Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

luận văn quản trị kinh doanh Đề án phát triển thị trường tiêu thụ nước giải khát tại các doanh nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.57 KB, 60 trang )

Trờng đại học kinh tế quốc dân

nguyễn văn thành

phát triển thị trờng tiêu thụ nớc giải khát
tại các doanh nghiệp việt nam


N MễN HC
Nguyễn Văn Thành
!"#$!#
%&'()*%+,% /Ngô Việt Nga
0'123456%,,%78(%9:::;<#
Hà nội - 2011
=0=
=>? @A
DN Doanh nghiệp
EBIT Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
ROA Hệ số sinh lợi tổng tài sản
ROE Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu
TSCĐ Tài sản cố định
TSLĐ Tài sản lưu động
VCSH Vốn chủ sở hữu
VLĐ Vốn lưu động
BA2C>DE
+,F%-G,HIJ3-
Trong nền kinh tế thị trường, vốn là yếu tố cơ bản, là tiền đề cần thiết đối với
việc hình thành và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp.
Từ khi doanh nghiệp được thành lập, người chủ của doanh nghiệp đã phải đối mặt
với việc tìm nguồn vốn từ đâu, bằng hình thức huy động nào? với chi phí bao


nhiêu? Khi triển khai kế hoạch kinh doanh, các doanh nghiệp cũng phải có một
lượng vốn để hình thành nên những tài sản cần thiết cho hoạt động của doanh
nghiệp nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh đặt ra.
Cùng với sự phát triển không ngừng của mỗi doanh nghiệp, nhu cầu, quy mô
về vốn vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng không ngừng tăng
lên. Như vậy, vốn có ý nghĩa đặc biệt, tồn tại trong mọi hoạt động của doanh nghiệp
và quyết định sự phát triển của doanh nghiệp.
Những công ty xây dựng có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân, những doanh nghiệp này từ trước đến nay có sự đóng góp hết sức to lớn đối với
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhằm mục tiêu đẩy mạnh sự phát
triển của nghành xây dựng trong nước góp phần trở thành một trong những đầu tàu
của nền kinh tế nước nhà, những công ty này cần có tiềm lực tài chính mạnh và có thể
mở rộng hoạt động sang lĩnh vực mới. Để hiện thực hóa mục tiêu đặt ra đòi hỏi các
công ty xây dựng Việt Nam phải có lượng vốn lớn để tiến hành các hoạt động sản
xuất, đầu tư, mở rộng sang lĩnh vực mới, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh
tranh … Vì vậy, hoạt động huy động vốn tại những công ty này có ý nghĩa đặc biệt,
quyết định đến thành công của công ty.
Nói chung, tăng cường huy động vốn tại các công ty xây dựng là thực sự cần
thiết, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của mỗi công ty nói riêng và toàn
ngành nói chung.
i
KL:
0M0N CO2P2P Q
RS
:/:/ TI%(% 1
1.1.1. Khi nim
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học phương tây, có hai hình thức sở hữu
trong hoạt động kinh doanh là sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân. Ở Việt Nam,
các nhà kinh tế cho rằng có ba hình thức sở hữu trong hoạt động kinh doanh là: sở
hữu công cộng, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, ngoài ra còn có rất nhiều hình thức

kết hợp. Theo các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp được hình thành và
được pháp luật thừa nhận.
Có rất nhiều quan điểm về doanh nghiệp, đứng trên mỗi quan điểm khác
nhau thì có một định nghĩa khác nhau về doanh nghiệp.
Theo Điều 4 Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua ngày 29/11/2005: “Doanh
nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh”.
Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tát cả các công đoạn
của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên
thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Có thể hiểu một cách chung nhất, doanh nghiệp là đơn vị kinh tế, quy tụ các
phương tiện về tài chính, vật chất và con người nhằm thực hiện các hoạt động sản
xuất, cung ứng, tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ, trên cơ sở tôn trọng luật pháp, tối
đa hóa lợi ích người tiêu dùng, thông qua đó tối đa hóa lợi nhuận của chủ sở hữu,
đồng thời kết hợp hợp lý các mục tiêu xã hội.
1
Theo đó, doanh nghiệp có một số đặc điểm hoạt động như sau:
- Chức năng sản xuất – kinh doanh.
- Tối đa hóa tiêu dùng đi kèm tối đa hóa lợi nhuận và hướng tới mục tiêu xã
hội nhất định.
- Tồn tại, phát triển và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
1.1.2. Phân loại doanh nghip
Có nhiều cách phân loại doanh nghiệp khác nhau dựa trên các tiêu thức khác
nhau như hình thức sở hữu vốn, quy mô, địa vị pháp lý …
* Căn cứ vào hình thức sở hữu vốn
Đây là cách phân loại phổ biến nhất hiện nay, doanh nghiệp được chia thành
hai loại hình doanh nghiệp chính là doanh nghiệp một chủ sở hữu và doanh nghiệp
nhiều chủ sở hữu.

- Doanh nghiệp một chủ sở hữu gồm:
+ Doanh nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư góp vốn,
thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc công ích nhằm thực hiện
cách mục tiêu kinh tế - xã hội.
+ Doanh nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp tư nhân là đơn vị kinh doanh có mức vốn tối thiểu theo quy
định của Luật do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu gồm: Công ty và hợp tác xã
* Căn cứ vào quy mô
Với mỗi quốc gia có một tiêu chí riêng để phân loại căn cứ vào số vốn và số
lao động.
2
Ở Việt Nam: Các doanh nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước, Công ty
cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên doanh, doanh
nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp có quy mô lớn là doanh nghiệp có khoảng 500 lao
động và 100 tỷ đồng tiền vốn trở lên.Trường hợp còn lại được coi là doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
1.1.3. Vai trò của doanh nghip trong nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường.
Trong đó, các quan hệ kinh tế, phân phối sản phẩm, lợi ích đều do các quy luật của
thị trường điều tiết và chi phối.
Trong nền kinh tế, và đặc biệt là kinh tế thị trường, doanh nghiệp càng có vị trí
đặc biệt, có vai trò quan trọng và là chủ thể chính của nền kinh tế. Doanh nghiệp và
nền kinh tế tạo ra một quy trình khép kín từ nhu cầu hàng hóa, sản xuất, phân phối,
tiêu thụ hàng hóa. Đối với mỗi nền kinh tế, doanh nghiệp là chủ thể chính tạo ra các
sản phẩm cho nền kinh tế và có đóng góp lớn nhất trong tổng sản phẩm trong nước.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp có xu hướng quy mô ngày
càng lớn, tích tụ và tập trung được khối lượng tư bản khổng lồ, hoạt động của doanh

