1. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực quản trị rủi ro tại các NHTM Việt
Nam.
1.1. Kinh doanh trong lĩnh vực Ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt, tiềm
ẩn nhiều rủi ro
Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật kinh tế đặc thù như quy luật giá trị,
quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh...ngày càng phát huy tác dụng. Những
rủi ro trong sản xuất - kinh doanh của nền kinh tế trực tiếp hoặc gián tiếp tác
động đến hiệu quả kinh doanh của các NHTM.
Các Ngân hàng & các Định chế tài chính phi Ngân hàng trước hết là trung gian
tài chính – Chúng đứng giữa và “đứng trong vòng vây” của 4 nhóm những
người có vốn và cần vốn trong nền kinh tế gồm: Hộ gia đình, Doanh nghiệp,
Chính phủ và các nhà đầu tư nước ngoài. Sản phẩm mà các NHTM mua, bán,
kinh doanh trên thị trường là các dịch vụ lưu chuyển vốn và các tiện ích Ngân
hàng khác. Trong hoạt động tín dụng, cho dù hệ số an toàn vốn có đạt tới 8% thì
so với tài sản có, số vốn liếng của bản thân Ngân hàng chỉ là không đáng kể
(hoặc nói theo các nhà toán học thì có thể dùng cụm từ “vô cùng nhỏ bé”). Nói
một cách ngắn gọn là: Hoạt động kinh doanh của các NHTM là dùng uy tín để
thu hút nguồn và dùng năng lực quản trị rủi ro để sử dụng nguồn và phát triển
dịch vụ khác với tư cách là người “đứng giữa” các lực lượng cung và các lực
lượng cầu về các dịch vụ Ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của các NHTM do
đó bao gồm rất nhiều loại rủi ro. Bởi vậy, nhiều ý kiến cho rằng các Ngân hàng
cần đánh giá cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro - lợi ích nhằm tìm ra
những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro có thể chấp nhận
được. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà Ngân hàng gánh chịu là
hợp lý và kiểm soát được chứ không thể chối bỏ rủi ro.
1.2. Hiệu quả kinh doanh của NHTM phụ thuộc vào mức độ rủi ro
Trong hoạt động kinh doanh, Ngân hàng có nhiều yếu tố khách quan và chủ
quan mang lại rủi ro, nhiều yếu tố bất khả kháng nên không tránh khỏi rủi ro.
Chính vì vậy, hàng năm các NHTM được phép và cần phải trích lập quỹ bù đắp
rủi ro hạch toán vào chi phí. Quy mô quỹ bù đắp rủi ro căn cứ vào mức độ và
khả năng rủi ro. Nếu rủi ro thấp thì hiệu quả kinh tế sẽ tăng, và ngược lại. Như
1
vậy, hiệu quả kinh doanh của NHTM tỷ lệ nghịch với mức độ rủi ro của doanh
nghiệp. Khi rủi ro quá lớn đến mức NHTM mất khả năng thanh toán sẽ dẫn đến
phá sản doanh nghiệp.
1.3. Quản trị rủi ro tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt
động kinh doanh của NHTM
Trong quản trị NHTM, quản trị rủi ro là một nội dung quan trọng mà các cấp
lãnh đạo, quản lý, điều hành phải đặc biệt quan tâm. Vì vậy, những nhà quản trị
NHTM cần được trang bị các kiến thức về quản trị rủi ro, cung cấp những thông
tin kinh tế cập nhật, có đội ngũ tham mưu chuyên nghiệp và bộ máy kiểm tra,
kiểm soát và kiểm toán nội bộ hiệu quả là điều kiện cần thiết để phòng ngừa,
hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh – Theo đó, nhiều ý kiến khẳng
định:”quản trị rủi ro là nghiệp vụ chủ đạo và là thước đo năng lực “sống” hay là
“chết” của một NHTM”
2. Những nội dung cơ bản về quản trị rủi ro tại các NHTM
2.1. Các rủi ro trong hoạt động Ngân hàng
Có nhiều cách phân loại rủi ro, tuy nhiên trong phạm vi hoạt động của các
NHTM Việt Nam, chúng tôi thấy có thể tổng hợp thành 1 số loại rủi ro cơ bản
sau:
Rủi ro tín dụng: Rủi ro thất thoát tài sản có thể phát sinh khi một bên đối tác
không thực hiện một nghĩa vụ tài chính hoặc nghĩa vụ theo hợp đồng đối với
một Ngân hàng, bao gồm cả việc không thực hiện thanh toán nợ cho dù đấy là
nợ gốc hay nợ lãi khi khoản nợ đến hạn. Rủi ro này bao gồm cả rủi ro thanh toán
khi một bên thứ ba (ví dụ một Ngân hàng thanh toán) không thực hiện các nghĩa
vụ của mình đối với Ngân hàng này.
