tập làm văn còn rèn cho HS một kĩ năng
sống,biết giao tiếp với người lớn,dùng ngôn ngữ đối xử với bạn bè.
- Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng nói, viết, nghe, đọc, phục vụ cho học
tập giao tiếp cụ thể là giúp các em :
- Nắm được các nghi thức lời nói như : chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn,
xin lỗi, nhờ, cậy, yêu cầu, khẳng định, phủ định, tán thành, từ chối, chia
vui, chia buồn, … Biết sử dụng chúng trong một số tình huống giao tiếp
ở gia đình, trong trường học và nơi công cộng
- Nắm được một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày như
khai bản tự thuật ngắn, viết những bức thư để nhắn tin, chia vui hoặc chia
buồn, nhận và gọi điện thoại, đọc và lập danh sách học sinh, tra mục lục
sách, đọc thời khoá biểu, đọc và lập thời gian biểu …
- Kể một sự việc đơn giản, tả sơ lược người, vật xung quanh theo gợi ý
bằng tranh, bằng câu hỏi.
- Nghe hiểu được ý kiến của bạn, có thể nêu ý kiến bổ sung nhận xét.
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN :
Tình hình thực tế của lớp:
- Qua thực tế bài làm của học sinh tôi thấy chất lượng bài viết của học sinh
chưa cao, một số em có chịu khó tìm tòi, suy nghĩ, chọn lọc để viết ra những
câu văn nhưng chưa có nhiều sáng tạo . Còn lại phần lớn bài làm của các em
có bố cục chưa cân đối, mang tính liệt kê các chi tiết, bộ phận một cách đơn
giản. Trình tự chưa hợp lí, chọn lọc chi tiết chưa tiêu biểu, đặc sắc, thiếu từ
ngữ , học sinh thiếu sự tưởng tượng, ít cảm xúc về đối tượng , cách diễn đạt
chưa mạch lạc. Đa số học sinh còn lạm dụng quá nhiều vào bài văn mẫu, đặc
biệt là học sinh hiểu nhưng lại không diễn đạt được . Nhiều học sinh khi làm
bài văn cảm thấy khó, thấy bí, thấy không biết viết gì, nói gì , một số em
thường ngại làm văn hoặc chỉ làm cho xong mà không cần biết bài viết của
mình đúng hay sai, thiếu hay đủ.
- Học sinh còn luyện tập quá ít, các kĩ năng chưa hình thành nhưng vẫn cứ
phải sử dụng vào viết văn. Vì thế gây ra nhiều loại lỗi không đáng có
Qua khảo sát chất lượng đầu năm đối với môn tập làm văn, kết quả cụ thể
như sau:
Lớp Sĩ số Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu
2A 34 SL TL SL TL SL TL SL TL
2 5,9% 5 14,7% 8 23,5% 19 55,9%
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU :
1. Giới hạn của đề tài:
- Nhằm đi sâu vào một vấn đề và chỉ dừng ở mức độ sáng kiến kinh nghiệm
nên tôi chỉ giới hạn đề tài trong phạm vi nghiên cứu việc dạy học kiểu bài
văn dành cho học sinh lớp 2 nhằm giúp học sinh nâng cao chất lượng khi
làm bài văn. Đây là một trong những kiểu văn trọng tâm trong chương trình
tập làm văn ở Tiểu học nói chung và phân môn tập làm văn ở lớp 2 nói
riêng.Việc giúp học sinh học tốt môn tập làm văn là điều tôi mong muốn các
em làm được bài văn ở các lớp trên sau này.
* GV định hướng cho học sinh biết cách quan sát đối tượng .
* Bồi dưỡng cho học sinh tâm hồn nhạy cảm và giàu cảm xúc.
* Bồi dưỡng vốn từ và giúp học sinh biết lựa chọn từ ngữ và sử dụng một số
biện pháp đã học vào việc viết văn.
* Giúp học sinh biết thể hiện tính sinh động và tạo hình trong bài văn.
