Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Đông dương tạp chí trong tiến trình hiện đại hóa văn học việt nam 30 năm đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.51 KB, 26 trang )

1

Đông Dương Tạp chí trong tiến trình hiện đại
hóa Văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX

Hoàng Thị Cương

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam; Mã số: 60 22 34
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Trần Ngọc Vương
Năm bảo vệ: 2011

Abstract. Trình bày vai trò của báo chí trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học Việt
Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX. Nghiên cứu về Đông Dương tạp chí trong tiến trình
hiện đại hoá văn học Việt Nam. Tìm hiểu những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh - chủ
bút Đông Dương tạp chí cũng như những quan điểm và cách hành xử của ông trong bối
cảnh lịch sử mới của đất nước và quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam ba mươi năm
đầu thế kỷ XX.

Keywords. Văn học Việt Nam; Nghiên cứu văn học; Thế kỷ 20; Tạp chí Đông Dương

Content.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang đầu kỷ XX, giữa bộn bề, hoang mang của một đất nước đang dưới ách
xâm lược của thực dân Pháp, các nhà tân học đã nhận thức được vấn đề cấp thiết lúc này
là phải có văn tự riêng cho dân tộc. Chữ quốc ngữ, sau khi được giới Tân học tích cực
vận động, được giới Cựu học “thông quan” đã có sức lan toả mạnh mẽ và sâu rộng trong
xã hội. Đa số các công trình nghiên cứu về văn học đều khẳng định vai trò của chữ quốc
ngữ trong việc mở đường cho sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Nhắc đến vai trò của chữ quốc ngữ đối với sự phát triển của nền văn học hiện đại


của nước nhà chúng ta không thể không nhắc đến công cụ truyền bá nó một cách hiệu
quả nhất là báo chí. Không thể phủ nhật một sự thật lịch sử rằng, báo chí nằm trong âm
mưu “nô dịch văn hoá tinh thần người bản xứ”. Đa số những cây bút đầu tiên trên các tờ
báo đều được đào luyện từ các trường Pháp - Việt và ít nhiều được tiếp xúc với văn hoá
Pháp. Thế nhưng, bước sang những thập niên đầu của thế kỷ XX, báo chí đã phát triển
rầm rộ, “vượt thoát” ngoạn mục trở thành một thứ “công cụ không tự giác của lịch sử”,
2

góp phần quan trọng vào việc hình thành nền văn học quốc ngữ. Phần lớn các nhà nghiên
cứu đều nhất trí: “Báo chí là nơi sưu tầm và giới thiệu văn học cổ Việt Nam, giới thiệu
văn học Pháp và văn học Trung Quốc”. Ngoài ra, những khuynh hướng, những luồng tư
tưởng, những quan niệm khác nhau về văn học đều được hiện diện và quy tụ trên báo chí.
Báo chí cũng là nơi“Luyện tập câu văn và viết dần tác phẩm”. Gần một thế kỷ qua, dẫu
có nhiều luồng ý kiến khác nhau khi định “công và tội” của báo chí và những người làm
chủ bút giai đoạn giao thời, thì vai trò của báo chí trong quá trình hiện đại hoá văn học là
không thể phủ nhận.
Cho tới nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vai trò của báo chí theo
hướng sưu tầm, khảo sát ở các trường hợp cụ thể hoặc các nhóm trường hợp, tuy nhiên
với trường hợp Đông Dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh thì ít được đề cập tới. Trong
“Nhà văn hiện đại”, Vũ Ngọc Phan phân tích: Đăng cổ tùng báo, Đại Việt tân báo,
Nông cổ mín đàm… ít có tính cách văn học, hoặc nếu có, cũng không đáng kể, và việc
truyền bá học thuật tư tưởng Âu Tây thì cũng là truyền bá một cách thấp kém, phải đến
khi Đông Dương tạp chí và sau đó là Nam phong tạp chí ra đời thì “Quốc văn bắt đầu
thịnh, bắt đầu có cái giọng hoa mỹ, dồi dào và trú trọng về tư tưởng” và “phải nhờ hai
nhóm này, học thuật tư tưởng Đông, Tây mới được truyền bá một cách đúng mực bằng
quốc văn”. Còn theo đánh giá của Đỗ Lai Thủy, chủ bút của Đông Dương tạp chí,
Nguyễn Văn Vĩnh “Với tư cách là linh hồn của nó đã làm thay đổi một cục diện văn hoá
và thúc đẩy nền quốc văn đi vào con đường mới”.Nhiều tác giả nghiên cứu văn học sử
cũng có cùng quan điểm, thừa nhận sự ra đời của Đông Dương tạp chí (năm 1913) là
“cột mốc” quan trọng đánh dấu mối quan hệ mật thiết giữa báo chí với văn học, là tờ báo

mang tính chất văn học đầu tiên của Việt Nam, là nơi quy tụ được nhiều cây bút xuất sắc
như: Bưu Văn Phan Kế Bính (1875-1921), Trọng Hữu Nguyễn Đỗ Mục (1882-1951), Lệ
Thần Trần Trọng Kim (1882-1953), Ưu Thời Mẫn Phạm Duy Tốn (1883-1924), Tản Đà
Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939), Thượng Chi Phạm Quỳnh (1892-1945),…
Đóng góp của Đông Dương tạp chí và chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh trong tiến trình
hiện đại hoá văn học Việt Nam là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, cho đến nay, vấn đề
này vẫn chưa được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và có hệ thống. Đó là lý do chúng tôi
chọn đề tài “Đông Dương tạp chí trong tiến trình hiện đại hoá văn học Văn học Việt
Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX”, để nghiên cứu trong luận văn này.
3

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Đương thời, Đông Dương tạp chí và chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh được nhiều người
đề cao nhưng cũng không ít đả kích. Tội danh phản quốc, bồi bút được gán cho Nguyễn
Văn Vĩnh, hẳn một phần không nhỏ là do ông làm chủ của tờ Đông Dương tạp chí. Theo
như phân tích của Phan Khôi thì: “Nhưng, theo sự phẩm-bình chặt-chịa của một hạng
người trong nước, hạng người ấy đại-khái là nhà nho, thì ông Vĩnh dù có là hào kiệt đi
chăng nữa không là quân-tử… hạng người ấy tuy có phục ông Vĩnh về đằng tài nhưng họ
không lượng thứ cho ông về đằng tâm”. Đánh giá về Đông Dương tạp chí và Nguyễn
Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Trung viết: “Nguyễn Văn Vĩnh có thể là một nhà báo giỏi, nhưng
lại rất vụng về chính trị. Ngôn ngữ của Nguyễn Văn Vĩnh không những không tranh thủ
được ai, đặc biệt giới sĩ phu, mà còn gây thêm đố kỵ, hận thù”.
Nhiều nhà nghiên cứu văn học cũng nhận định Đông Dương tạp chí và Nguyễn
Văn Vĩnh giữ một vị trí nhất định, nhưng chỉ lướt qua. Trần Đình Hượu cho rằng:
“Trước 1913, báo chí chủ yếu giúp người đọc làm quen với chữ quốc ngữ”, Trần Thanh
Lãng nhấn mạnh “Từ năm 1913, Đông Dương tạp chí đã làm xoay chiều văn học, đã đưa
cái mới vào văn học, làm cho hai thế hệ trước và sau khác hẳn nhau. Mà người lãnh đạo
nó, linh hồn của nó chính là Nguyễn Văn Vĩnh” và Vũ Ngọc Phan khẳng định, khi Đông
Dương tạp chí ra đời thì “Quốc văn bắt đầu thịnh, bắt đầu có cái giọng hoa mỹ, dồi dào
và chú trọng về tư tưởng”.

Ngay cả những nghiên cứu gần đây nhất cũng ít nhắc tới Đông Dương tạp chí và
Nguyễn Văn Vĩnh, hoặc có nhắc tới thì cũng chỉ dừng lại ở một vài ý kiến chung chung
trong khuôn khổ của bài báo như: “Những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh với báo chí
tiếng Việt và truyền bá chữ quốc ngữ” (Nguyễn Thị Lệ Hà), “Nguyễn Văn Vĩnh, một
người Nam mới đầu tiên” (Đỗ Lai Thuý)…
Khi phân tích về những mục tiêu mà Đông Dương tạp chí đề ra, Nguyễn Văn
Trung nhận định: “Tất cả các mục tiêu mà Đông Dương tạp chí đề ra đều giống với mục
tiêu của phong trào Đông kinh nghĩa thục, trừ việc tuyên truyền cho chính phủ bảo hộ”.
Có lẽ đây chính là vấn đề khiến cho nhiều nhà nghiên cứu khi đánh giá về vai trò của
Đông Dương tạp chí cũng như những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh vẫn còn quá dè
dặt hoặc chỉ lướt qua.
4