Rủi ro lãi suất: thể hiện rủi ro lỗ tiềm tàng của một Ngân hàng do các biến
động của lãi suất. Rủi ro lãi suất có thể có một số hình thức khác nhau, như rủi
ro xác định lại lãi suất, rủi ro đường cong lãi suất thay đổi, rủi ro tương quan lãi
suất, và rủi ro quyền chọn đi kèm.
Rủi ro thanh khoản: Phát sinh chủ yếu từ xu hướng của các Ngân hàng là huy
động ngắn hạn và cho vay dài hạn. Trường hợp này thường xảy ra nếu như các
khoản huy động về mặt kỹ thuật sẽ phải hoàn trả theo yêu cầu của người gửi
2
tiền, đặc biệt như chúng ta đã thấy trong bất cứ cuộc khủng hoảng nào thì người
gửi tiền sẽ rút tiền của mình ra nhanh hơn việc người đi vay sẵn sàng trả nợ.
Rủi ro giá cả: Đây là rủi ro về việc giá trị các tài sản của một Ngân hàng có
thể biến động. Rủi ro này xuất hiện trong tất cả các chủng loại tài sản, từ bất
động sản đến cổ phiếu và trái phiếu...
Rủi ro ngoại hối: Phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn, về loại tiền tệ của
các khoản ngoại hối nắm giữ, và vì thế làm cho Ngân hàng có thể phải gánh chịu
thua lỗ khi tỷ giá ngoại hối biến động.
Rủi ro hoạt động: Bao gồm toàn bộ các rủi ro có thể phát sinh từ cách thức mà
một Ngân hàng điều hành các hoạt động của mình. Các ví dụ về rủi ro hoạt động
là rất nhiều như: việc cấu trúc hạn mức không phù hợp trong lĩnh vực kinh
doanh nguồn vốn, quản trị tồi các quy trình quản lý tín dụng, cán bộ tham ô,
thiếu các kế hoạch khôi phục kinh doanh trong trường hợp xảy ra thảm họa...
Rủi ro pháp lý: Thường tác động tới các Ngân hàng theo hai cách:
- Các khách hàng và những người khác có thể khởi kiện Ngân hàng. Lý do
của việc khởi kiện có thể phát sinh từ quá trình hoạt động kinh doanh bình
thường, ví dụ việc Ngân hàng từ chối cấp lại hạn mức cho vay mà theo khách
hàng là vô lý. Tuy nhiên, các trường hợp có thể phát sinh từ các lý do tách biệt
khỏi hoạt động kinh doanh Ngân hàng như việc tài trợ cho những khách hàng
gây ô nhiễm môi trường có thể làm Ngân hàng bị các bên thứ ba kiện cáo...
- Khi các thu xếp pháp lý của một Ngân hàng, ví dụ, các hợp đồng cho vay và tài
sản đảm bảo tiêu chuẩn của Ngân hàng đó có vấn đề, hoặc Nhà nước thay đổi
đột ngột chính sách vĩ mô về cơ cấu kinh tế, lĩnh vực ưu tiên...điều này có thể
dẫn tới rủi ro thua lỗ cho Ngân hàng.