nghiệp góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nhiều
nguồn lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào tăng trưởng kinh
tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả
các vấn đề xã hội như: tạo công ăn việc làm, xoá đói, giảm nghèo …
Doanh nghiệp còn là yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch các cơ
cấu lớn của nền kinh tế quốc dân như: Cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu ngành
kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng lãnh thổ.
Doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất công nghiệp tăng
nhanh là nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu mà kinh tế thị trường đặt
ra với khối lượng sản phẩm lớn, chất lượng cao, nâng cao mức sống, chất lượng
sống cho mỗi quốc gia, nâng cao hiệu quả và giữ vững ổn định kinh tế.
3
Kinh tế thị trường có tác động trở lại làm cho các doanh nghiệp cạnh tranh
và phát triển hơn.
Có thể nói vai trò của doanh nghiệp không chỉ quyết định sự phát triển bền
vững về mặt kinh tế đối với kinh tế thị trường, đối với nền kinh tế mà còn quyết
định đến sự ổn định và lành mạnh hoá các vấn đề xã hội, cụ thể:
- Giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của người lao
động. Cùng với sự phát triển về số lượng DN, quy mô của các doanh nghiệp ngày
càng được mở rộng, nhu cầu lao động tăng nhanh đã giải quyết được nhiều việc làm
với thu nhập cao hơn cho người lao động.
- Doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển là yếu tố quyết định đến tăng
trưởng cao và ổn định của nền kinh tế. Khi DN phát triển nhanh cả về chiều rộng và
chiều sâu, các DN tạo ra khối lượng hàng hoá và dịch vụ lớn hơn, phong phú hơn,
chất lượng tốt hơn, thay thế được nhiều mặt hàng phải nhập khẩu, góp phần quan
trọng cải thiện và nâng cao mức tiêu dùng trong nước và tăng xuất khẩu làm cho
nền kinh tế ổn định và phát triển hơn.
- Doanh nghiệp phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu trong nền kinh tế
quốc dân và trong nội bộ mỗi ngành. DN được phát triển nhanh và rộng khắp ở các
ngành và các vùng miền tạo ra phân công lại lao động giữa các ngành, các khu vực

từ ngành, khu vực lao động có năng suất thấp, thu nhập không cao, chiếm số đông,
thiếu việc làm sang khu vực doanh nghiệp, nhất là công nghiệp và dịch vụ có năng
suất cao và thu nhập khá hơn.
- Phát triển doanh nghiệp tác động đến giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội. DN
tạo ra ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại mặt hàng, chất lượng hàng hoá,
dịch vụ được nâng lên, do đó đã giải quyết cơ bản nhu cầu tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ
ngày càng cao của toàn xã hội, góp phần nâng cao mức sống vật chất của dân cư và
tăng nhanh lượng hàng hoá xuất khẩu. Hơn nữa, DN có đóng góp lớn cho ngân sách
Nhà nước, và không ngừng được tăng lên là điều kiện để đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng, phát triển các hoạt động xã hội công như y tê, giáo dục, xoá đói giảm nghèo …
4
:/#/ 78JU(V,HI)TI%(% 1
1.2.1. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghip
Vốn của doanh nghiệp được biểu hiện bằng giá trị của toàn bộ tài sản trong
doanh nghiệp, được doanh nghiệp sử dụng một các hợp lý và có kế hoạch vào hoạt
động kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi.
Trong các doanh nghiệp, vốn có vai trò đặc biệt quan trọng và là yếu tố cơ
bản đầu tiên, là điều kiện không thể thiếu để doanh nghiệp được thành lập, tiến hành
sản xuất kinh doanh và mở rộng phát triển.Vốn có các đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: Vốn đại diện cho một lượng tài sản nhất định
Để tiến hành sản xuất, các doanh nghiệp dùng vốn để tài trợ mua sắm các tài
sản bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định. Các tài sản tham gia vào quá trình
sản xuất và được thu hồi lại dưới dạng giá trị.
Thứ hai: Vốn có giá trị về mặt thời gian và phải được vận động để sinh lời.
Qua quá trình sản xuất kinh doanh, vốn được bỏ ra và thu hồi với một lượng
vốn lớn hơn ban đầu.
Thứ ba: Vốn phải được tích tụ và tập trung với một lượng nhất định.
Để mang lại hiệu quả cao trong kinh doanh, các doanh nghiệp phải có một
lượng vốn nhất định, đủ lớn phù hợp và đảm bảo cho kế hoạch sản xuất, đầu tư.
Thứ 4: Vốn gắn liền với chủ sở hữu nhất định.