Thực tế, có một “vùng trắng” cho cả ba giai đoạn đầu thế kỷ XX. Trong nhiều
nghiên cứu cũng như trong các giáo trình đại học khi viết về giai đoạn nhạy cảm này, về
trường hợp Đông Dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh vẫn chưa được khảo sát một cách
chi tiết, kỹ lưỡng. Những vấn đề này chỉ được khắc phục phần nào ở một số nhà nghiên
cứu “độc lập”, tuy nhiên dưới nhiều góc độ, quan điểm khác nhau, nhiều nhận định đơn
giản hóa và không ít định kiến. Phần tổng quan trong cuốn “Giáo trình Văn học Việt
Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX” của GS.TS. Trần Ngọc Vương đã phân tích diễn tiến
lịch sử một cách sâu sắc góp phần đem lại cách nhìn bớt phần định kiến, nhưng chưa đi
sâu vào Đông Dương tạp chí và trường hợp cụ thể Nguyễn Văn Vĩnh.
Trên quan điểm khách quan, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát, nghiên cứu nghiêm
túc nhằm đưa lại một cái nhìn rõ nét và bao quát hơn về những đóng góp của Đông
Dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là Đông Dương tạp chí từ khi xuất bản
(1913) đến năm (1917). Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đề cập đến nhân vật được xem là
linh hồn của Đông Dương tạp chí, Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh.
Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi sẽ khảo sát tổng quan sau đó tập chung

phạm vi nghiên cứu ở nội dung của Đông Dương tạp chí và những bài viết, những tác
phẩm, tác giả có liên quan đến các vấn đề, khía cạnh trên.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Những năm gần đây, việc nghiên cứu, đánh giá lại những vấn đề thuộc về giai
đoạn lịch sử nhạy cảm thường xuyên được đề cập. Nhiều tác giả trong các công trình
nghiên cứu vẫn ghi nhận Đông Dương tạp chí là “cột mốc” quan trọng của nền văn học
hiện đại Việt Nam, nhưng chưa có cái nhìn tổng quan, đầy đủ, đúng mức và có hệ thống.
Người làm luận văn đặt vấn đề “Vai trò của Đông Dương tạp chí trong tiến trình hiện
đại hoá văn học Việt Nam” và thực hiện những bước nghiên cứu sau:
Khảo sát, phân tích, tổng hợp, đánh giá Đông Dương tạp chí, cụ thể là những nội
dung liên quan tới sự phát triển của nền văn học.
Thu thập và hệ thống toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh trên Đông Dương
tạp chí, tìm hiểu những quan điểm và cách hành xử của ông trong bối cảnh lịch sử mới
của đất nước.
5

Thông qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi mong muốn cung cấp cho độc giả cái nhìn
sáng rõ hơn về vai trò của Đông Dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh trong quá trình hiện
đại hoá văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng chủ yếu một số phương pháp nghiên
cứu cơ bản như: Phương pháp khảo sát văn bản, hệ thống hóa chủ đề - đề tài, phân tích,
đánh giá và sử dụng tri thức liên ngành. Sử dụng phương pháp văn học sử bởi đối tượng
khảo sát là một tờ báo “cột mốc” đánh dấu sự phát triển của chữ quốc ngữ và mang tính
chất văn học đầu tiên ở Việt Nam. Và sử dụng một số phương pháp đồng đại, lịch đại và
phương pháp liên ngành khác như xã hội học, so sánh lịch sử.
6. Cấu trúc của luận văn
Chúng tôi trình bày luận văn gồm 3 phần chính:
Phần mở đầu
Phần nội dung (gồm 3 chƣơng):

Chương I: Vai trò của báo chí trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam ba
mươi năm đầu thế kỷ XX.
Chương II: Đông Dương tạp chí trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam.
Chương III: Đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh - chủ bút Đông Dương tạp chí
Phần Kết luận

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng I
VAI TRÕ CỦA BÁO CHÍ ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC
VIỆT NAM 30 NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX
Liên tục từ thế kỷ thứ X đến nửa đầu thế kỷ XIX, nền Văn học Việt Nam diễn ra
tương đối bình lặng, thế nhưng đến nửa cuối thế kỷ XIX cơn chấn động mạnh đã làm
cho nền văn học nước nhà bị lung lay tới tận gốc rễ, sụp đổ, đồng thời kiến tạo nên một
diện mạo văn học hoàn toàn khác với nền văn học cũ, và được định danh là văn học hiện
đại. Phân tích những nguyên nhân, tác động tới quá trình kiến tạo nền văn học mới, các
nhà nghiên cứu văn học sử Dương Quảng Hàm, Bùi Đức Tịnh, Lê Trí Viễn, Trần Đình
Hượu, Nguyễn Đình Chú, Lê Chí Dũng, Bằng Giang… đều cho rằng không thể bỏ qua
6

mảng báo chí quan trọng này. Song việc đề cập đến vai trò của báo chí cũng chỉ dừng lại
trong những đề mục hoặc “gạch đầu dòng”. Ở luận văn này, chúng tôi nghiên cứu vấn đề
theo hướng từ tổng quan đến cụ thể. Từ vai trò của báo chí nói chung, sau đó cụ thể hóa
trong “Đông Dương tạp chí”, tờ báo có tính chất “chuyên ngành”, và hoạt động của chủ
bút Nguyễn Văn Vĩnh. Nhưng trước hết, chúng tôi sẽ tổng quan lại diện mạo văn học
Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX.
1. Diện mạo nền văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX
“Một nền văn học mang tính quốc gia - dân tộc, vận động trong quỹ đạo của
vùng văn học châu Á” đang dần bị phân rã để kiến tạo một hệ thống thi pháp mới theo
mô hình văn học châu Âu và hòa nhập vào quỹ đạo văn học thế giới. Ở giai đoạn giao
thời, ba mươi năm đầu thế kỷ XX chúng ta được “chứng kiến một tình trạng hỗn dung

của ít nhất hai hệ hình văn học”, đó là sự hỗn dung của hai nền văn học cũ và mới, của
quan điểm tư tưởng thẩm mĩ, đội ngũ tác giả, khuynh hướng sáng tác, thể loại và ngôn
ngữ.
1.1. Hình thành quan niệm văn chương là dành cho đại chúng, lấy đời sống hiện
thực và những con người của cuộc sống đời thường làm trung tâm của các sáng tác, đồng
thời làm đối tượng phục vụ. Văn chương là một nghề để kiếm sống, người cầm bút viết
văn là những nhà chuyên môn chuyên nghiệp. Hệ thống chủ đề trong văn học giai đoạn
này không chỉ mang nhiều yếu tố khác biệt mà còn mở rộng, thiết lập những chủ đề mới
về tiến hóa xã hội, về yêu nước, về những vấn đề diễn ra trong cuộc sống đời thường…
Mặc dù các nhà nho, khoa bảng vẫn còn nặng về “văn dĩ tải đạo”, “thi ngôn chí”
như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… nhưng ít nhiều đã bị chi phối bởi ý thức hệ tư
sản, do đó những lý tưởng, quan niệm cũ tưởng như đã ăn sâu vào tiềm thức có những
biến đổi, ý thức đem văn chương phục vụ mục đích chính trị, đấu tranh, tuyên truyền.
1.2. Văn học ba mươi năm đầu thế kỷ XX vận động theo hai khuynh hướng,
khuynh hướng văn học thuyền thống và khuynh hướng văn học mới. Giữa các sáng tác
của hai khuynh hướng này lại có sự giao thoa, đan xen về hệ thống thi pháp. Xu hướng
vận động của văn học truyền thống dần bị thu hẹp và biến mất, xu hướng văn học mới
ngày càng phát triển và chiếm lĩnh văn đàn.
1.3. Văn học hiện đại giai đoạn này chưa thoát khỏi dấu ấn của những thể loại đã
trở thành điển phạm trong văn chương truyền thống như: văn chính luận, thơ chữ Hán,
7

diễn ca lục bát, ngâm khúc, hát nói, vè, liệt truyện. Các thể loại: truyện dịch, truyện thơ
quốc ngữ, du kí, thơ viết bằng văn vần có sự tương tác, dung hòa giữa yếu tố truyền
thống và hiện đại. Văn học Việt Nam giai đoạn này cũng đã xuất hiện nhiều thể loại mới:
Truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, ký, thơ…
1.4. Trong mấy thập kỷ đầu của thế kỷ XX, văn học Việt Nam được sáng tác bằng
cả chữ Hán và chữ quốc ngữ. Nhưng về sau, lực lượng sáng tác và những tác phẩm bằng
chữ quốc ngữ dần lấn át chữ Hán. Chữ quốc ngữ được văn học hiện đại lựa chọn làm
“chất liệu nền”.