Rủi ro chiến lược: phát sinh từ các thay đổi trong môi trường hoạt động của
Ngân hàng trên phạm vi rộng hơn về mặt kinh doanh và tài chính. Rủi ro chiến
lược cũng có thể phát sinh từ các hoạt động của bản thân Ngân hàng. Ví dụ, việc
xâm nhập vào một thị trường mới mà thiếu sự nghiên cứu đầy đủ và thiếu các
nguồn lực cần thiết để khai thác thị trường này có thể làm Ngân hàng gặp phải
rủi ro thua lỗ.
Rủi ro uy tín: Là rủi ro dư luận đánh giá xấu về Ngân hàng, gây khó khăn
3
nghiêm trọng cho Ngân hàng trong việc tiếp cận nguồn vốn hoặc khách hàng rời
bỏ Ngân hàng.
2.2. Chương trình quản trị rủi ro
Một chương trình quản trị rủi ro toàn diện bao gồm 4 yếu tố: Xác định hạn
mức rủi ro (đưa ra mức rủi ro chấp nhận được), đánh giá rủi ro, theo dõi tổng thể
rủi ro và quá trình quản trị rủi ro.
2.2.1. Xác định hạn mức rủi ro
Các bộ phận nghiệp vụ quản trị rủi ro phải xác định hạn mức rủi ro cho bộ
phận mình, là mức rủi ro nhất định mà TCTD có thể chấp nhận được trong nỗ
lực để có được lợi nhuận, trên cơ sở sự sẵn sàng chịu đựng rủi ro và sức mạnh
tài chính của TCTD. Hội đồng Quản trị (HĐQT) theo định kỳ có trách nhiệm
xem xét lại và thông qua các hạn mức đó. Các mức này sau đó được thông báo
tới toàn bộ nhân viên các bộ phận nghiệp vụ và ban điều hành, ban điều hành
chịu trách nhiệm đảm bảo các bộ phận nghiệp vụ tuân thủ các hạn mức này. Có
tỷ lệ thưởng và phạt tính trên tổng số thấp hơn và lớn hơn tổng số vượt hạn mức
đó.
2.2.2. Đánh giá rủi ro
Việc đánh giá rủi ro đòi hỏi phải xác định được những rủi ro lớn liên quan
đến các sản phẩm, dịch vụ hay hoạt động của TCTD, phải có các chốt kiểm tra
nằm trong các quy trình nghiệp vụ (hệ thống kiểm soát nội bộ - KSNB) để kiềm
chế rủi ro trong các hạn mức đã được đề ra cùng với các biện pháp để theo dõi
các trường hợp ngoại lệ vượt hạn mức rủi ro.
Quy trình đánh giá rủi ro có 4 yếu tố: nhận biết rủi ro, định lượng rủi ro, theo
dõi rủi ro và kiểm soát rủi ro.
- Nhận biết rủi ro: Bước đầu tiên để có một chương trình quản trị rủi ro hiệu
quả là phải nhận biết và xác định được các loại rủi ro mà TCTD có thể gặp phải
thông qua phân tích đặc thù của các sản phẩm, dịch vụ và các quy trình hoạt
động
- Định lượng rủi ro: là việc đề ra và xem xét lại hạn mức rủi ro, giúp ban điều
hành xác định được rủi ro cần được ưu tiên theo dõi và kiểm soát. Hiện nay trên
thực tế có 3 phương pháp định lượng cơ bản sau:
4
+ Phương pháp thống kê: Bản chất của phương pháp này là dựa trên việc tính
toán xác suất xảy ra thiệt hại đối với những nghiệp vụ được nghiên cứu.
+ Phương pháp kinh nghiệm: Phương pháp này được hình thành trên kinh
nghiệm của các chuyên gia. Và để chính xác hơn các nhà quản trị Ngân hàng có
thể kết hợp phương pháp thống kê và phương pháp kinh nghiệm với nhau.
+ Phương pháp tính toán - phân tích: Phương pháp này dựa trên việc xây
dựng đường cong xác suất thiệt hại và đánh giá rủi ro Ngân hàng dựa trên động
thái biên thiên của đồ thị toán ứng dụng bằng phương pháp ngoại suy.