Trong doanh nghiệp, vốn bao gồm hai bộ phận: vốn chủ sở hữu và nợ.
+ Vốn chủ sở hữu là vốn của chủ doanh nghiệp như vốn góp ban đầu, lợi
nhuận không chia, phát hành cổ phiếu mới.
+ Nợ: Để bổ sung vốn trong quá trình sản xuất, kinh doanh do vốn chủ
không đáp ứng đủ nhu cầu các doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ các Ngân hàng,
khách hàng, nhà cung cấp …
5
Thứ năm: Vốn là loại hàng hóa đặc biệt
Vốn có thể mua hoặc bán quyền sở hữu, quyền sử dụng trên thị trường tạo
nên hoạt động của thị trường vốn, thị trường tài chính. Nó đặt biệt ở chỗ không
tham gia trực tiếp vào sản xuất nhưng vốn có sinh lợi.
Như vậy, vai trò của vốn được thể hiển chủ yếu dưới hai khía cạnh:
Thứ nhất: Vốn là điều kiện cho DN được thành lập. Khi thành lập, chủ
doanh nghiệp phải có một lượng vốn theo quy định của pháp luật riêng cho từng
ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh.
Thứ hai: Vốn là đầu vào không thể thiếu cho hoạt động sản xuất kinh doanh
và đầu tư. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn được sử dụng để
trang trải các chi phí như nguyên vật liệu, tiền lương, mua sắm thiết bị … và đầu tư.
Sau khi vốn được thu hồi lại được tiếp tục tái sản xuất và cứ như vậy, vốn được vận
động trong suốt quá trình hoạt động và phát triển của DN.
1.2.2. Phân loại nguồn vốn
Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, nguồn vốn trong doanh nghiệp được phân
loại thành các bộ phận khác nhau. Mục đích của phân loại nguồn vốn là giúp cho việc
quản lý vốn được hiệu quả nhất. Có hai tiêu thức thường được sử dụng, bao gồm:
- Tiêu thức thời gian sử dụng
Thời gian được phân biệt giữa ngắn hạn và dài hạn. Nguồn vốn cũng được
phân thành nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. Nguồn vốn được biểu hiện
dưới dạng tài sản cố định là nguồn vốn dài hạn, nguồn vốn được biểu hiện dưới
dạng tài sản lưu động là nguồn vốn ngắn hạn.
+ Nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn có thời gian sử dụng, đáo hạn trong

vòng một năm. Nó được dùng để tài trợ cho tài sản lưu động.
Nguồn vốn ngắn hạn bao gồm các khoản nợ và vay ngắn hạn
+ Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn có thời gian sử dụng và đáo hạn lớn hơn
một năm. Thường được dùng để tài trợ cho các tài sản cố định, đầu tư.
6
Nguồn vốn dài hạn bao gồm vốn chủ sở hữu và nợ dài hạn.
Cân đối vốn là điều kiện cần thiết và đảm bảo an toàn trong thanh toán. Tuy
nhiên, để đảm bảo tính kịp thời và hiệu quả sử dụng vốn, nguồn vốn ngắn hạn có
thể dùng để tài trợ dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định, nguồn vốn dài hạn cũng có
thể dùng để tài trợ ngắn hạn, tài trợ cho tài sản lưu động. Điều này thể hiện sự linh
hoạt trong việc sử dụng các nguồn vốn cho nhau. Điều này sẽ trở nên dễ dàng hơn
đối với các doanh nghiệp có tiềm lực về tài chính, sản lượng, doanh thu hàng năm
tăng, hoạt động kinh doanh thường xuyên có lãi.
- Tiêu thức quyền sở hữu:
Nguồn vốn trong các doanh nghiệp bao gồm vốn chủ hữu và nợ. Do có sự
tách biệt rõ số vốn của chủ sở hữu và số vốn nợ nên cách phân loại này được nhiều
người sử dụng hơn, đánh giá được dễ hơn các chỉ tiêu tài chính trong doanh nghiệp
nhất là chỉ tiêu sinh lời, chỉ tiêu mà tất cả các đối tượng liên quan đến doanh nghiệp
quan tâm.
+ Vốn chủ sở hữu là nguồn vốn được hình thành từ các chủ sở hữu bao gồm
vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới.
Vốn chủ sở hữu có đặc điểm: không xác định thời hạn doanh nghiệp chấm
dứt hoạt động; Chủ sở hữu là người được hưởng lợi nhuận cuối cùng và phụ thuộc
nhiều vào kết quả kinh doanh; Thu nhập của chủ sở hữu là từ lợi nhuận sau thuế,
không được tính vào chi phí hợp lý nên không có khoản tiết kiệm thuế so với
phương án vay nợ với lãi vay được tính vào chi phí.
+ Nợ là nguồn vốn mà doanh nghiệp bổ sung cho quá trình sản xuất kinh
doanh và đầu tư từ các nguồn: Tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại, phát hành
trái phiếu …
Nợ có đặc điểm: Có xác định thời hạn, mất chi phí nợ vay nhưng được tính

vào chi phí hợp lý; Không mất quyền kiểm soát doanh nghiệp nhưng chịu áp lực
thanh toán khi đến hạn.
7
Vốn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự hình thành và phát triển doanh
nghiệp từ khi thành lập, hoạt động, đầu tư phát triển cho đến cạnh tranh. Nhằm đáp
ứng cho sản xuất qui mô ngày càng lớn, để chủ động và đảm bảo tính kịp thời về
vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ
lớn. Tức là phải huy động được nhiều vốn.
1.2.3. Cc hình thức huy động vốn của doanh nghip
Trong doanh nghiệp, nguồn vốn luôn bao gồm hai bộ phận: Vốn chủ sở hữu
và nợ. Để thực hiện và đạt được kế hoạch kinh doanh, các doanh nghiệp cần có một
lượng vốn nhất định, đủ lớn để hình thành nên tài sản và trang trải các chi phí. Vốn
chủ sở hữu thường chiếm tỷ lệ nhỏ và không đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho kinh
doanh. Chính vì vậy các doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn vốn khác, thường là lơn
hơn rất nhiều, đó là nợ.
Như vậy, huy động vốn là hoạt động thường xuyên trong các doanh nghiệp
nhằm mục đích đảm bảo vốn tối ưu để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh và
đầu tư. Các doanh nghiệp thường lựa chọn nguồn tài trợ theo các xu hướng sau:
Một là: Toàn bộ nguồn tài trợ dài hạn để tài trợ cho tổng tài sản của doanh
nghiệp. Điều này hạn chế thấp nhất rủi ro nhưng chi phí vốn rất cao.
Hai là: Tài trợ dài hạn cho toàn bộ tài sản dài hạn (Tài sản cố định) và tài trợ
ngắn hạn cho toàn bộ tài sản ngắn hạn (Tài sản lưu động). Điều này có độ rủi ro cao
nhưng chi phí thấp.
Ba là: Toàn bộ tài sản dài hạn và một phần tài sản ngắn hạn được tài trợ bằng
nguồn vốn dài hạn. Điều này có độ rủi ro trung bình và chi phí trung bình.
Trong ba cách trên, cách thứ ba thường được lựa chọn hơn do an toàn và
hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc lựa chọn cách nào còn tùy thuộc vào từng thời điểm
trong mỗi doanh nghiệp để việc sử dụng vốn được linh động và có hiệu quả nhất.
Do vốn được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, sản xuất cũng phụ thuốc
vào nhiều yếu tố của nền kinh tế nên chiến lược tài trợ vốn của doanh nghiệp phụ