Mấy thập niên đầu thế kỷ XX được các nhà nghiên cứu tiêu biểu như Trần Đình
Hượu, Lê Chí Dũng gọi là giai đoạn “giao thời” chuẩn bị cho việc xác lập từng bước,
từng bộ phận, xây dựng nền móng cho cả “tòa nhà” văn học hiện đại. Thành quả nổi bật,
kết quả “chín muồi” thì phải tới sau 1932, nhưng đương nhiên sẽ không có kết quả đó
nếu không có sự chuẩn bị tích cực, ráo riết, không có những “công lao bị quên lãng” của
mấy mươi năm trước đó.
2.Vai trò của báo chí trong quá trình hiện đại hóa nền văn học
2.1. Sự ra đời của báo chí
2.1.1. Ngay khi đặt chân lên đất Nam kỳ, 29-9-1861 thực dân Pháp đã cho xuất
bản tờ báo bằng tiếng Pháp Le Bullelin Officie de l’ expedition de la Co-chichine (Công
báo của đội quân viễn chinh Nam kỳ). Chỉ ít năm sau đó, Gia Định báo, tờ báo tiếng Việt
đầu tiên ra đời, mở đầu cho âm mưu đưa văn hóa Pháp và chữ quốc ngữ vào quỹ đạo
xâm lăng văn hóa Việt Nam. Đội ngũ viết báo người Việt được đào tạo, bộ phận báo chí
tiếng Việt, tiếng Hán được thiết lập.
2.1.2. Ban đầu việc Việt Nam tiếp nhận báo chí là khiên cưỡng, bắt buộc. Tuy
nhiên, về sau, những nhà nho, chí sĩ yêu nước, tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh… và những người tân học cũng bắt đầu cảm nhận được sức mạnh của báo chí phục
vụ cho mục đích tuyên truyền canh tân đất nước đã chủ đón nhận, sử dụng và khai thác.
2.1.3. Một số tờ báo quan trọng và quá trình phát triển của báo chí:
Nông cổ mín đàm (1901-1924) (Nam Kỳ), Đại Nam đồng văn nhật báo (xuất
bản khoảng 1892) (Bắc Kỳ), Đăng cổ tùng báo, (1907) (tờ báo quốc ngữ đầu tiên ở Hà
Nội), Lục tỉnh tân văn (1907-1944) (Nam Kỳ). Đông Dương tạp chí (1913-1917),
Nam Phong tạp chí (1917-1934) (Hà Nội).
8

Giai đoạn 1919 - 1924, theo thống kê trong Lịch sử báo chí Việt Nam của Đỗ
Quang Hưng, có 26 tờ báo và tạp chí mới ra đời, nhiều hơn 20 tờ so với tổng số báo, tạp
chí xuất bản 54 năm (1865-1919). Xuất hiện những thể loại mới, văn hóa, giáo dục, khoa
học và thể dục thể thao. Một số tờ báo tiêu biểu như: Thực nghiệp dân báo (1920-1922),
Khai hóa (1921-1928), Hữu thanh (1921-1924)…

Giai đoạn 1925-1930, có 40 tờ báo, tạp chí mới xuất bản công khai và hợp pháp.
Tiêu biểu là các tờ báo Tiếng dân (1917-1943), L’ Annam, Hà Thành ngọ báo, Đông Tây
tuần báo, Tân thế kỷ, Phụ nữ tân văn, An Nam tạp chí… Bên cạnh đó đã xuất hiện dòng
báo chí bí mật không hợp pháp, mở đầu là báo Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập.
Như vậy, về hình thức, báo chí phát triển từ công báo, bán công báo đến báo, tạp
chí; từ nhật báo, tuần báo, nguyệt san, bán nguyệt san, tạp chí; từ báo chí nhà nước đến
báo chí tư nhân. Về nội dung: Ngoài những mục mang tính quan báo, thời sự, còn có các
mục luận thuyết, triết học, khoa học, văn chương khoa, sư phạm học khoa, và hầu hết các
tờ báo đều có mục Văn uyển.
Từ việc gieo mầm báo chí, nhằm sử dụng báo chí như là một công cụ đắc lực thực
hiện âm mưu xâm lăng về văn hóa, Pháp nhanh chóng nhận thấy nguy cơ phát triển của
báo chí và tìm mọi cách phong tỏa. Thế nhưng, sự ra đời của hàng trăm tờ báo ở ba thập
kỷ này cho thấy báo chí đã phát triển ngoài sức tưởng tượng của thực dân, trở thành
“công cụ không tự giác” mà Pháp khó có thể đặt lại vào vòng kiểm soát. Cuộc “vượt
thoát” ngoạn mục của báo chí không chỉ có ý nghĩa văn hóa xã hội, mà nó còn có ý nghĩa
mở đường cho quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc.
2.2. Vai trò của báo chí trong quá trình hiện đại hóa nền văn học
2.2.1. Báo chí là môi trƣờng xuất hiện, tồn tại và phát triển của văn học quốc
ngữ.
Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương đã chỉ ra báo chí là sự manh nha của một nền
văn học mới:“Hầu như ngay từ buổi đầu của sự xuất hiện và lưu hành báo chí, một thứ
văn học mới khác xa với văn học truyền thống đã gắn với loại phương tiện mới đó mà
nảy mầm”. Gia Định báo, sau 4 năm đã mở thêm các mục khảo cứu, nghị luận, thơ ca
đăng sáng tác của các danh sĩ Nam Kỳ như Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của… “Chính
thơ văn, truyện cổ tích và những bài nghiên cứu về lịch sử nước nhà được đăng trên tờ
báo lúc này… đã góp phần khai sinh nền quốc văn mới”.
9

Lần lượt các tờ báo Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn (ở Nam kỳ,) Đại Nam
đồng văn nhật báo, Đăng cổ tùng báo, Đại Việt tân báo, Trung Bắc tân văn (ở Bắc

Kỳ),… đều có mục đăng tải các thể loại truyện kể, truyện ngắn, thơ ca, câu đối… Đặc
biệt là sự ra đời của hai tờ báo có tính chất chuyên ngành, Đông Dương tạp chí (1913) và
Nam Phong tạp chí (1917) thì “Quốc văn bắt đầu thịnh, bắt đầu có cái giọng hoa mỹ dồi
dào và chú trọng về tư tưởng”.
Tổng tập văn học Việt Nam (văn học báo chí Việt Nam 1900-1945) (Nguyễn
Thành cb), đã tập hợp từ hệ thống báo chí ba thập niên đầu thế kỷ XX hàng trăm trang
tác phẩm đơn thuần viết bằng chữ quốc ngữ không “dính dáng gì đến chính trị” với nội
dung và thể loại vô cùng phong phú, đa dạng.
Về công tác bảo tồn vốn cổ có những tên tuổi như: Nguyễn Văn Ngọc, Phan Kế
Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Phan Khôi Độc giả cũng được thưởng thức tiểu thuyết cổ điển,
tác phẩm văn học cận hiện đại của Trung Quốc thông qua các bản dịch của Phan Kế
Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Hữu Tiến… Đặc biệt, nhiều tác
phẩm văn học Pháp được dịch và đăng tải, mà công lao phải kể đến là Nguyễn Văn Vĩnh
và các tờ Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí… đã khơi thông một dòng chảy cho
văn học Việt Nam gia nhập vào dòng chảy chung của văn học thế giới.
Quá trình “luyện tập câu văn và viết dần tác phẩm” trên báo chí giai đoạn này
diễn ra sôi nổi. Ở Nam Kỳ, hàng loạt tác phẩm của Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu,
Trương Duy Toản, Hồ Biểu Chánh, Trương Vĩnh Ký… được đăng tải trên Nông cổ mín
đàm, Lục tỉnh tân văn… Ở Bắc kỳ, phong trào sáng tác nở rộ, trên Đông Dương tạp chí,
Nam Phong tạp chí… liên tục xuất hiện những tác phẩm văn xuôi quốc ngữ của Phạm
Duy Tốn, Tản Đà, Nguyễn Văn Vĩnh, Hoàng Ngọc Phách, Phạm Quỳnh, Đông Hồ,
Tương Phố. Xuất hiện nhiều thể loại: tản văn, truyện, ký, tiểu thuyết, bình luận.
Về mặt ngôn ngữ, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đánh giá: “Người ta đã thấy từ
đời Đại Việt tân báo và Đại Nam đồng văn nhật báo đến thời Đông Dương tạp chí, chỉ
trong khoảng bảy tám năm, quốc văn đã tiến bộ rất mau. Năm 1907, người ta thuật có
vài chục dòng về Denis Papin cũng không nên lời mà năm 1913, Nguyễn Văn Vĩnh và
Phan Kế Bính đã có thể dùng quốc văn để dịch hài kịch của Moliere và những bài Hán
văn rất là chải chuốt. Đến Nam Phong ra đời quốc văn lại cao thêm một bậc nữa”.
10