* Giúp học sinh biết bộc lộ cảm xúc và tính chân thực trong bài văn .
* Giúp học sinh biết cách sáng tạo khi viết văn.
2. Các biên pháp tổ chức thực hiện
1/ Nghi thức lời nói :
- Tất cả những nghi thức lời nói luôn xảy ra trong đời sống hàng ngày.
Tuy nhiên , có em mạnh dạn thì hay nói còn những em nhút nhát thì ít
nói. Bởi vậy, giáo viên phải dùng những biện pháp tích cực để các em
nhút nhát nói ra những điều mà các em suy nghĩ trong đầu. Có thể là
sắm vai, có thể là trò chơi hay thi đua cùng nhau … mỗi em có một
suy nghĩ khác nên lời nói cũng khác, giáo viên cứ để các em tự do
bộc lộ nhưng giáo viên cũng nên thống nhất những điểm chung sau :
• Đại từ xưng hô với đối tượng của bản thân mình phải phù hợp.
• Thái độ , cử chỉ, lời nói phải phù hợp với tình huống.
• Lịch sự, tự nhiên khi nói cũng như khi viết .
a/ Chào hỏi, tự giới thiệu, xin lỗi, mời nhờ, yêu cầu, đề nghị, chia buồn,
khen ngợi, chia vui…
- Đây là những câu nói thường ngày các em giao tiếp. Đa số các em đã
biết nói. Tuy vậy, để các em có thể nói rõ ràng, rành mạch hơn giáo
viên nên cho các em nhập vai bằng cách giao cho học sinh những tình
huống cụ thể
- Ngoài ra, giáo viên nên lưu ý thái độ của học sinh khi nói với từng
đối tượng là lớn hơn mình, bằng mình hay nhỏ hơn mình thì có
những đại từ xưng hô khác nhau và những cử chỉ thể hiện cũng khác
tùy tình huống vui hay buồn.
- Khi nói và viết lưu ý học sinh nên thêm những từ chỉ tình cảm để câu
văn thể hiện sự lễ phép, lịch sự như : nhé, nha, a …
b/ Đáp lời chào, đáp lời cảm ơn, xin lỗi, từ chối, chia vui …
- Tất cả những lời đáp trên rất hay gặp trong đời sống nhưng các em lại
rất ít nói, có em chẳng hề nói nên các em thấy hơi xa lạ. Thế nên, giáo
viên không chỉ dạy thực hành trong tiết học mà còn phải giáo dục các
em mọi lúc mọi nơi với một thời gian dài.
- Đối với lời đáp này các em thường ngại ngần không muốn nói nên
giáo viên cần cho các em sắm vai. Quan trọng hơn nữa là giáo viên
cần cho các em nắm rõ tình huống vì khi viết các em hay lầm lẫn giữa
lời đáp và lời nói.
Ví dụ: Em nói thế nào khi bạn xin lỗi em vì đã làm dơ áo em. Các em
có thể bị lầm và nói là : - Xin lỗi bạn vì tớ lỡ làm bẩn áo bạn.
Nguyên nhân là do các em chưa đọc kỹ đề, sự suy xét của các em còn
non nớt. Bởi vậy, giáo viên cần tập cho các em đọc kỹ đề bài. Đặt
mình vào tình huống của đề bài, cùng sắm vai theo tình huống đó. Có
vậy, các em mới không bị lầm lẫn.
- Ngoài ra giáo viên cũng cần lưu ý các em về thái độ lời nói với từng
đối tượng tương tự phần a .
c/ Nói và đáp lời khẳng định, phủ định:
- Có lẽ dạng này đối với các em tương đối dễ, các em chỉ cần nói có
hoặc không. Tuy nhiên, giáo viên cần giải thích cho các em thuật ngữ
khẳng định, phủ định. Vì nếu không giải thích, các em chỉ làm theo
mẫu trong sách giáo khoa mà không thể phát huy tính tích cực chủ
động của học sinh. Còn nếu ta giải thích thì khi vừa gặp dạng bài này
các em sẽ tự giác hiểu và làm bài tốt.