- Theo dõi rủi ro: là việc thực hiện đầy đủ các hệ thống, các thủ tục kiểm
soát, nhờ đó ban điều hành có thể theo dõi được mức rủi ro của từng lĩnh vực
kinh doanh.
- Kiểm soát rủi ro: Rủi ro được kiểm soát bằng việc thực hiện các thủ tục
nằm trong hệ thống KSNB trong các quy trình kinh doanh và hoạt động nhằm
giảm thiểu rủi ro. Chi phí cho các thủ tục kiểm soát cao có thể giảm thiểu rủi ro
tối đa nhưng hiệu quả lại thấp, ngược lại chi phí cho các thủ tục kiểm soát thấp
có thể đem lại lợi nhuận cao nhưng rủi ro cũng có thể cao. Ban điều hành phải
tìm ra sự cân bằng tối ưu giữa chi phí cho các thủ tục kiểm soát và lợi ích đem
lại từ các thủ tục đó, từ đó lựa chọn các thủ tục kiểm soát rủi ro phù hợp.
2.3. Các nguyên tắc trong việc quản trị rủi ro Ngân hàng
- Nguyên tắc chấp nhận rủi ro;
- Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép;
- Nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt;
- Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập;
- Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính;
- Nguyên tắc hiệu quả kinh tế;
- Nguyên tắc hợp lý về thời gian;
- Nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung của Ngân hàng;
- Nguyên tắc chuyển đẩy các loại rủi ro không cho phép;
3. Thực trạng công tác quản trị rủi ro tại các NHTM Việt Nam
Trong nội dung của trên 35 bài viết tham luận, hầu hết các tác giả đã đề cập
sâu rộng đến các mặt khác nhau trong vấn đề quản trị rủi ro tại các NHTM. Tuy
5
nhiên, để có tính tập trung định hướng, bài viết này xin được tóm tắt một số vấn
đề đã được bàn nhiều trong các bài viết như sau:
3.1. Thực trạng rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của TCTD, theo quy định tại
Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro
tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của
Thống đốc NHNN, là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động Ngân hàng của
TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa
vụ của mình theo cam kết. Hiện nay, dịch vụ tín dụng cho vay của các NHTM
Việt Nam vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất (trên 60%) trong danh mục tài sản có, do
đó, song song với việc tăng trưởng tín dụng, nhiệm vụ đặt ra đối với hệ thống
Ngân hàng là phải chú trọng hơn nữa đến việc áp dụng và hoàn thiện các giải
pháp nâng cao quản trị rủi ro tín dụng, như: xây dựng hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ, chính sách dự phòng rủi ro, xác định giới hạn tín dụng đối với
khách hàng, áp dụng khung sổ tay tín dụng, trong đó quy định chính sách tín
dụng của Ngân hàng, chiến lược tăng trưởng tín dụng phân theo đối tượng khách
hàng, khu vực, ngành và phát triển các chính sách khách hàng dựa vào việc đánh
giá và phân loại khách hàng, quản trị lãi suất và quản trị thanh khoản nhằm đảm
bảo tính hiệu quả và phát triển bền vững trong hoạt động tín dụng.
Trong những năm qua, hoạt động tín dụng Ngân hàng đã đạt được những
thành tựu không nhỏ đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước.
Các NHTM đã quan tâm hơn tới việc kiểm soát tỷ lệ tăng trưởng tín dụng, tập
trung vào hiệu quả của các hoạt động tín dụng. Quy trình tín dụng được thực
hiện gần hơn với chuẩn mực quốc tế. Danh mục cho vay theo nhóm khách hàng
của các NHTM tiếp tục thay đổi tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng cho vay
các doanh nghiệp Nhà nước, tăng dần tỷ trọng cho vay đối với thành phần kinh
tế phi nhà nước (tỷ trọng dư nợ tín dụng khu vực nhà nước chiếm khoảng
39%/tổng dư nợ vào 12/2002 và giảm xuống còn 34% vào 12/2004). Điều này
hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển kinh tế Việt Nam và thế giới vì khu vực
kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế năng động, phát triển nhanh và ngày càng
chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng thu nhập quốc dân. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá
6