Điểm lại văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, chúng ta nhận thấy, hầu hết các
tác phẩm văn chương hay và có giá trị đã gây được những ảnh hưởng lớn và sâu sắc đối
với nền văn học hiện đại đều được đăng tải trên báo chí, 2.2.2. Vai trò của báo chí với
quá trình hình thành lực lƣợng sáng tác văn học hiện đại.
Giới tân học làm báo nhưng lại có ý thức hoạt động tích cực để xây dựng nền
quốc văn. Từ Trương Vĩnh Ký, đến Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn,
Hoàng Ngọc Phách,… không chỉ tích cực nghiên cứu, dịch thuật, giới thiệu văn hóa, tư
tưởng phương Tây, tác phẩm văn học nổi tiếng của Pháp mà còn tiến hành những thể
nghiệm văn học mới, đưa sáng tác mới lên mặt báo, nhằm kiến tạo một mô hình văn học
hiện đại. Đây là ngũ tác giả văn học trưởng thành từ báo chí, trở thành lực lượng sáng tác
quan trọng của văn học hiện đại.
Những nhà nho cuối mùa như Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính, Nguyễn Bá Học,
Nguyễn Hữu Tiến… hởi với công cuộc tổng duyệt lại văn chương truyền thống và bảo
tồn vốn cổ bằng cách chuyển dịch ra chữ quốc ngữ trên báo chí. Họ trở thành những cây
bút có tiếng trong lĩnh vực biên khảo.
Những tác giả tiêu biểu của dòng văn học yêu nước cách mạng đầu thế kỷ XX như
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng… Đội ngũ tác giả
này muốn tìm một con đường văn chương mới, một công cụ truyền bá rộng rãi để phục
vụ cho mục đích cổ động cách mạng và truyền bá tư tưởng, tinh thần yêu nước tới quần
chúng nhân dân.
Báo chí là môi trường nuôi dưỡng, đào tạo và hình thành đông đảo đội ngũ tác giả
văn học hiện đại; là nơi nương náu, chuyển mình của đội ngũ tác giả truyền thống. Thông
qua hệ thống báo chí giai đoạn 1900-1930, chúng ta có thể hình dung một cách tương đối
đầy đủ gương mặt tác giả văn học đương thời, thậm chí, còn “có thể hình dung toàn bộ
văn nghiệp của tác gia văn học”. Và, vượt khỏi khung khổ thời gian, báo chí giai đoạn
này còn có tác động, ảnh hưởng tới đội ngũ tác giả văn học sau 1930 như: Nguyễn Công
Hoan, Vũ Đình Long, Tam Lang, Thái Phỉ…
2.2.3. Sự tác động của báo chí đến quá trình hình thành thể loại văn học.
Từ sau “ngôi sao băng” Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản xuất hiện
trên báo năm 1887, và những thể nghiệm tiếp theo như: Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian

truân (Trương Duy Toản, Nam Kỳ); Nam Hải dị nhân (1907), Hưng Đạo đại vương
11

(1909-1912) của Phan Kế Bính ở Bắc Kỳ; truyện ngắn của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy
Tốn, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Quả dưa đỏ của
Nguyễn Trọng Thuật… thì phong trào sáng tác truyện ngắn, tiểu thuyết bắt đầu lan rộng
trong cả nước.
Loại hình nghệ thuật kịch của phương Tây được đưa vào thể nghiệm, tiêu biểu là
kịch của Vũ Đình Long, Nam Xương, Tản Đà, Tương Phố,…
Nhiều tác phẩm mang tính ghi chép như Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Dậu (Trương
Vĩnh Ký), Hương Sơn hành trình (Nguyễn Văn Vĩnh), Hạn mạn du ký (Nguyễn Bá
Trác),… thể ký chính thức xuất hiện trong văn học quốc ngữ.
Như vậy, thông qua thể nghiệm trên báo chí: “Cấu trúc của hệ thống thể loại của
nền văn học mới đã thực sự Âu hoá, gom đủ diện mạo của những thể loại và thể tài chính
yếu: tự sự, trữ tình, kịch” (Giáo trình văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX,
Trần Ngọc Vương)

Chƣơng II
VAI TRÕ CỦA ĐÔNG DƢƠNG TẠP CHÍ TRONG QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HOÁ
VĂN HỌC VIỆT NAM 30 NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX
1. Tiền đề, tôn chỉ mục đích và sơ bộ hệ thống chuyên mục của Đông Dƣơng tạp
chí
1.1. Những tiền đề dẫn tới sự ra đời của Đông Dƣơng tạp chí.
Một là, báo chí vẫn nằm trong âm mưu “nô dịch văn hoá” mà Pháp cho rằng là cách
tốt nhất để kiểm soát chặt chẽ lòng yêu nước của nhân dân ta.
Hai là, trong khi chữ Hán cùng với đội ngũ nhà nho ngày một bị thu hẹp thì chữ
quốc ngữ gắn liền với đội ngũ tân học lại dần được mở rộng. Những luồng tư tưởng mới,
chất liệu ngôn ngữ mới (chữ quốc ngữ) cần phải có môi trường để thể nghiệm, chính điều
này đã góp phần thúc đẩy báo chí phát triển.
Ba là, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác in ấn, xuất bản, phát hành báo chí được

xây dựng, thiết lập là cơ sở cho sự phát triển của báo chí.
Bốn là, trước tinh thần phản kháng của các phong trào yêu nước, Pháp đã “vội
vàng” cho xuất bản Đông Dương tạp chí. Theo thâm ý chủ quan ban đầu của Pháp là:
“Đem văn chương học thuật, đem ân huệ văn minh của nhà nước Lang Sa mà khua sáo
12

cho lấp được những lời gây loạn”. Trong khi đó, giới duy tân, mà tiêu biểu là Nguyễn
Văn Vĩnh cũng lựa chọn báo chí làm diễn đàn. “Đối với những người Việt Nam cộng tác,
đứng đầu là Nguyễn Văn Vĩnh, hẳn các ông cũng muốn lợi dụng báo để làm nơi tuyên
truyền cho việc duy tân đất nước và xây dựng văn học mới ”
1.2. Tôn chỉ mục đích của Đông Dƣơng tạp chí
Ngày 15 tháng 5 năm 1913, Đông Dương tạp chí chính thức ra đời, do
F.H.Schneider làm chủ, Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút. Đông Dương tạp chí là tờ báo
tiếng Việt đầu tiên xuất bản ở Hà Nội, xuất bản vào thứ 5 hàng tuần.
Trong số báo thứ 2, ra ngày 22/5/1913, ở mục “Chủ-nghĩa”, tôn chỉ, mục đích của
Đông Dương tạp chí được đưa ra như sau: “Phổ biến văn hoá Tây phương, cổ động học
chữ quốc ngữ, giới thiệu hiến thức thực nghiệp như canh nông, công nghệ và tuyên
truyền cho chính phủ bảo hộ”.
Trong quá trình phát triển, tôn chỉ, mục đích của Đông Dương tạp chí có phần
thay đổi. Nội dung tuyên truyền cho chính phủ bảo hộ dần bị thu hẹp, thay vào đó là nội
dung văn chương, học thuật nhằm dựng một nền quốc văn mới.
1.3. Cách trình bày,hệ thống chuyên mục trên Đông Dƣơng tạp chí.
Về cách thức trình bày, chúng ta có thể xem cụ thể ở hình tư liệu.
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, Đông Dương tạp chí xuất bản năm 1913 và đình
bản vào năm 1919. Nhưng tìm hiểu nguồn tư liệu tại Thư viện Quốc gia Hà Nội và Trung
tâm Lưu trữ Quốc gia I, chúng tôi chỉ khảo sát được những số báo xuất bản từ năm 1913-
1917, trong đó có nhiều số báo không được lưu trữ. Cụ thể, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia
I chỉ lưu trữ một vài tập báo của năm 1913, 1915 nhưng rất rời rạc, một số tài liệu tiếng
Pháp thuộc phông Thống sứ Bắc Kỳ (hồ sơ 79456) như công văn của Toàn quyền Đông
Dương gửi Thống sứ Bắc Kỳ cho xuất bản Đông Dương tạp chí bằng chữ quốc ngữ

truyền bá ở Bắc Kỳ (16/1/1913), thư của tòa công sứ Hải Dương và một số quan lại đánh
giá về Đông Dương tạp chí. Thư viện Quốc gia Hà Nội lưu trữ được phần lớn số lượng
báo của các năm 1913, 1914, 1916, 1917. Riêng năm đình bản của tờ tạp chí này vẫn
đang để dấu hỏi (?), chưa được xác định rõ ràng.
Từ năm 1913 (số 1- số 33) đến năm 1914 (số 34 – số 52): Đông Dương tạp chí
có khổ lớn, số lượng từ 16 đến 24 trang, nhiều chuyên mục và có sự thay đổi thêm bớt
trong quá trình phát triển. Song về cơ bản, trong hai năm này, Đông Dương tạp chí vẫn
13

giữ nhiều chuyên mục ổn định là: Kính Khai, Cẩn cáo,Thời sự tổng thuật, Điện báo,
Quan báo lược lục, Đông Dương thời sự, Nhời đàn bà, Văn chương, Tự do diễn đàng,
Dưỡng anh nhi pháp, Việc buôn bán, Luân lý học, Sách dạy tiếng An-nam.
Năm 1915: Đông Dương tạp chí có sự thay đổi cả hình thức lẫn nội dung. Về
khuôn khổ, Đông Dương tạp chí từ cỡ lớn được đổi thành cỡ nhỏ, đóng thành tập như
sách, khoảng 40 trang, ra hàng tuần. Về nội dung chủ yếu đề cập tới văn chương, học
thuật. Hệ thống chuyên mục bao gồm: Pháp văn, Hán văn, Gương phong tục, Chuyện
Hoa tiên, Kim-Vân-Kiều, Bình phẩm sách mới, Văn Nôm cổ, Văn Nôm đàng trong.
Năm 1916 (từ số 51 đến số 104): Hệ thống chuyên mục của năm 1916 chúng tôi
không nắm bắt được do Thư viện Quốc gia chỉ còn lưu giữ chuyên mục Văn chương (cổ
kim văn hợp thái) gồm các nội dung: Pháp văn, Hán văn, văn Nôm, Gương phong tục,
Kim-Vân-Kiều, Bình phẩm sách mới.
Năm 1917 (số 104 đến số 134): Gồn các chuyên mục: Tiểu thuyết tây diễn nôm,
Tiểu thuyết tàu, Tân học văn tập (Văn quốc ngữ, cách trí, tập đọc, giảng nghĩa và học
thuộc lòng, Nam sử), Văn chương (Pháp văn, Hán văn, Kim Vân Kiều, Bình phẩm sách
mới), Công văn tập, Thiệt hành điện học.
Như vậy, 2 năm đầu (1913-1914), Đông Dương tạp chí đóng vai trò của một tờ
báo cung cấp nội dung khá phong phú về mọi mặt đời sống xã hội lúc bấy giờ. Từ năm
1915 trở đi, Đông Dương tạp chí tập chung vào nội dung dịch thuật đăng tải các tư
tưởng học thuật và đặc biệt đi sâu vào đề tài văn chương.
Về nguyên nhân tờ Đông Dương tạp chí dần bị thu hẹp, GS. Trịnh Vân Thanh,