- Riêng về đáp lời khẳng định, phủ định thì trong đời sống hàng ngày
các em ít khi nói. Bởi vậy giáo viên cần cho các em thực hành và sắm
vai. Ngoài ra, cần lưu ý tình cảm thể hiện qua thái độ.
Ví dụ: Khi đáp lời khẳng định thì thể hiện sự vui mừng, đáp lời phủ
định thể hiện sự tiếc nuối. Có thế thì người nghe mới hiểu được tình
cảm của mình.
- Mặc dù đây là những kỹ năng phục vụ cho học tập và đời sống hàng
ngày nhưng các em lại ít được tiếp xúc. Bởi vậy, giáo viên cần cho
các em thấy một cách trực quan, thật rõ ràng. Khi dạy bản khai tự
thuật, danh sách học sinh, mục lục sách, thời gian biểu. Giáo viên phải
có một bản mẫu thật to để các em được nhìn và nghiên cứu. Giáo
viên phải chỉ rõ cách xem, cách lập, từ đó các em mới biết cách sử
dụng những kiến thức đã học được mà áp dụng vào cuộc sống hàng
ngày.
d/ Bản khai tự thuật
- Các em chỉ cần điền từ vào bản khai nên điều giáo viên cần lưu ý nhất
là khi cho các em chuẩn bị trước ở nhà những thông tin về lý lịch bản
thân. Lúc này cũng rất cần sự quan tâm của phụ huynh thì học sinh
mới làm bài tốt được. Đặc biệt, giáo viên cần nhắc nhở thường xuyên
về việc các em cần viết hoa các từ cần thiết như : tên riêng, tên địa
phương, … có những em chưa nắm được cách viết hoa chữ cái, có
những em viết sai chính tả tên địa phương. Vì bài này nằm ở đầu
chương trình nên học sinh còn chưa có thói quen.
e/ Viết tin nhắn, bưu thiếp
- Khi gặp dạng bài này các em rất ham thích. Giáo viên nên tận dụng
điều này để giúp học sinh nắm bố cục của bài là đầu tiên phải có thời
gian, địa điểm, có nội dung tin nhắn và cuối cùng là ký tên … Ngoài
ra, giáo viên có thể cung cấp thêm một số hình ảnh để người đọc tin
nhắn thêm vui vẻ.
Ví dụ: Khi nhắn tin cho ba mẹ là con đi học nhóm, các em có thể vẽ
thêm một cây bút, một quyển vở …
g/ Nhận và gọi điện thoại
- Trong thời đại ngày nay, việc nhận và gọi điện thoại là quá quen thuộc
với học sinh. Do đó, các em nói rất dễ dàng. Tuy nhiên khi viết các
em gặp nhiều trở ngại vì các em chưa nắm được khi nào là bản thân
mình nói, khi nào là người đầu dây bên kia nói. Bởi vậy, khi các em
viết ra sẽ nhầm lẫn và sai sót. Nên giáo viên phải giúp các em xác
định nhân vật . Có thể giúp các em hứng thú hơn bằng cách các em
chuẩn bị những chiến điện thoại, cho các em sắm vai, đọc kỹ đề và
tưởng tượng mình là nhân vật. Có thế khi các em viết mới không bị
nhầm lẫn.
2/ Viết đoạn văn
- Đây là dạng bài nòng cốt trong môn tập làm văn. Nó đòi hỏi ở người
học sinh vốn sống hàng ngày, vốn từ phong phú, đôi mắt quan sát tinh
tường, óc tưởng tượng sáng tạo nghệ thuật. Bởi vậy, khi dạy dạng bài
này giáo viên cần nắm rõ tâm lý tuổi học sinh. Ở lứa tuổi này học sinh
nhìn nhận sự vật thế nào? Tính tình của từng học sinh ra sao? Có em
rất tỉ mỉ quan sát, có em rất hời hợt qua loa. Nên phải nhấn mạnh khi
con muốn tả bất cứ cái gì thì các con phải hiểu rõ về cái đó. Con phải
tìm hiểu thông tin về cái đó. Có thể hỏi bạn bè, gia đình, thầy cô hay
quan sát thực tế qua môn tự nhiên xã hội, qua đọc sách, đọc báo, …
Giáo viên cần phối hợp nhiều phương pháp và hình thức dạy sao cho
bảo đảm với mục tiêu.