8
thuộc vào sự phát triển của thị trường vốn, thị trường chứng khoán, sự ổn định của
nền kinh tế, uy tín của doanh nghiệp và khả năng thích ứng của nhà quản lý trong
từng trường hợp cụ thể.
Với mỗi doanh nghiệp, căn cứ vào tính chất ngành nghề kinh doanh, mức độ
hoạt động, mục tiêu của nhà quản lý, mục tiêu của chủ sơ hữu, mục tiêu của người
cho vay vốn để có lựa chọn nguồn tài trợ và hình thức huy động vốn khác nhau sao
cho đạt hiệu quả nhất.
1.2.3.1. Hình thức huy động vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận chủ yếu: Vốn góp
ban đầu; Lợi nhuận không chia; Tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu mới
V(W1XIJF7
Theo Luật doanh nghiệp, các doanh nghiệp khi được thành lập phải có một
số vấn ban đầu nhất định do các chủ sở hữu góp. Với mỗi loại hình doanh nghiệp, tỷ
lệ và quy mô góp vốn ban đầu do các chủ sở hữu thỏa thuận đóng góp và còn bị
ràng buộc bởi luật pháp, ngành nghề, cơ cấu liên doanh …
0Y-%7Z[%6(,%-I
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, khi doanh nghiệp có lợi
nhuận, một phần lợi nhuận được giữ lại bổ sung cho nguồn vốn của doanh nghiệp
để tài trợ, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Tỷ lệ, quy mô của nguồn vốn này phụ thuộc vào chính các chủ sở hữu doanh
nghiệp trên cơ sở lợi nhuận đạt được và tỷ lệ lợi nhuận được giữ lại. Đây là hình
thức tạo nguồn bền vững và hấp dẫn vì doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí huy
động thêm vốn, giảm bớt được sự phụ thuộc về vốn vào bên ngoài, duy trì quyền
kiểm soát và tăng giá trị doanh nghiệp.
Đối với các công ty cổ phần, lợi nhuận giữ lại làm giảm tính hấp dẫn của cổ
phiếu trước mắt do cổ đông được nhận cổ tức trên tổng lợi nhuận giảm. Mặc dù, cổ
đông được ghi tăng số lượng cổ phần. Để giải quyết vấn đề giữ lại lợi nhuận để tái
9
đầu tư thì công ty vẫn phải đảm bảo tính tăng trưởng của chính sách chia cổ tức,

đảm bảo thị giá cổ phiếu và đảm bảo hiệu quả tái đầu tư.
\(VX](1%4%%,^1%-G75'-
Doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu mới để bổ sung vốn phục vụ sản
xuất, đầu tư. Nhất là đối với các doanh nghiệp đang hoạt động hiệu quả, phát hành
cổ phiếu được coi là hình thức phổ biến hiện nay để huy động nguồn vốn dài hạn
cho doanh nghiệp.
Cổ phiếu được chia làm rất nhiều loại: Cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu ưu đãi, cổ
phiếu quỹ, cổ phiếu chưa phát hành, cổ phiếu đã phát hành, cổ phiếu đang lưu hành.
Phát hành cổ phiếu mới bao gồm phát hành cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu thường
Cổ phiếu thường là một chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu vĩnh viễn đối với
doanh nghiệp do cổ phiếu thường không có thời gian đáo hạn.
Thông thường, cổ phiếu thường chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số cổ phiếu phát
hành và là cổ phiếu thông dụng nhất được phát hành rộng rãi và có lợi thế nhất
trong mua bán, giao dịch chứng khoán.
Người sở hữu cổ phiếu thường là cổ đông thường và được hưởng các quyền
chủ yếu sau:
+ Quyền quản lý và kiểm soát công ty
+ Quyền đối với tài sản của công ty
+ Quyền chuyển nhượng/chuyển sở hữu cổ phần
+ Quyền khác như được ưu tiên mua cổ phiếu trước khi phát hành thêm.
Các doanh nghiệp có thể tăng vốn bằng phát hành thêm cổ phiếu thường.
Việc phát hành được thực hiện theo các hình thức:
+ Phát hành cổ phiếu mới với việc dành quyền ưu tiên mua cho cổ đông hiện hành.
+ Phát hành rộng rãi cổ phiếu mới ra công chúng.
10
+ Phát hành cổ phiếu mới bằng việc chào bán cho người thứ ba.
Việc huy động vốn theo phương pháp này có những lợi thế:
Thứ nhất: Tăng được vốn dài hạn; Không phải trả lợi tức như đi vay, kể cả
trường hợp kinh doanh đầu tư thua lỗ

Thứ hai: Làm tăng vốn chủ sở hữu, từ đó làm giảm hệ số nợ và tăng mức độ
vững chắc về tài chính. Trên cơ sở đó làm tăng khả năng vay vốn và mức độ tín
nhiệm cho doanh nghiệp.
Thứ ba: Không chịu ảnh hưởng của lạm phát như trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi.
Bên cạnh lợi thế, khi phát hành cổ phiếu mới doanh nghiệp phải đối mặt với
các bất lợi như:
Thứ nhất: Làm tăng cổ đông nên làm giảm quyền biểu quyết, quyền kiểm
soát công ty của cổ đông hiện hành. Các doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp
vừa và nhỏ mới thành lập nói riêng cần xem xét đến nguy cơ bị thôn tính khi phát
hành cổ phiếu thường mới, cần phải tính đến tỷ lệ cổ phần tối thiếu để giữ vững
quyền kiểm soát công ty.
Thứ hai: Cổ phiếu thường có mức độ rủi ro cao chịu sự tác động của người
đầu tư, thị trường tài chính, kinh tế - chính trị nên chi phí phát hành thường cao hơn
so với chi phí phát hành cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu.
Thứ ba: Lợi tức cổ phần không được tính trừ vào thu nhập chịu thuế thu nhập
doanh nghiệp như lợi tức trái phiếu, tiền vay.
Thứ tư: Do làm tăng số cổ phiếu nên nếu làm ăn kém hiệu quả hơn sẽ làm giảm
thu nhập trên cổ phần, gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp.
Do đó, khi phát hành cổ phiếu thường mới đáp ứng nhu cầu tăng vốn dài hạn
cần phải xem xét thếm đến các vấn đề như:
+ Doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp: Nếu doanh thu và lợi nhuận có
sự thay đổi bất thường, không ổn định và không tăng trưởng thì việc phát hành cổ
phiếu thường sẽ tốt hơn vay vốn do không phải trả nợ gốc, lãi và chịu áp lực thanh
toán như khi đi vay.
11
+ Cơ cấu nguồn vốn và tình hình tài chính của doanh nghiệp: Nếu hệ số nợ
đã cao so với chỉ tiêu hiệu quả, so với ngành thì nên phát hành cổ phiếu thường mới
hơn là vay nợ.
+ Quyền kiểm soát doanh nghiệp: Nếu các cổ đông hiện hành coi trọng việc
giữ quyền kiểm soát doanh nghiệp thì việc phát hành thêm cổ phiếu thường gặp khó