Nguyễn Văn Trung và nhiều ý kiến khác cho rằng: Những cây bút của tờ báo này chỉ cốt
thực hiện một nền quốc văn mới cho dân tộc, hoặc là do sự không khéo léo của Nguyễn
Văn Vĩnh và Đông Dương tạp chí về “làm chính trị” đã khiến Pháp cần có một tờ báo
khác khôn khéo hơn, nhằm tranh thủ hơn là đả kích, chủ trương dung hòa Đông - Tây
hơn là đồng hóa âu hóa. Đó phải là một “tờ báo quốc ngữ có lãnh đạo tốt và kiểm soát
cẩn thận” (báo cáo gửi Phủ toàn quyền ngày 15-11-1915 của Thống sứ Bắc Kỳ Le
Gallen)



14

2. Vai trò của Đông Dƣơng tạp chí trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt
Nam 30 năm đầu thế kỷ.
Chúng tôi hệ thống lại và nghiên cứu vai trò của Đông Dương tạp chí trong tiến
trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc ở những đóng góp cụ thể sau:
1. Góp phần xây dựng “chất liệu nền” cho văn học hiện đại - văn chương quốc ngữ.
2. Sưu tầm, dịch thuật và đăng tải các bài viết tư tưởng học thuật phương tây, nhiều
tác phẩm văn chương tiếng Pháp, chữ Hán, Nôm, chữ Trung Quốc.
2.1. Góp phần xây dựng “chất liệu nền” cho văn học hiện đại - văn chƣơng quốc
ngữ.
Ngay từ những số báo đầu tiên, Đông Dương tạp chí hết sức cổ động học chữ
quốc ngữ. Đăng các bài viết phân tích sự cần thiết và quan trọng của chữ quốc ngữ đối
với dân tộc, cái lợi, cái hay của việc học chữ quốc ngữ. “Mở ngay tờ nhật báo này ra mà
ngẫm xem bấy nhiêu điều luận trong báo, thử nghĩ: giá thử luận bằng chữ Nho thì có
mấy người đọc được, mà trong những người đọc được, thì có mấy người hiểu cho hết
nghĩa. Thế mà chữ Quốc ngữ, thì không những là người biết chữ Quốc ngữ đọc được,
hiểu được, một người đọc cả nhà nghe cùng hiểu được, từ đàn ông cho đến các bà trẻ
con cũng nghe được…”.
Công cuộc truyền bá chữ quốc ngữ được thực hiện như sau: Trong số 15 ra ngày

21/8/1913, Đông Dương tạp chí cho đăng “bảng thứ nhất” dạy 23 chữ cái, các số đếm
đơn giản từ 1 đến 9. Số 16 ra ngày 28/8/1913, Đông Dương tạp chí tiếp tục cho đăng
“bảng thứ nhì” - lối viết các chữ cái. Đông Dương tạp chí còn có “sách dạy các quan
Tây”, dùng cho quan tây học tiếng An-nam và cho người An-nam học tiếng Lang-sa.
Bên cạnh đó, vấn đề ngữ pháp tiếng Việt, chính tả, cách đặt câu, cách viết,… cũng
được Đông Dương tạp chí đưa ra bàn luận: “Nay bản báo lấy việc cổ động cho chữ Quốc
ngữ làm chủ nghĩa, tưởng cũng nên đem hết các khuyết điểm, các nơi không tiện ra mà
bàn lại để ai nấy lưu tâm vào đó, thì dễ có ngày tự dưng chẳng phải ai làm mà chữ
Quốc ngữ tự đổi dần dần đi”.
Đông Dương tạp chí (số 42, ngày 5/6/1914) mở thêm mục “Tân học văn tập” do
các viên hội trí-tri soạn, mục đích:“Soạn một ít bài về phép giáo dục luân lý, về cách trí,
toán-phép, địa-dư, sử-ký và bài luận để giúp các thầy học bậc ấu học, tiểu học… qua báo
chí có thể học thêm nhiều điều”.
15

Trên mỗi số báo ra lại có một đề bài và hướng dẫn cách làm cùng với bài văn
mẫu. Câu văn quốc ngữ trong Đông Dương tạp chí thời gian đầu vụng, lủng củng,
thường dùng ngôn ngữ nói trong hành văn, khiến câu văn trúc trắc, khó hiểu. Về sau,
những bài viết đã được diễn đạt trôi chảy, dễ hiểu, trau chuốt hơn, câu văn quốc ngữ càng
trở nên thành thục, mượt mà, uyển chuyển và sâu sắc.
2.2. Sƣu tầm, dịch thuật và đăng tải các các bài viết tƣ tƣởng học thuật phƣơng
Tây, các tác phẩm văn chƣơng Hán Nôm, Pháp, Trung Quốc
Khối lượng công việc vận động cho nền quốc văn mới mà Đông Dương tạp chí đã
làm khá đồ sộ và đa dạng. Vì thế để giúp người đọc có thể hình dung được những đóng
góp của Đông Dương tạp chí ở hai nhóm việc sau:
2.2.1. Dịch thuật, đăng tải các tư tưởng học thuật phương tây
Ban đầu, nội dung này rải rác ở các số 2, 5, 8, đến số báo 16 (ra ngày 21/8/1913)
việc dịch và cho đăng tải nội dung tư tưởng học thuật phương Tây mới có hệ thống,
thông qua “Luân lý học”, “Triết học yếu lược” (sử dụng cả tiếng Pháp và chữ quốc ngữ)
nhằm hướng người đọc tới nhận thức mới về tư tưởng, đạo lý, đạo đức, những hiểu biết

về nhân sinh quan và thế giới quan.
2.2.2 Sưu tầm, dịch thuật, đăng tải các tác phẩm văn chương Pháp, Hán Nôm, Trung
Quốc.
Đây là nhiệm vụ trọng tâm mà Đông Dương tạp chí hướng tới. Qua khảo sát,
chúng tôi thấy nội dung này xuất hiện đều đặn trên tất cả các số báo ra của Đông Dương
tạp chí. Bắt đầu từ số 2, Đông Dương tạp chí cho đăng mục “Văn-chương” (gồm Pháp
văn tạp thái và Nam văn tạp thái, in cả tiếng Pháp và chữ quốc ngữ) do Nguyễn Văn
Vĩnh trực tiếp chịu trách nhiệm. Năm 1913 - 1914 mục này chiếm khoảng 1 trang, đến
năm 1917 chiếm khoảng 11 trang.
Đối với văn chƣơng Pháp: “Mỗi kỳ bản-báo lựa văn hay Lang-sa, dịch ra quốc-
âm một bài, in vào mục này để cho các bậc tài hoa nước Nam xét cái thần tình văn
chương Đại-Pháp”. Những tác phẩm nổi tiếng như truyện Gil-Blas de Santillane của
Lesage, Thơ ngụ ngôn của La Fontaine, Miếng da lừa của Banzắc,… lần lượt được dịch
và đăng tải trong mục Pháp văn tạp thái về sau là Pháp văn (1915), Tiểu thuyết tây diễn
nôm (1917).
16

Đối với văn chƣơng Việt Nam: Mở ra các chuyên mục Nam văn tạp thái, Hán
văn, Chuyện Hoa tiên, văn Nôm cổ, văn Nôm Đàng Trong, giới thiệu nhiều tác giả nổi
tiếng Lê Quý Đôn, Nguyễn Khuyến,… nhằm bảo tồn vốn cổ. Mở ra diễn đàn văn chương
“Từ phú thi ca” cho các văn sĩ đương thời. Không chỉ thế, Đông Dương tạp chí đã làm
được một việc hết sức lớn lao, mà không báo nào, tác giả nào có thể làm được, đó là việc
dịch tác phẩm “Kim - Vân - Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du ra tiếng Pháp.
Năm 1913-1914, văn chương, học thuật chỉ chiếm khoảng 2-5 trang. Năm 1915
trở đi, hệ thống chuyên mục của Đông Dương tạp chí hoàn toàn về văn chương và sư
phạm, mang tính chất của một tờ báo chuyên ngành. Năm 1916, chuyên mục Văn chương
có khoảng 9 - 12 trang. Toàn bộ số báo ra năm 1917 có 5 chuyên mục chính hoàn toàn
dành cho văn chương học thuật.