- Giáo viên yêu cầu học sinh có thói quen quan sát những sự vật hiện
tượng xung quanh để ghi nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết. Vì
qua thực tếm đôi khi tôi cho các em một bài tập tả một con vịt, có em
bảo là con chưa bao giờ nhìn thấy con vịt thật. Quả đúng như vậy, vì
các em được sinh ra và lớn lên ở thành phố nên các em không nhìn
thấy con vịt là cũng đáng. Bởi thế giáo viên cũng cần sưu tầm những
phim ảnh để có thể trình chiếu cho các em, cho các em quan sát vật
thật, tham quan dã ngoại … hoặc vào dịp tết các em hay được ba mẹ
cho đi tham quan tắm biển, nhân đó, giáo viên có thể yêu cầu học sinh
quan sát kỹ để có ý tưởng cho tập làm văn tả cảnh biển.
- Để các em có thể làm được một bài văn tốt, các em phải có vốn từ ngữ
phong phú. Mà vốn từ đó, có em tích lũy khá nhiều nhưng chưa biết
vận dụng. Có em thì có rất ít hoặc chưa hề có. Bởi vậy, giáo viên
chính là người cung cấp.Mà cung cấp ở đâu? Tôi nghĩ trong các bài
tập đọc có khá nhiều. Mỗi chủ đề của môn Tiếng Việt thì môn tập đọc
đều có những bài văn, bài thơ nói về chủ để đó.
- Trong các tiết dạy, giáo viên nên tập cho học sinh trả lời thành câu đủ
ý và chú ý đến những bài tập đọc có liên quan đến tiết tập làm văn.
Từ đó học sinh có thể rút ra những câu văn hay, từ ngữ đẹp và ghi nhớ
sau này vận dụng. Ví dụ : qua bài Tôm Càng và Cá Con học sinh rút
ra được đoạn văn tả về chú Cá Con trong bài “Con vật thân dẹt, trên
đầu có đôi mắt tròn xoe, toàn thân phủ một lớp vẩy bạc óng ánh”.
Vốn từ còn có trong phân môn luyện từ và câu. Giáo viên có thể cho
các em chơi trò chơi, thi đua tìm từ ngữ tả về chú cá. Các em sẽ rất
hứng thú và tìm được rất nhiều từ.
- Tạo cho các em thói quen làm văn phải có bố cục 3 phần : mở bài
(giới thiệu), thân bài (nội dung), kết luận (tình cảm) và lập sơ đồ trước
khi làm tập làm văn. Tôi xin gợi ý một cách lập sơ đồ thông qua một
trò chơi “em và chú gà” như sau . Ví dụ : Khi tả một chú gà, giáo
viên cho hai em lên sắm vai, một em là “chú gà”, một em là “người
tả”. Cùng lúc đó, giáo viên cho học sinh vẽ sơ đồ trên vở nháp.
• “Người tả” sẽ nói một câu để giới thiệu chú gà “nhà em có nuôi
một chú gà”
• Còn “chú gà” thì vừa nói vừa diễn tà : “tôi có bộ lông nhiều màu
sắc. Tôi có cái màu trên đầu. Tôi gáy rất to …”
• Người tả lúc này nói về tình cảm của mình đối với chú gà : “Em
thường rải thóc cho gà ăn …”
Hoặc có thể tinh giảm em “người tả” chỉ cần một em sắm vai “chú
gà”.
- Sau khi nghe tả và quan sát xong các em thành lập ra một sơ đồ như
sau :
- Từ đó các em đã nắm được đặc điểm của con vật cần tả mà phát triển
thành một đoạn văn. Hoặc ta có thể cho em hình thành một đoạn văn
qua trò chơi “tiếp sức”.