khăn, cản trở.
+ Chi phí phát hành cổ phiếu thường: Chi phí phát hành thường là cao nhưng
do cổ phiếu thường có ưu thế hơn so với các chứng khoán khác nên việc phát hành
cổ phiếu thường với chi phí cao vẫn khả thi hơn cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu ưu đãi
Cổ phiếu ưu đãi là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong công ty cổ phần, cho
phép người nắm giữ cổ phiếu này được hưởng một số quyền lợi ưu đãi hơn so với cổ
đông thường. Nó thường chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số cổ phiếu đang phát hành.
Cổ phiếu ưu đãi thường được sử dụng là cổ phiếu ưu đãi cổ tức do nó có đặc
trưng sau:
+ Người nắm giữ được hưởng cố định lợi tức cổ phần mà không phụ thuộc
vào kết quả hoạt động kinh doanh và được nhận trước các cổ đông thường về cổ tức
cũng như khi doanh nghiệp bị giải thể hoặc thanh lý.
+ Tích lũy cổ tức: có thể được hoàn trả lợi tức cổ phần ưu đãi và chuyển sang
kỳ kế tiếp.
+ Không được hưởng quyền bỏ phiếu: Cổ đông ưu đãi không được quyền bỏ
phiếu. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp không trả được lợi tức cổ phần ưu tiên thì có
thể chuyển từ quyền ưu tiên cổ tức sang ưu tiên bỏ phiếu.
+ Thời hạn: Cổ phiếu ưu đãi thường không có thời hạn thanh toán. Tuy
nhiên, giống như các cổ phiếu quỹ, các công ty có thể bán ra hoặc thu lại.
Cổ phiếu ưu đãi là loại chứng khoán lưỡng tính, nó vừa giống cổ phiếu
thường vừa giống trái phiếu. Phát hành cổ phiếu ưu đãi có những điểm thuận lợi
12
như: Không phải trả lợi tức cổ định đúng hạn; Làm tăng lợi tức cổ phiếu thường khi
tỷ lệ lợi tức của doanh nghiệp cao hơn tỷ lệ trả lợi tức ưu đãi; Hạn chế việc chia sẻ
quyền quản lý và kiểm soát cho cổ đông mới; Không phải cầm cố, thế chấp tài sản
khi phát hành.
Bên cạnh thuận lợi, phát hành cổ phiếu ưu đãi gặp một số hạn chế như: Lợi
tức cổ phiếu ưu đãi cao hơn lợi tức trái phiếu do tính rủi ro của cổ phiếu này cao hơn;
Lợi tức ưu đãi cũng không được tính vào chi phí hợp lý của công ty như lãi vay.

Đối với các doanh nghiệp có hệ số nợ cao và coi trọng quyền kiểm soát,
trong khi cổ phiếu thường và trái phiếu chưa mang lại hiệu quả huy động vốn do
tính lưỡng tính của cổ phiếu ưu đãi thì việc tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu ưu đãi
sẽ thích hợp hơn.
Ngoài ra, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp còn được bổ sung từ chênh lệch
đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỷ giá.
Như vậy, tăng vốn chủ sở hữu là hình thức huy động vốn an toàn và bền
vững để bổ sung vốn cho doanh nghiệp
1.2.3.2. Hình thức huy động nợ
Một cách phổ biến nhất, người ta chia nguồn vốn của doanh nghiệp thành
vốn chủ sở hữu và nợ.
Vốn chủ ban đầu là rất nhỏ và không đáp ứng được nhu cầu vốn phục vụ sản
xuất kinh doanh, mở rộng kinh doanh và đầu tư. Việc tăng vốn chủ sở hữu đáp ứng
nhu cầu vốn luôn gặp những khó khăn và còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tính
hình hoạt động của doanh nghiệp, thị trường tài chính, chính sách kinh tế, chính trị
… dẫn đến việc tăng vốn chủ vừa khó và vừa mất thời gian hơn.
Để đảm bảo nhu cầu vốn mục tiêu của doanh nghiệp, đảm bảo tính kịp thời
về vốn cho sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp có thể lựa chọn vay nợ để tài trợ
cho nhu cầu vốn của mình. Nợ được hình thành từ các nguồn: Tín dụng ngân hàng
và các tổ chức tín dụng; Tín dụng thương mại; Vay thông qua phát hành trái khoán
và nguồn khác.
13
_)`((a%(,4,^,%b,_)`(
Nguồn vốn từ vốn vay ngân hàng là nguồn vốn quan trọng nhất hiện nay
không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với cả nền kinh tế.
Trong hoạt động kinh doanh, nhiều hoạt động của doanh nghiệp đều gắn liền
với các sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, trong đó hoạt
động nổi bật, thường xuyên và quan trọng nhất đó là vay – nợ vốn.
Căn cứ vào thời hạn và mục đích sử dụng vốn, nguồn vốn tín dụng ngân
hàng được phân loại thành các khoản vay ngắn hạn (trong một năm), vay trung và