Chƣơng III

VAI TRÕ CỦA NGUYỄN VĂN VĨNH
- CHỦ BÖT ĐÔNG DƢƠNG TẠP CHÍ
1. Con ngƣời và sự nghiệp.
Nguyễn Văn Vĩnh (1882 – 1936), quê gốc thuộc phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông
(nay là huyện Phú Xuyên, Hà Nội). Sinh ra trong một gia đình nghèo, đông anh em. Năm
8 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh làm kéo quạt ở trường thông ngôn của Pháp. Thông minh và
ham học, Nguyễn Văn Vĩnh được đặc cách nhận học bổng của khoá học thông ngôn toà
sứ (1893 - 1895) và đỗ thủ khoa của toàn khóa năm 13 tuổi.
Năm 1896 ông bắt đầu làm thông ngôn tại các Tòa công sứ Lào Cai, Tòa công sứ
Hải Phòng, Toà sứ Bắc Giang… đồng thời tham gia sáng lập nhiều tổ chức như: Hội Trí
Tri, Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, Thư viện bình dân, Hội dịch sách, Hội giúp đỡ
người Việt đi sang Pháp học đại học và kỹ thuật,…
Năm 1906, Nguyễn Văn Vĩnh được sang Pháp. Cuộc tiếp xúc, va chạm với nền văn
minh hiện đại phương tây đã tác động sâu sắc tới tư tưởng, hành động của Nguyễn Văn
Vĩnh. Ông đăng ký xin gia nhập và trở thành hội viên An Nam đầu tiên của Hội Nhân
quyền Pháp và kế hoạch canh tân đất nước được vạch ra.
Năm 1907, sau khi về nước, Nguyễn Văn Vĩnh quyết định từ bỏ con đường quan
chức, bước sang lĩnh vực báo chí để hiện thực hóa lý tưởng truyền bá chữ quốc ngữ,
17

truyền bá học thuật phương Tây, gây dựng một nền văn minh, hiện đại cho nước nhà.
Ông vận động đổi mới tờ báo chữ Hán “Đại Nam đồng văn nhật báo” thành tờ báo quốc
ngữ đầu tiên lấy tên là “Đăng cổ tùng báo”. Tiếp đó, Nguyễn Văn Vĩnh xin xuất bản các
tờ Nhật báo của chúng ta, Tạp chí của chúng ta. Năm 1911, ông được Schneider mời vào
Sài Gòn làm Chủ bút tờ Lục tỉnh tân văn. Năm 1913, ông trở lại Hà Nội làm Chủ bút tờ
tuần báo Đông Dương tạp chí và được coi là linh hồn của tờ báo này. Năm 1914, ông
kiêm luôn chức chủ bút tờ Trung Bắc tân văn. Năm 1919, Nguyễn Văn Vĩnh làm Chủ
nhiệm tờ Học báo. Cũng trong năm này, Nguyễn Văn Vĩnh mua tờ Trung Bắc tân văn,
đây là tờ nhật báo đầu tiên ở Bắc Kỳ. Năm 1931, Ông làm Chủ nhiệm kiêm chủ bút ông
tờ An Nam Nouveau (An Nam mới).

Bên cạnh hoạt động về báo chí, Nguyễn Văn Vĩnh còn tham gia thành lập nhà in, tổ
chức xuất bản sách dịch, tổ chức diễn thuyết hô hào lập các hội dịch sách, đem các sách
phổ thông pháp học dịch ra chữ quốc ngữ để truyền bá cho người mình biết tư tưởng và
văn chương phương Tây, lập tủ sách Âu Tây tư tưởng (La pensée de l’Occident)…
Như vậy, cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh trải qua hai mốc quan trọng.
Một là bước chân vào học và làm nghề thông ngôn; hai là chuyển sang nghề làm báo.
Đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh trong tiến trình hiện đại hoá nền văn học dân tộc gắn
liền với nghề làm báo này. Trong luận văn này, chúng tôi chỉ nghiên cứu những đóng
góp của Nguyễn Văn Vĩnh trong quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam trong khuôn
khổ của Đông Dương tạp chí.
Về văn học
Đóng góp lớn nhất cho văn học là công tác dịch thuật.
Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch và cho đăng tải nhiều tác phẩm văn học phương Tây
như: Thơ ngụ ngôn của La Fontaine, Truyện trẻ con của Perraut, truyện Gil Blas de
Sautilane của Lesage (4 quyển), Manon Lescaut của Abbé Prévost (5 quyển), Những kẻ
khốn nạn củaV.Hugo, Miếng da lừa của H.Balzac Những bộ sách dịch này làm cho
người đọc cảm nhận được cái hay, cái đẹp của văn học phương Tây, từ đó dấy lên niềm
ham mê đọc sách, sáng tác văn học theo cách viết, tư duy hiện đại, bỏ qua lối viết cũ
dềnh dàng với những câu văn biền ngẫu. Từ những năm 1920 trở đi, một đội ngũ nhà văn
trẻ được hình thành chính nhờ hấp thụ các dịch phẩm văn học phương Tây trên báo chí.
18

Nguyễn Văn Vĩnh là người duy nhất đã dịch Truyện Kiều từ chữ Nôm sang chữ
quốc ngữ, sau đó lại kỳ công chuyển tải tác phẩm văn học bất hủ này sang tiếng Pháp,
khởi đăng từ 1913 đến tận năm 1917. Ngoài ra ông còn thể nghiệm những sáng tác mới,
tiêu biểu như tập ký sự Hương Sơn hành trình (Đông Dương tạp chí, số 41-45).
Với tư cách là chủ bút của Đông Dương tạp chí, Nguyễn Văn Vĩnh đã chủ trương
đổi mới văn thơ, du nhập nhiều thể loại mới đồng thời thể nghiệm những sáng tác mới
phong phú và hấp dẫn, dần trở thành món ăn tinh thần, là sách học tập cho nhiều đối
tượng độc giả.

Chữ quốc ngữ
Quá trình hoạt động cổ vũ, truyền bá và cải tiến chữ quốc ngữ của Nguyễn Văn
Vĩnh cũng chính là hoạt động cổ vũ, truyền bá và cải tiến chữ quốc ngữ của Đông Dương
tạp chí (chúng tôi đã phân tích ở chương II). Mặc dù không đi tiên phong nhưng Nguyễn
Văn Vĩnh thực sự là người có công lớn trong công cuộc biến chữ quốc ngữ thành văn tự
chính thống của dân tộc.
Nguyễn Văn Vĩnh được đánh giá là người nhiễm Tây học từ trong ra ngoài, bản
thân ông cũng luôn tự khẳng định mình là người An Nam mới. Không chỉ tự “cách tân”
bản thân mình, bỏ búi tó, khăn xếp, bỏ áo dài, mặc quần áo theo kiểu Âu, đội mũ cát két,
cắt tóc ngắn, đi giầy da, dùng xe môtô Nguyễn Văn Vĩnh còn đem luồng văn hóa, tư
tưởng học thuật phương tây mà trải nghiệm và thấm nhuần lần lượt truyền tải tới độc giả.
2. Đánh giá về Nguyễn Văn Vĩnh qua thời gian.
2.1. Nguyễn Văn Vĩnh qua cái nhìn của ngƣời đƣơng thời
Những người đương thời như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Trọng
Kim, Dương Bá Trạc, Đào Hùng, Nguyễn Hữu Tiến, Trần Tuấn Khải, hay các tờ báo
thời bấy giờ như Trung-Bắc, Sài-gòn, Đuốc Nhà Nam đến cả những người Pháp như
M.Demas (Chủ tịch hội Nhân Quyền, chi hội Hà-Nội), Henry Tirad (nhà báo lão thành)
đều khâm phục tài năng và tôn trọng tư cách của Nguyễn Văn Vĩnh, đồng thời đánh giá
cao ông trong hoạt động vận động phát triển báo chí, chữ quốc ngữ, gây dựng một nền
quốc văn mới. Về mặt chính trị, mặc dù không được đồng tình ủng hộ, nhưng ông cũng
nhận được những cảm thông.
19