- Từ sơ đồ mạng đã thành lập ở trên, giáo viên yêu cầu học sinh tạo
thành câu, cứ thể nối tiếp nhau thành lập thành đoạn văn. Trong lúc
đó, giáo viên có thể ghi lại trên bảng, thế là đã có bốn đoạn văn mẫu.
Có thể câu văn lúc ấy còn lủng củng nhưng ta có thể sửa chữa.
- Trong phần giới thiệu, ta có thể gặp trường hợp sau :
Ví dụ : học sinh thành lập câu “Nhà em có nuôi một con gà”. Ta có
thể lưu ý rằng câu của con đúng nhưng chưa hay và có thể bị trùng lắp
với các bạn khác. Vậy con hãy thành lập một câu khác sao cho vừa
giới thiệu được chú gà, vừa lồng tình cảm của con vào để người đọc
cảm thấy thích thú như câu “Chú gà trống tía nhà em trông mới oai
vệ làm sao !” hoặc “ Ôi! Chú gà con nhà em sao mà ngộ nghĩnh
quá! …”
- Trong phần nội dung (quan trọng nhất) giáo viên luôn nhắc nhở học
sinh rằng nội dung thường có hai phần đó là : tả hình dáng và tả hoạt
động của con vật. Đây chính là lúc giáo viên phải khai thác triệt để
vốn sống của học sinh, đồng thời gợi mở để học sinh lĩnh hội kiến
thức mới. Đưa một số trò chơi như : viết tiếp sức một đoạn văn, sắm
vai người thân …. Để tạo sự hứng khởi trong học tập cho học sinh
đồng thời tiếp thu kiến thức một cách tự giác. Thông qua trò chơi,
Chú gà ở nhà em
Mào đỏ
Lông nhiều màu
Gáy to
Ăn thóc
Em yêu mến chú gà
Con gà
học sinh còn được phát triển cả về thể lực và nhân cách, giúp cho học
sinh học tiếng Việt một cách nhẹ nhàng hơn và tạo sự thân thiết giữa
thầy trò với nhau. Trò chơi về chú gà đã phần nào nói lên đặc điểm
của chú gà mà các em cần vận dụng để tạo thành đoạn văn. Khuyến
khích học sinh lồng cảm xúc vào bài.
- Khuyến khích học sinh diễn đạt tự do, suy nghĩ chân thật, thể hiện
thoải mái. Sau đó mới dần dần uốn nắn thì cách hành văn của các em
mới tự nhiên. Ví dụ : Khi các em nói về hoạt động của chú gà trống
như sau : “Nó đập cánh và gáy to lắm”. Ta có thể khuyến khích các
em là con tả đúng rồi nhưng nếu con sử dụng một số từ gợi tả hơn thì
chắc chắn câu văn của con sẽ hay hơn nhiều như “ nó vỗ cánh và
rướn cổ gáy vang “
- Để hỗ trợ cho học sinh, giáo viên cần cung cấp cho học sinh : Nhiều
từ ngữ gợi tả, từ láy, từ tượng thanh, tượng hình … Ví dụ : Mặt biển
xanh và rộng thành mặt biển xanh ngắt và rộng mênh mông. Nối
các câu văn lại thành những từ ngữ liên kết như : và, thì, nếu, vậy là
….