dài hạn (từ 3 năm trở lên), vay đầu tư tài sản lưu động, vay đầu tư tài sản cố định,
vay theo dự án … với lãi suất cho vay là lãi suất thị trường phù hợp với quy định
của Nhà nước.
Ngân hàng và các tổ chức tính dụng là các trung gian tài chính có chức năng
và nhiệm vụ tạo vốn và chuyển vốn nhanh hơn giữa người cho vay và người đi vay.
Do vậy, nguồn vốn huy động từ ngân hàng có một số thuận lợi cũng như giúp cho
doanh nghiệp giải quyết được các vấn đề như:
+ Nhanh chóng, kịp thời và ít bị giới hạn về số lượng, thời gian so với huy
động vốn chủ sở hữu.
+ Toàn bộ chị phí lãi vay được tính là chi phí hợp lý, hợp lệ để xác định thu
nhập chịu thuế của doanh nghiệp.
+ Ngân hàng tư vấn cho doanh nghiệp để hoạt động sản xuất kinh doanh đạt
hiệu quả hơn.
+ Doanh nghiệp dễ dàng điều chính cơ cấu vốn và có thể vay để tái cơ cấu vốn.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm xong nó cũng tồn tại những
hạn chế nhất định như:
+ Điều kiện tín dụng: Để giảm rủi ro và đảm bảo an toàn khi cho vay,các
doanh nghiệp phải tuân thủ quy trình cho vay và thu nợ khắt khe và rất chặt chẽ của
Ngân hàng.
14
+ Điều kiện đảm bảo tiền vay: Khi vay vốn, các ngân hàng yêu cầu doanh
nghiệp phải có các tài sản đảm bảo, tài sản thế chấp, ký quỹ … cho khoản vay.
Giá trị, tỷ lệ thế chấp lớn, tính pháp lý của thế chấp cao, thủ tục đăng ký giao dịch
đảm bảo bị dàng buộc … trong khi giá trị tài sản thế chấp thấp trong mỗi doanh
nghiệp nhỏ dẫn đến doanh nghiệp không thể đáp ứng được đầy đủ các điều kiện,
yêu cầu vay vốn.
+ Sự kiểm soát của Ngân hàng: Khi phát sinh vay vốn, các doanh nghiệp
chịu sự kiểm soát của Ngân hàng về mục đích sử dụng vốn và tình hình sử dụng
vốn vay. Điều này không gây khó khăn cho doanh nghiệp, tuy nhiên, trong trường
hợp để đảm bảo tính linh hoạt, kịp thời của vốn thì doanh nghiệp phải sử dụng vốn

cho mục đích tức thời trước thì lại vi phạm quy định của Ngân hàng.
+ Lãi suất vay vốn: Chi phí của việc sử dụng vốn được phản ánh qua lãi
suất, đó là chi phí lãi vay. Khi lãi suất thường xuyên biến động, lãi xuất cao làm
giảm thu nhập của doanh nghiệp, hạn chế đầu tư, mở rộng sản xuất. Lãi vay cao
còn dẫn đến áp lực thanh toán cao, hệ số khả năng thanh toán lãi vay, hệ số đánh
giá khả năng thanh toán của doanh hiện bị giảm. Trường hợp thu nhập của doanh
nghiệp không đủ bù đắp chi phí trong đó có lãi vay thì khoản tiết kiệm thuế nhờ
lãi vay không còn ý nghĩa.
_)`(%&c(5d-
Trong hoạt động giao dịch, mua bán giữa các doanh nghiệp, các doanh
nghiệp thường sử dụng quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp.
Nguồn vốn hình thành từ quan hệ này được gọi là Tín dụng nhà cung cấp hay tín
dụng thương mại.
Các điều kiện ràng buộc liên quan đến nguồn vốn này được quy định trong
hợp đồng kinh tế, hợp đồng mua bán. Công cụ phổ biến để thực hiện hình thức huy
động vốn tín dụng thương mại là hối phiếu.
Nguồn vốn tín dụng thương mại là một hình thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh
hoạt trong kinh doanh được các doanh nghiệp ưa chuộng. Mặt khác, nó tạo khả
năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh lâu bền giữa các bên.
15
Chi phí sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại được tính vào giá thành sản
phầm hay dịch vụ. Chi phí này có thể ấn định dưới hình thức thay đổi mức giá phụ
thuộc vào thỏa thuận giữa các bên.
Để nguồn vốn này thực sự mang lại hiệu quả đòi hỏi doanh nghiệp phải có
uy tín, chữ tín đối với các cam kết, quản lý và sử dụng vốn tốt trong một thời gian
nhất định.
Hiện nay, đây là một nguồn vốn tương đối lớn với chi phí rẻ và linh hoạt
trong các doanh nghiệp, thường chiếm khoản 20% đến 40% tổng nguồn vốn. Vì
vậy, các doanh nghiệp cần phải tận dụng hiệu quả nguồn vốn này. Tuy nhiên, khi
mà quy mô tài trợ quá lớn, vượt giới hạn, áp lực thanh toán là rất lớn, các doanh

nghiệp phải có sự chuẩn bị để thực hiện đúng cam kết, trách nhiệm tránh làm mất
uy tín và gây thiệt hại kinh tế.
%4%%e4-1%-G7,6(8
Trái phiếu là giấy vay nợ trung và dài hạn. Trái phiếu công ty là một loại
trong trái phiếu.
Trái phiếu công ty là chứng chỉ vay vốn do doanh nghiệp phát hành cam
kết thanh toán số lợi tức và tiền vay theo thời hạn xác định cho người nắm giữ
trái phiếu. Giống như cổ phiếu của doanh nghiệp, trái hiếu cũng là chứng khoán
có giá và là công cụ để doanh nghiệp huy động vốn. Nhưng trái phiếu là chứng
khoán nợ không làm tăng vốn chủ sở hữu và không phụ thuộc vào kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Người nắm giữ trái khoán không có quyền tham gia
quản lý doanh nghiệp.
Trái phiếu công ty có nhiều loại, căn cứ vào các tiêu thức nó được phân
thành các loại trái phiếu khác nhau. Để lựa chọn trái phiếu thích hợp cần phải xem
xét đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái
phiếu.
Trái phiếu công ty lưu hành phổ biến gồm: Trái phiếu có lãi xuất cố định, trái
phiếu có lãi xuất thay đổi, trái phiếu có thể thu hồi và trái phiếu có thể chuyển đổi.
16
Tri phiếu có lãi suất cố định
Trái phiếu này được sử dụng phổ biến nhất, lãi suất được ghi trên trái phiếu
và cố định suốt kỳ hạn của trái phiếu, thời hạn thanh toán cũng thường được quy
định rõ. Lãi xuất căn cứ vào lãi suất trái phiếu có kỳ hạn tương đương của kho bạc
Nhà nước và mức độ rủi ro của doanh nghiệp.
Tri phiếu có lãi suất thay đổi
Nền kinh tế có nhiều biến động thì lãi suất thay đổi liên tục dẫn đến các
doanh nghiệp phát hành trái phiếu có lãi suất thả nổi, lãi suất trái phiếu này phụ
thuộc vào một số nguồn lãi suất quan trọng khác chẳng hạn như LIBOR; lãi suất cơ
bản. Khi lạm phát cao và lãi suất thị trường không ổn định, doanh nghiệp có thể
khai thác loại trái phiếu này do lạm phát làm thay đổi lãi suất thực, nhà đầu tư mong