Một số học giả miền Nam hay Phan Khôi cho rằng Nguyễn Văn Vĩnh mặc dù có
tài nhưng cũng chỉ là tay sai của Pháp và tờ Đông Dương tạp chí công cụ tuyên truyền để
chống lại quan điểm yêu nước và cách mạng.
2.2. Đánh giá của các nhà nghiên cứu văn học sử
Những nhà nghiên cứu trước cách mạng tháng tám như Dương Quảng Hàm, Vũ
Ngọc Phan đánh giá cao đóng góp của Đông Dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh ở
phương diện văn học, ngôn ngữ, nhưng không đề cập đến bối cảnh lịch sử hay những liên

hệ chính trị.
Theo đánh giá của nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ: Về tư tưởng, Nguyễn Văn Vĩnh
có thể coi là người tiêu biểu cho một phong trào duy tân cấp tiến tại nước Việt vào đầu
thế kỷ 20. Về đường văn học, trong quá trình hình thành nên một nền văn học mới, ông
còn là chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi cho việc truyền bá chữ quốc ngữ, bước đầu làm
ra một tờ báo rất bổ ích cho văn mới lúc phôi thai, đó là tờ Đông Dương tạp chí.
Ở Bảng lược đồ Văn học Việt Nam, Thanh Lãng viết: “….Cho nên khi về nước,
thay vì tiếp tục cộng tác với Pháp để được vinh thân phì gia, ông lại bỏ nghề quan
trường để dấn thân vào cuộc đấu tranh văn hóa, mà khí giới của ông là báo chí và ấn
phẩm Có thể thấy ở Nguyễn Văn Vĩnh, một thế hệ mới mà tâm tưởng khác hẳn thế hệ
xưa. Trước đây, tư tưởng “Hợp tác với Pháp để duy tân xứ sở” do Tôn Thọ Tường đề
xướng bị người đời lên án, thì đến thời ông Vĩnh được coi là cần yếu, vì mọi cuộc khởi
nghĩa đều lần lượt bị thất bại đau đớn.
Nguyễn Văn Trung có những đánh giá khá gay gắt, xem Đông Dương tạp chí là ấn
phẩm cổ vũ cho lập trường phản quốc, phản dân tộc và lên án “Nguyễn Văn Vĩnh là
người theo tây học hoàn toàn, cho rằng phải âu hóa mới mong tiến được. Một thái độ về
chính trị và về văn hóa như thế (dám chửi cả Phan Bội Châu) trước mắt giới sĩ phu, chỉ
là thái độ của một kẻ vong bản nịnh hót tâng bốc quan thầy đến nỗi làm cho chủ đọc đến
phát ngượng”.
2.3. Những đánh giá về Nguyễn Văn Vĩnh trong mấy thập kỷ gần đây
Trong xu thế đổi mới và cởi mở, vài thập kỷ trở lại đây, một số vấn đề của quá
khứ được nhìn nhận, xem xét lại, theo đó, vấn đề về Nguyễn Văn Vĩnh cũng được nhiều
nhà nghiên cứu hiện nay quan tâm. Có nhiều đánh giá cảm thông và bênh vực sự lựa
chọn và thái độ chính trị của Nguyễn Văn Vĩnh lúc bấy giờ. GS.Nguyễn Huệ Chi cho
20

rằng, mặc dù Nguyễn Văn Vĩnh chọn con đường “công khai dựa vào Pháp để canh tân
đất nước” “nhưng ông đã hai lần từ chối Bắc đẩu bội tinh của họ”. Nhà văn Vũ Bằng tỏ
thái độ thán phục: “Những lời đe dọa, khi thì sỗ sàng, khi thì mềm dẻo của nhà cầm
quyền Pháp hồi đó, kéo dài không ngớt trong cuộc đời ông. Vậy mà, thà là chịu khổ sở,

thiếu thốn, hiểm nghèo, chớ không chịu vị tình người Pháp hay vì tiền của họ mà thay đổi
lập trường, chí hướng ”. Nhà văn Hoàng Tiến viết, Nguyễn Văn Vĩnh đáng được ghi
công đầu trong công cuộc bắc chiếc cầu nối văn hóa Đông Tây Tại triển lãm Báo chí
quốc ngữ Việt Nam năm 2010, chân dung Nguyễn Văn Vĩnh và hai tờ Đăng cổ tùng báo,
Đông Dương tạp chí được đặt ở vị trí trang trọng. Trong buổi tọa đàm, các nhà nghiên
cứu Lại Nguyên Ân, Phạm Xuân Nguyên, nhà báo Yên Ba, Giáo sư Đỗ Quang Hưng đều
nhắc lại những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh trên hai tờ báo, đóng góp hoàn thiện văn
phạm và hệ thống chữ quốc ngữ; đóng góp trong việc tập chung và hình thành một đội
ngũ nhà văn, nhà báo mới; và khẳng định, đỉnh cao của chữ quốc ngữ không gì khác
chính là tờ Đông Dương tạp chí.
3. Tiểu kết đánh giá về Nguyễn Văn Vĩnh.
Đương thời, Nguyễn Văn Vĩnh đã sớm nhận ra thực trạng của đất nước: “Từ chế
độ học thuật, văn chương đến phong tục, tính tình ở chỗ nào so với phương tây cũng là
kém là thua, cũng xấu, cũng hủ, cũng cần phải sửa đổi”. Để rồi, suốt cuộc đời Nguyễn
Văn Vĩnh đã lao động và hoạt động không mệt mỏi vì trách vụ mà ông đã tự giao cho
chính mình: canh tân đất nước, đổi mới xã hội. Chúng tôi đánh giá đóng góp của ông ở
các phương diện sau:
Là một nhà báo tài năng, một người có công lớn trong việc phát triển báo chí tiếng
Việt.
Là một dịch giả lớn, là chiếc cầu nối văn hóa Đông - Tây. Thông qua dịch thuật ông
đã truyền tải được một khối lượng kiến thức khổng lồ về văn học, văn hoá, tư tưởng
phương Tây. Ông dịch tất cả các thể loại, không chỉ riêng tiếng Pháp mà cả chữ Hán, chữ
Nôm, và dịch ngược từ chữ Nôm ra chữ Pháp, nổi tiếng và kỳ công nhất là dịch Truyện
Kiều sang tiếng Pháp.
Là người có những đóng góp không nhỏ cho quá trình cổ vũ, truyền bá và cải tiến
chữ quốc Ngữ.
21

Là một trong những người đặt viên gạch nền móng xây dựng cho văn học hiện đại
Việt Nam.

Ở vào hoàn cảnh lúc bấy giờ, thay vì lựa chọn đấu tranh giải phóng dân tộc,
Nguyễn Văn Vĩnh đã chọn đấu tranh vì sự tiến bộ xã hội. nhìn lại lịch sử, nhìn lại chặng
đường hình thành và phát triển một nền văn hóa thuần túy quốc gia, một nền văn học
hiện đại có ngôn ngữ riêng cho dân tộc thì nhiệt huyết ấy đáng được ghi nhận và cần phải
ghi nhận.

PHẦN KẾT LUẬN
1. Phác thảo lại bức tranh văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX, chúng tôi
muốn đưa người đọc trở về với giai đoạn giao thời, văn học Việt Nam đang trong tình
trạng hỗn dung của “ít nhất hai hệ hình văn học” và thấy được nền văn học chữ Hán gắn
với thi pháp trung đại đang dần bị triệt tiêu và nền văn học quốc ngữ theo hệ thống thi
pháp hiện đại đang dần được kiến tạo, mà báo chí đã trở thành tác nhân có tác động sâu
sắc tới cuộc “giao tranh” ấy.
Có thể nói, quá trình phát triển của báo chí chính là quá trình mở đường cho sự
phát triển của chữ quốc ngữ. Hầu hết trên các tờ báo, tạp chí đều không thể thiếu các
chuyên mục truyện kể, truyện ngắn, thơ ca, câu đối… “chất liệu nền” của văn học hiện
đại được thể nghiệm, luyện tập, câu văn quốc ngữ cũng dần được gọt rũa mà trở nên
tường minh hơn. Thông qua hệ thống báo chí chúng ta nhận thấy hàng loạt các áng thơ
văn kiệt tác của Việt Nam, văn học Trung Quốc, hệ thống tác phẩm văn học Pháp và đặc
biệt là liên tục xuất hiện những sáng tác văn thơ mới quốc ngữ. Dường như văn học chui
vào báo chí và hầu như mọi tác phẩm văn học đầu thế kỷ XX trước khi in thành sách đều
lần lượt đăng tải từng kỳ trên mặt báo.
Cũng trên hệ thống báo chí, chúng ta có thể hình dung một cách đầy đủ những
gương mặt của văn học đương thời. Đội ngũ tác giả tiêu biểu của dòng văn học yêu nước
cách mạng đầu thế kỷ XX, những cây bút biên khảo như và đội ngũ tác giả sáng tác theo
phương pháp hiện đại. Về mặt thể loại, hàng loạt những thể nghiệm sáng tác mới trên báo
dần tạo nên phong trào sáng tác trên phạm vi cả nước, qua đó nền văn học mới đã gom
đủ diện mạo của những thể loại và thể tài chính yếu: tự sự, trữ tình, kịch.
22