- Lưu ý học sinh trong đoạn văn tránh lặp lại từ nhiều lần mà phải thay
những từ ngữ lặp lại bằng từ có ý nghĩa tương tự , ví dụ: Bác Hồ
thành Bác, Người… thay những từ ngữ thông thường thành những từ
ngữ trau chuốt hơn. Ví dụ: buổi sáng thành buổi sớm mai, buổi bình
minh. Ví dụ: Sau khi thành lập sơ đồ mạng, có thể các em sẽ thành
lập một đoạn văn như sau : “Nhà em có nuôi một chú gà . Nó có bộ
lông màu đỏ tía. Nó gáy rất to. Em rất yêu nó”. Giáo viên có thể
khuyến khích học sinh là “con làm đúng nhưng chưa hay. Từ những ý
tưởng ban đầu của con, chúng ta sẽ hình thành một đoạn văn hay hơn
nhé : “Chú gà trống nhà em trông mới oai vệ làm sao ! Toàn thân
nó phủ một lớp lông vũ màu đỏ tía. Sáng sáng, trống tía nhảy tót
lên ụ rơm đầu hè mà rướn cổ gáy vang ò ó o. Mỗi khi đi học về,
em thường rải cho nó một ít thóc và vuốt ve cái đuôi dài, cong
cong của nó”. Khi đó, học sinh sẽ thấy được vẫn là ý tưởng cũ nhưng
đoạn văn đã được lột xác, thêm thắt những từ ngữ trau chuốt hơn làm
cho đoạn văn đẹp hơn, nghệ thuật hơn.
- Giáo viên có thể sưu tầm những bài văn hay và đọc cho học sinh nghe
để học sinh học hỏi. Trưng bày những bài văn hay của các bạn trong
lớp để các em noi gương. Tập ghi chép những từ hay, ý đẹp khi bắt
gặp ở đâu đó vào một quyển từ điển riêng của mình. Từ đó, vốn từ của
các em sẽ ngày càng nhiều, càng phong phú.
VI/ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
- Qua quá trình bồi dưỡng các em đối với môn tập làm văn tôi thấy các em
học tập tích cực hơn, hứng thú hơn, tự giác hơn. Các em không còn thấy
“sợ” học tập làm văn như trước đây nữa.
- Môn tập làm văn vì thế mà ngày càng có tác dụng giáo dục quan trọng góp
phần rất hiệu quả vào việc nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường.
- Qua kiểm tra khảo sát chất lượng cuối kì I năm học 2014-2015với đề văn
yêu cầu . Đây cũng là một trong những kết quả qua điểm số thống kê được
đối với môn tập làm văn tôi thấy chất lượng lượng môn tập làm văn đã được
nâng cao rõ rệt cụ thể như sau:
Lớp
2A
Sĩ số
34
Điểm giỏi Điểm khá Điểm trung
bình
Điểm yếu
SL TL SL TL SL TL SL TL
10 29,4% 16 47,1% 8 23,5% 0 0%
Như vậy với việc áp dụng biên pháp giúp nâng cao chất lượng bài văn miêu
tả trong dạy môn tập làm văn ở lớp 5 tôi thấy chất lượng bài làm đã được
nâng cao, cho thấy việc áp dụng thử nghiệm trên là có hiệu quả.
VII/ KẾT LUẬN
- Đề tài giúp học sinh có những bài viết sinh động,sáng tạo và mang
tính riêng biệt đã khép lại nhưng nó đã mở ra cho ta thấy việc dạy Tập
làm văn hay bất cứ phân môn nào khác dựa trên tính tích cực của học
sinh là vấn để rất cần thiết hiện nay. Nó đòi hỏi người giáo viên cải
tiến phương pháp dạy học của mình nhằm mục đích nâng cao chất
lượng và hiệu quả đào tạo. Đảm bảo mục tiêu cuối cùng của nhà
trường là đào tạo ra những con người phát triển toàn diện, hoàn thiện
năng lực ngôn ngữ của học sinh bao gồm việc làm giàu tiếng mẹ đẻ
cho các em.
- Từ đó, ta thấy được vai trò của người giáo viên rất quan trọng, chính
người giáo viên là người hướng dẫn, gợi mở, cố vấn trong các hoạt
động học tập, người mở ra khả năng tiềm ẩn của học sinh.
- Qua đề tài này, tôi mong muốn góp một phần tích cực vào việc giúp
cho học sinh làm văn tốt hơn. Tuy nhiên, với vốn kinh nghiệm còn
hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự góp ý chân
thành của thầy cô và các bạn.