muốn được hưởng lãi suất thỏa đáng dù bị lạm phát nên trái phiếu này được ưa
thích hơn. Nhà đầu tư ưa thích hơn, tuy nhiên, doanh nghiệp thì lại không dự báo
được chắc chắn chi phí lãi vay của trái phiếu và mất nhiều thời gian hơn cho việc
quản lý trái phiếu.
Tri phiếu có thể thu hồi sớm
Sau khi phát hành trái phiếu, tùy vào tình hình tài chính, các doanh nghiệp có
thể mua lại những trái phiếu vào một thời gian nào đó trước khi mãn hạn. Do người
mua trái phiếu không được hưởng lãi suất mãn hạn nên trái phiếu này phải được
quy định rõ thời hạn, giá cả khi công ty chuộc lại trái phiếu để người mua được biết.
Trái phiếu này giúp cho doanh nghiệp dễ dàng điều chỉnh nguồn vốn cũng
như lượng vốn. Tuy nhiên, trái phiếu này phải có điều kiện hấp dẫn cao thì mới
được ưa thích.
Tri phiếu chuyển đổi
Trái phiếu chuyển đổi cho phép có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường
ở một lượng nhất định. Nếu cổ phiếu tăng thì người giữ trái quyền được lợi và
ngược lại
17
(7fV[%4,
Một số cách thức huy động vốn khác như:
Tín dụng thuê mua:
Tín dụng thuê mua là một hình thức tài trợ tín dụng thông qua tài sản, máy
móc thiết bị … Nó là hình thức tài trợ dài hạn
Tín dụng thu mua có hai hình thức giao dịch chủ yếu là: Thuê vận hành và
thuê tài chính.
- Thuê vận hành
Người thuê phải trả tiền thuê theo thỏa thuận, người cho thuê phải chịu mọi
chi phí vận hành. Tiền thuê được ghi nhận là chi phí, tài sản đi thuê không phải
phản ánh trong sổ kế toán của người thuê.
Với các công việc thời vụ, chi phí máy móc thiết bị lớn thì việc đi thuê là
phù hợp hơn

- Thuê tài chính
Thuê tài chính là một hình thức tài trợ tín dụng trung dài hạn không thể hủy
ngang. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc mua
lại hoặc tiếp tục thuê tài sản theo sự thỏa thuận.
Thuê tài chính có những điểm lợi chủ yếu sau:
+ Giúp doanh nghiệp tăng vốn trung và dài hạn để mở rộng hoạt động kinh
doanh. Doanh nghiệp không phải huy động một lượng vốn lớn để mua tài sản. Với
một doanh nghiệp có ít vốn vẫn có khả năng mở rộng kinh doanh.
+ Dễ dàng huy động được vốn do không phải thế chấp tài sản khi đi thuê.
+ Thực hiện nhanh dự án đầu tư do sự chuyên nghiệp của công ty cho thuê
tài chính.
+ Giúp doanh nghiệp đi thuê nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ.
+ Giúp doanh nghiệp hoãn thuế thu nhập do tính khấu hao nhanh để tăng chi
phí giai đoạn đầu.
18
+ Thu hút vốn lớn từ bên ngoài thông qua nhập khẩu.
Bên cạnh điểm lợi nó cũng bộc lộ hạn chế như: Chi phí sử dụng vốn cao hơn
so với tín dụng thông thường. Thời gian thuê kéo dài sẽ chịu rủi ro do lạm phát, lãi
suất và công nghệ.
Bn nợ
Với các khoản nợ phải thu, nợ khó đòi, các doanh nghiệp có thể bán nợ cho
công ty mua bán nợ để thu hồi vốn. Đây được coi là hình thức tài trợ ngắn hạn cho
doanh nghiệp. Doanh nghiệp huy động được vốn trong ngắn hạn nhưng phải trả chi
phí bán nợ là rất lớn dẫn đến doanh nghiệp bị mất vốn trong dài hạn và thể hiện
năng lực quản lý vốn yếu kém của doanh nghiệp.
Cc khoản phải trả, phải nộp nhưng chưa trả, chưa nộp, đặt cọc …
Nguồn tài trợ này bao gồm: Phải trả người lao động nhưng chưa trả, phải nộp
như thuế nhưng chưa nộp, đặt cọc của khách hàng. Với tình huống cụ thể và đặc thù
kinh doanh, doanh nghiệp có thể tạm xử dụng các nguồn vốn này. Nguồn vốn này
có chi phí vốn rất thấp nhưng nếu lạm dụng nó chứng tỏ doanh nghiệp đang thiếu