2. Gây dựng một nền quốc văn mới, cho đến những thập niên đầu thế kỷ XX, hầu
như chỉ mới là việc của một vài cá nhân, một vài nhóm người nào đó chứ chưa phải là
tinh thần chung của nhiều người, của toàn dân tộc. Nói như vậy để thấy, trong giai đoạn
lịch sử “giao thời” với những biến đổi phức tạp và sâu sắc ấy, có được một tờ báo trong
suốt nhiều năm ròng hăng hái, miệt mài, chuyên tâm gây dựng “một nền quốc văn mới”
thực là hiếm có. Nhưng Đông Dương tạp chí đã làm được.
Trong quá trình phát triển, mục đích của Đông Dương tạp chí đã có sự thay đổi
khá lớn. Các mục tiêu về phổ biến văn hóa phương Tây, cổ động học chữ quốc ngữ, giới
thiệu kiến thức thực nghiệp canh nông, công nghệ, gây dựng nền quốc văn mới ngày
càng được chú trọng. Riêng mục tiêu tuyên truyền cho chính phủ bảo hộ được đề ra ban
đầu và cũng được thực hiện rất sôi nổi lúc ban đầu dường như đi dần vào lãng quên.
Cổ động, truyền bá chữ quốc ngữ được xem như là một trong những nhiệm vụ
quan trọng mà Đông Dương tạp chí đã đề ra. Đông Dương tạp chí còn được sử dụng thay
cho sách giáo khoa để dạy chữ quốc ngữ và dạy văn.
Thực hiện công cuộc truyền bá học thuật tư tưởng, văn hóa, văn học phương Tây,
số lượng tác phẩm được dịch và đăng trên Đông Dương tạp chí khá quy mô và đồ sộ, tư
tưởng học thuật hay văn chương đều chiếm vị trí ổn định trên tờ báo. Đông Dương tạp
chí không chỉ tạo thầy mà còn tạo ra trò, các thành viên hội trí tri, khởi thuỷ viết những
bài tác văn quốc ngữ đầu tiên tả cảnh, thuật sự đã làm mẫu mực dạy trẻ nhỏ viết quốc
văn. Nhiều nhà văn sau này (lớp sau 1932) như Thái Phỉ, Tam Lang đã thú nhận họ được
đào tạo từ tấm bé trong cái trường ấy.
3. Lấy quốc ngữ làm chuông cảnh tỉnh khua vang ngõ hẹp hang cùng
Đem báo chương thay đuốc văn minh soi sáng miền Nam cõi Bắc
Sự phát triển của chữ quốc ngữ không thể không gắn với công lao của Nguyễn Văn
Vĩnh. Thông qua dịch thuật ông đã truyền tải được một khối lượng kiến thức khổng lồ về
văn học, văn hoá, tư tưởng phương Tây và dịch ngược từ chữ Nôm ra chữ Pháp, ông là
chiếc cầu nối văn hóa Đông - Tây.
Với tư cách là chủ bút của Đông Dương tạp chí, Nguyễn Văn Vĩnh không chỉ
thành công trong vai trò của một nhà báo, góp phần phát triển báo chí tiếng việt, mà ông
còn chủ trương đổi mới văn thơ, du nhập nhiều thể loại mới đồng thời thể nghiệm những

23

sáng tác mới phong phú và hấp dẫn, dần trở thành món ăn tinh thần, là sách học tập cho
nhiều đối tượng độc giả.
Cùng với Đông Dương tạp chí, Nguyễn Văn Vĩnh đã trở thành người đặt viên gạch
nền móng xây dựng cho văn học hiện đại Việt Nam. Nhìn lại lịch sử, nhìn lại chặng
đường hình thành và phát triển một nền văn hóa thuần túy quốc gia, một nền văn học
hiện đại có ngôn ngữ riêng cho dân tộc thì nhiệt huyết ấy đáng được ghi nhận và cần phải
ghi nhận.
4. Nghiên cứu một đối tượng thuộc về giai đoạn giao thời nhạy cảm, những tài liệu
nghiên cứu về Đông Dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh rải rác và lướt qua; mặt khác,
tại hai trung tâm lưu trữ lớn là Trung tâm lưu trữ Quốc gia và thư viện Quốc gia nguồn
văn bản này không lưu giữ được hoàn chỉnh, trọn bộ; chúng tôi cũng không thể tiếp cận
văn bản gốc. Tuy nhiên, với quá trình làm việc nghiêm túc và nghiên cứu kỹ lưỡng
nguồn văn bản được phép tiếp cận, chúng tôi, trong khuôn khổ luận văn cố gắng hệ thống
lại một cách cơ bản nhất góp thêm một cách nhìn mới công bằng và khách quan về
những gì mà Đông Dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh đã đóng góp cho quá trình hiện
đại hóa nền văn học dân tộc trong giai đoạn giao thời. Dù sao, chúng tôi vẫn hy vọng và
mong muốn sẽ tìm ra đầy đủ hơn nguồn tài liệu về trường hợp này để nghiên cứu nhiều
hơn và sâu hơn nữa về tờ tạp chí nhiều gian truân và thú vị này.

References.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại: nhận thức và thẩm định, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Đông Dương tạp chí (1913, 1914, 1916, 1917) (vi phim), Thư viện Quốc gia, Hà Nội.
3. Đông Dương tạp chí (1915), Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I.
4. Hồng Chương (1985), Báo chí Việt Nam, NXB sự thật.
5. Hồng Chương (1987), Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, sách giáo khoa Mác.
6. Phạm Văn Diên (1953), Việt Nam Văn học giảng bình, NXB Tân Việt.

7. Nhiều tác giả (2007), Kỷ yếu hội thảo “100 năm Đông Kinh nghĩa thục”.
8. Phông Tòa sứ Bắc Giang- Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I
9. Lê Bá Hán (cb) (1997), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia.
24

10. Trần Thị Ngọc Hà, Vấn đề bảo tồn vốn cổ trên Nam Phong tạp chí, Luận văn thạc
sĩ.
11. Nguyễn Thị Lệ Hà, Những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh với báo chí tiếng Việt
và truyền bá chữ quốc ngữ”, Viện sử học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
12. Cao Thị Hảo (2009), Quá trình hình thành và phát triển của văn xuôi quốc ngữ Việt
Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Luận án tiến sĩ ngữ văn.
13. Nguyễn Văn Hạnh, Về tiến trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam. Giáo sư, Viện
Phát triển bền vững vùng Nam Bộ, Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn Việt Nam.
14. Dương Quảng Hàm (1996), Việt Nam Văn học sử yếu, NXB Hội nhà văn.
15. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900
- 1930, NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
16. Đỗ Quang Hưng (cb) (2000). Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 – 1945. NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, in lần 2.
17. Phông Thống Sứ Bắc Bộ, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I
18. Thanh Lãng, Văn học khởi thảo, văn chương bình dân.
19. Mã Giang Lân (cb) (2000), Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900 - 1945,
NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
20. Phong Lê (1997), Trên quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX,
Tạp chí Văn học, số 1, Hà Nội.
21. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), Quá trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam đầu thế
kỷ XX, Tạp chí văn học, số 5, Hà Nội.
22. Đặng Thái Mai (1944), Văn học khái luận, NXB Knxb.
23. Nguyễn Phong Nam (2008), Nghiên cứu về quá trình hiện đại hóa Văn học Việt
Nam - một số vấn đề phương pháp luận, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà
Nẵng, số 5.

24. Từ điển văn học Việt Nam (1997), NXB Giáo dục, Hà Nội.
25. Viện văn học Việt Nam (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Phạm Thế Ngũ (1965), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, NXB Quốc
học tùng thư.
27. Bùi Văn Nguyên, Phê bình, bình luận văn học.
25

28. Vương Trí Nhàn (2006), Vai trò của trí thức trong quá trình tiếp
nhận văn hóa phương Tây ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, Nghiên cứu văn học, số 7 Hà Nội.
29. Vương Trí Nhàn (2006), Đi tìm một cách tiếp nhận đặc trưng cho văn học Việt Nam,
Nghiên cứu văn học số 7, Hà Nội.
30. Vương Trí Nhàn (2001),, Tìm nghĩa khái niệm hiện đại trong văn học sử Việt Nam,
Tạp chí văn học số 1, Hà Nội.
31. Vũ Ngọc Phan (1994), Nhà văn hiện đại, NXB Văn học
32. Phan Quang (2001), Về diện mạo báo chí Việt Nam: tiểu luận và chân dung, NXB
Chính trị Quốc gia.
33. Lê Văn Siêu (2006), Văn học sử Việt Nam, NXB Văn học.
34. Thiếu Sơn (1933), Phê bình và cảo luận, NXB Nam Bộ.
35. Bùi Đức Tịnh (2002), Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết và thơ
mới, NXB TP.Hồ Chí Minh.
36. Huỳnh Văn Tòng (1962), Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945, NXB
Trí Đăng, Saigon.
37. Nguyễn Thành (cb) (1997), Tổng tập văn học Việt Nam (văn báo chí Việt Nam
1900 - 1945), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
38. Chương Thân (1982), Đông Kinh nghĩa thục và phong trào cải cách văn hóa đầu thế
kỷ XX, NXB Hà Nội.
39. Nguyễn Thành Thi, Lược đồ văn học quốc ngữ Việt Nam nhìn từ quá trình hình
thành và tương tác thể loại, Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
40. Nguyễn Ngọc Thiện (cb) (1997), Tuyển tập nghiên cứu phê bình, nghiên cứu văn

học Việt Nam (1900 - 1945). NXB Văn học.
41. Đỗ Lai Thuý, Nguyễn Văn Vĩnh, một người Nam mới đầu tiên, Tạp chí Tia sáng.
42. Lê Ngọc Trà (2000), Về khái niệm hiện đại hóa văn học, Tạp chí Văn học, số 6, Hà
Nội.
43. Trần Thị Trâm (1994), Vai trò của báo chí trong quá trình phát triển của văn học dân
tộc từ thế kỷ XX, Tạp chí Văn học, Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Trung, Chủ đích Nam Phong.
45. Nguyễn Văn Trung, Lục châu học, Internet.

×