vốn, năng lực thanh yếu kém … gây ảnh hưởng xấu đến quan hệ, uy tín của doanh
nghiệp đối với Nhà nước, đối tác và người lao động.
1.2.4. Một số chỉ tiêu đnh gi hoạt động huy động vốn
1.2.4.1. Mức đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
Mức độ đảm bảo vốn cho hoạt đuộng kinh doanh kinh doanh của doanh
nghiệp được đo lường thông qua chỉ tiêu vốn lưu động thường xuyên và nhu cầu
vốn lưu động thường xuyên.
Vốn lưu động thường xuyên được xác định là chênh lệch giữa nguồn vốn dài
hạn và TSCĐ hoăc TSLĐ và nguồn vốn ngắn hạn. Khi vốn lưu động thường xuyên
âm, nguồn vốn dài hạn không đủ đầu tư cho TSCĐ, TSCĐ phải đầu đầu tư một
phần bằng nuồn vốn ngắn hạn, TSLĐ không đáp ứng đủ cho nhu cầu thanh toán
ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mấ thăng bằng. Các doanh nghiệp
phải tăng cường huy đông vốn ngắn hạn hoặc/và giảm quy mô đầu tư dài hạn.
19
Khi vốn lưu động thường xuyên dương, nguồn vốn dài hạn thừa sau khi đầu
tư TSCĐ, phần chênh lêch thừa sẽ được đầu tư cho TSLĐ, TSLĐ lớn hơn nguồn
ngắn hạn do vậy cán cân thanh toán của doanh nghiệp là tốt. vốn lưu động thường
xuyên bằng 0, tình hình tài chính của doanh nghiệp là ổn định.
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn để tài trợ cho
một phần TSLĐ gồm hàng tồn kho và các khoản phải thu ngắn hạn. Nhu cầu vốn
lưu động thường xuyên > 0, tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ ngắn hạn, sử
dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn nguồn vốn ngắn hạn huy động được,
doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho phần chênh lệch thiếu.
Các doanh nghiệp cần phải giảm tồn kho và phải thu.
Khi nhu cầu vốn lưu động < 0, nguồn vốn ngắn hạn thừa để tài trợ ngắn hạn
của doanh nghiệp, doanh nghiệp không phải huy động nguồn vốn ngắn hạn.
1.2.4.2. Cơ cấu vốn và chi phí vốn
Hoạt động huy động vốn với mục phải đảm bảo đủ vốn theo yêu cầu sản xuất
kinh doanh với chi phí vốn hợp lý đảm bảo cơ cấu vốn mục tiêu đã định.
- Cơ cấu vốn: Cơ cấu vốn là mối quan hệ tỷ lệ của các nguồn vốn trong tổng

nguồn vốn gồm vốn chủ sở hữu và nợ. Cơ cấu vốn mục tiêu là của doanh nghiệp là
cơ cấu vốn vốn làm cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận. Cơ cấu vốn mục tiêu sẽ quyết
định tỷ lệ nợ và vốn chủ sở hữu. Việc sử dụng nợ vừa có xu hướng gia tăng thu
nhập trên cổ phiếu vừa làm giảm giá cổ phiếu do sử dụng nợ làm tăng rủi ro cho cổ
đông. Khi sử dụng nợ được coi là hiệu quả khi mức sinh lời của tài sản lớn hơn chi
phí nợ. Như vậy, việc quyết định cơ cấu vốn là rất khó khăn. Cơ cấu vốn còn chịu
tác động cảu các nhân tố rui ro kinh doanh, tính khấu trừ thuế của lãi vay, khả năng
tài chính của doanh nghiệp và sự thận trọng hay linh hoạt trong quản lý. Tuy nhiên,
DN phải xác định được một cơ cấu vốn ổn định để lựa chọn được nguồn vốn và chi
phí phí vốn hợp lý nhất. Để đảm bảo cơ cấu vốn ổn định, cùng với quy mô kinh
doanh tăng lên, nợ tăng lên thì vốn chủ sở hữu cũng phải tăng lên phù hợp. Các
doanh nghiệp có cơ cấu vốn ổn định, cân bằng, đảm bảo cân bằng giữa rủi ro và lợi
20
nhuận thể hiện được khả năng đảm bảo cho các khoản nợ thì việc huy động vốn sẽ
thuận lợi hơn.
- Chi phí vốn: Chi phí vốn là chi phí phải trả do việc sử dụng vốn dù đó là
vốn chủ sở hữu hay là nợ. Vốn được hình thành từ nhiều khác nhau, mỗi nguồn lại
được cấu thành từ nhiều bộ phận khác nhau, kết hợp chi phí của từng bộ phần sẽ
xác định được chi phí vốn bình quân gia quyền. Chi phí bình quân ra quyền được sử
dụng để xây dựng chi phí cân biên vốn nhằm đánh giá các dự án mới cùng mức rui
ro với cá tài sản hiện có của doanh nghiệp. Do vậy, khi cơ cấu vốn là ổn định thì tỷ
lệ tăng lên của nợ và vốn chủ như nhau. Chi phí vốn cũng là căn cứ để doanh
nghiệp quyết định sử dụng nguồn vốn nào, với tỷ trọng bao nhiêu đảm bảo đủ vốn
với chi phí sử dụng vốn là tối thiểu, từ đó xác định hình thức huy động vốn thích
hợp tương ứng. Với các doanh nghiệp có chi chí vốn thấp sẽ thuận lợi cho hoạt
động huy động vốn do chi phí vốn thấp hấp dẫn hơn đối với người cho vay.
1.2.4.3. Hiệu quả sử dụng vốn
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp được xem xét trên nhiều yếu tố, tùy
thuộc vào loại hình doanh nghiệp và mục tiêu của doanh nghiệp thì các chỉ tiêu
được nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Về tài chính, hiệu quả sử dụng vốn được

phản ánh bằng rất nhiều chỉ tiêu. Trong đó có một số chỉ tiêu như: Vòng quay vốn
lưu động, hiệu suất sử dụng tài sản, ROA, ROE, …
Vòng quay vốn lưu động được xác định bằng tỷ lệ doanh thu thuần trên tài
sản lưu động. Nó cho biết một đồng tài sản lưu động thì tạo ra bao nhiêu đồng
doanh thu.
Hiệu suất sử dụng tài sản được xác định bằng tỷ lện doanh thu thuần trên
tổng tài sản. Nó cho biết một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.
ROA, hệ số sinh lợi của tài sản, được xác định bằng lợi nhuận sau thuế trên
tổng tài sản. Nó cho biết một đồng vốn đầu tư thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
ROE, hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu, được xác định bằng tỷ lệ lợi nhuận sau thuế
trên vốn chủ sở hữu. Nó cho biết một đồng vốn chủ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
21

×