Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tìm hiểu thực trạng giáo dục đại học hiện nay ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.49 KB, 27 trang )

Mục lục.
A. Phần mở đầu.
B. Phần nội dung.
Chương 1. khái quát tình hình chung.
1. khái niệm giáo dục.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1 Vai trò nhà nước và cơ quan quản lý giáo dục.
2.2 Vai tròcác trường.
2.3 Vai trò gia đình và xã hội.
2.4 Vai trò sinh viên.
3. Những khó khăn.
3.1 Quản lý giáo dục.
3.2 Phương pháp dạy học.
3.3 Đội ngũ giảng viên.
3.4 Sinh viên.
3.5 Trương trình học.
Chương 2. Thực trạng.
1. Thành tựu chung.
1.1 Đầu tư cho giáo dục.
1.2 Du học.
2. Nguyên nhân.
2.1 Cơ sở vật chất.
2.2 Quản lý.
2.3 Phương pháp đào tạo.
2.4 Đội ngũ giảng viên.
2.5 Sinh viên.
2.6 Chương trình học.
2.7 Nguyên nhân khác.
Chương 3. Gỉai pháp kiến nghị.
1.1 Cơ quan quản lý.
1.2 Phương pháp dạy.


1.3 Giảng viên.
1.4 Sinh viên.
1.5 Hiện đại hóa giáo dục.
C kết luận.
D. Tài liệu tham khảo.
Chú thích các chữ viết tắt.
1. GD: GIÁO DỤC
2. QLGD : QUẢN LÝ GIÁO DỤC
3. GDĐH : GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
4. SV : SINH VIÊN
5. CTKH : CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
6. NCKH : NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
7. CQQLGD : CƠ QUAN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
8. CLĐT : CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
9. NCS : NGHIÊN CỨU SINH
10. CÔNG BỐ QUỐC TẾ
A lời mở đầu.
Để đưa đất nước ta thật sự trở nên giàu mạnh và văn minh,trong xu thế hội
nhập nền kinh tế thị trường hiện nay thì Đảng,nhà nước cùng nhân dân ta phải
xây dựng cho mình một tiềm lực tổng thể vững mạnh. Một trong những chiến
lược đó là phát triển và mở rộng hệ thống giáo dục đào tạo,đặt biệt là GDĐH
nhằm bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ cho đất nước. đúng như Bác Hồ đã
nói:”một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” tư tưởng đó còn được khẳng định qua
các kỳ đại hội đảng toàn quốc cũng cho rằng giáo dục là quốc sách Hàng đầu
Đó là tất cả những gì tốt đẹp mà Đảng,nhà nước và nhân dân ta đã từng tin
tưởng,kỳ vọng vào GD sẽ đem lại. đặc biệt trong xu thế phát triển hiện nay nếu
không có tri thức và khoa học chúng ta sẽ bị tụt hậu so với các nước khác.
Tuy nhiên khi những lợi ích tốt đẹp ấy vẫn đang còn là ước mơ thì người ta
lại nhìn thấy nhiều hơn những bất cập, tồn tại làm ảnh hưởng xấu tới GD nước
ta hiện nay. Nếu không nói là rơi vào tình trạng bế tắc thì cũng giống như ”cành

củi giữa dòng nước xoáy”. Nếu như trước đó hàng trăm nghìn thí sinh ngày đêm
dùi mài kinh sử với hy vọng được bước vào giảng đường đại học thì ngay sau
đó lại cảm thấy chán trường với cảnh học đại học hiện nay. Có rất nhiều sinh
viên bỏ bê công việc chính là học tập mà cảm thấy hứng thú với các trò chơi
game trên mạng. có những người đủ tỉnh táo thì lại boăn khoăn với câu hỏi: học
xong ra trường mình sẽ làm gì? Câu hỏi đó không chỉ là nỗi lo lắng của các sinh
viên mà còn là lý do để em chọn làm đề tài này. Với mong muốn tất cả chúng
ta(dù là sinh viên hay giảng viên,cơ quan QLGD…)cùng bắt tay tháo gỡ những
thắc mắc đó đưa GD vào thực tế nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất.
Hiện nay đang có một cuộc đối mặt giữa thế hệ GD cũ với thế hệ mới. Có
một sự chứng minh âm thầm rằng, trong giai đoạn cũ, nền GD của chúng ta tốt
hơn, và những quan chức nhà nước cũ ở lứa tuổi cao, vì không thỏa mãn với
phong cách chính trị trong đời sống GD bây giờ, nên kéo nhau ra mở trường
tư.Tất cả những chuyện đó cũng mới chỉ giải quyết một cách tạm bợ những vấn
đề của GD Việt Nam.Lối thoát để giải quyết vấn đề GD Việt Nam, là phải học
những kinh nghiệm mở cửa về kinh tế như cách đây 20 năm. Phải có thái độ của
những người như Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã thể hiện
với đầu tư nước ngoài trong giai đoạn trước thì đất nước mới đổi mới được.
Vấn đề cần quan tâm với hệ thống GD nước ta hiện nay là rất cấp thiết,
không chỉ xét từng bộ phận mà còn phải xét một cách tổng thể. Do đó ở đây em
chỉ dừng lại tìm hiểu thực trạng GD đại học hiện nay ở nước ta. Dựa trên cơ sở
là các phương pháp luận như tổng hợp,đánh giá,luận chứng và một số phương
pháp khác; trong đó có sử dụng phương pháp luận triết học duy vật biện chứng
để đánh giá. Nội dung bài viết này chia làm ba chương : chương 1,chương 2,
chương 3.
Trước hết em xin chân thành cảm ơn thầy (cô) đã giúp đỡ em hoàn thành
đề tài này.
B phần nội dung.
Chương 1. khái quát tình hình chung.
1. Khái niệm giáo dục.

Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi
hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và người
học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học
bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn
tại và phát triển của con người trong xã hội đương đại.
2. Cơ sở lý luận.
Với vị trí và vai trò như ở trên thì GD quả là niềm hy vọng lớn lao cho đất
nước ta hiện nay, với mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. chúng ta
đi lên từ nghèo nàn lạc hậu có được thành quả như ngày nay có thể nói là bước
phát triển thần kỳ. tuy nhiên ở bất cứ xã hội nào , thời đại nào và trên lĩnh vực
nào nó cũng luôn tuồn tại hai mặt : mặ tích cực mà xã hội đó đã làm được va
những hạn chế chưa làm được . ở nước ta cũng vậy việc phát triển GD ngày
càng hoàn thiện đòi hỏi phát huy thế mạnh và khắc phục khó khăn mới đạt kết
quả cao.
Phải khẳng định rằng những gì chúng ta đã làm được trong GD là rất to lớn.
vì lợi ích “mười năm trồng cây, trăm năm trồng người” theo tư tưởng Hồ Chí
Minh vĩ đại mà sự nghiệp GD ở nước ta đã nhận được sự quan tâm của toàn
Đảng, toàn dân, của đông đảo các sinh viên, giảng viên và các tầng lớp tri thức.
Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đang đòi hỏi GDĐH Việt Nam phải
nhanh chóng đổi mới cách quản lý để đảm bảo và ngày càng nâng cao chất
lượng đào tạo. Bài viết này nêu tổng quan về quan điểm chất lượng trong GDĐH
tại Việt Nam qua các giai đoạn, hệ thống và cơ chế đảm bảo chất lượng GDĐH
hiện nay, cùng các thành quả và các vấn đề cần giải quyết để tiếp tục đẩy mạnh
triển khai đảm bảo chất lượng GDĐH tại Việt Nam.
So với các thời kỳ trước, Giáo dục đại học Việt Nam cho đến giữa thập niên
1980 vẫn cơ bản là giáo dục dục tinh hoa.Vì vậy, trong giai đoạn này vấn đề chất
lượng giáo dục đại học hầu như không được đặt ra, trong một thời gian dài, hệ
thống giáo dục đại học Việt Nam đã quan niệm quản lý chất lượng giáo dục đồng
nghĩa với việc kiểm soát đầu vào thông qua các kỳ thi tuyển mang tính cạnh
tranh cao độ. Năm 1986 đánh dấu sự bắt đầu của công cuộc đổi mới giáo dục

đại học tại Việt Nam, trong đó một trong những mục tiêu quan trọng của việc đổi
mới giáo dục đại học tại Việt Nam là tăng cường “khả năng cung ứng” của các
cơ sở giáo dục, mở rộng tối đa cơ hội tiếp cận cho người học. Để đạt mục tiêu
này, trong vòng gần hai thập niên kể từ khi giáo dục đại học Việt Nam bắt đầu
đổi mới, rất nhiều biện pháp đã được thực hiện để đạt được mục tiêu nói trên,
mà kết quả là số lượng người học cũng như các cơ sở giáo dục đại học của Việt
Nam đã tăng lên một cách đột biến.
Nhìn chung hệ thống GD nước ta phát khá hoàn thiện với đủ các loại
hình:trường công lập, bán công, nội trú, các học viện, trung tâm giáo dục kết hợp
vừa học vừa làm. Các hình thức đào tạo cũng phong phú từ chính quy, cao học,
tại chức, liên thông, đào tạo từ xa, du học. mỗi năm có hàng chục trường được
xây dựng và nâng cấp thu hút hàng trăm nghìn SV theo học.
2.1 vai trò của nhà nước và cơ quan quản lý giáo dục .
Trước hết phải nói đến vai trò của nhà nước Trong những năm qua, để thúc
đẩy giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng dạy và học, Nhà nước đã thực
hiện xã hội hóa để huy động tiềm năng của các thành phần kinh tế cho giáo dục
và đào tạo. Ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục và đào tạo đã tăng từ 15%
năm 2000 lên 18% năm 2005 với cơ cấu tăng chi cho những nhiệm vụ trọng tâm
của ngành như đổi mới chương trình, bồi dưỡng giáo viên, tăng cường giáo dục
miền núi. hàng loạt các chính sách được ban hành. Cụ thể là, Triển khai nghiêm
túc trong toàn hệ thống Chỉ thị số 296/CT-TTg ngày 27/2/2010 của Thủ tướng
Chính phủ và Chương trình hành động của Bộ về đổi mới quản lý giáo dục đại
học giai đoạn 2010-2012. Đến hết ngày 15/8/2010 đã có 311 trường đại học, cao
đẳng báo cáo tình hình triển khai thực hiện Chỉ thị 296 (đạt tỷ lệ 76,4%), trong
đó, có 300 trường (đạt tỷ lệ 96,5% ) thành lập Ban chỉ đạo đổi mới công tác quản
lý giai đoạn 2010-2012; có 183 trường (đạt tỷ lệ 58,8%) xây dựng và công bố
chuẩn đầu ra ngành đào tạo; có 218 trường (đạt tỷ lệ 70,1%) tổ chức xây dựng,
rà soát, bổ sung các chỉ số trong chiến lược phát triến trường giai đoạn 2011-
2015, định hướng đến 2020. Đặc biệt là các chính sách ưu đãi cho SV. Đối với
SV có hoàn cảnh khó khăn thì có biện pháp hỗ trợ về vốn (vay vốn, miễn giảm

học phí), tặng học bổng đối với những SV có thành tích học tập tốt, lựa chọn
những SV ưu tú gửi đi đào tạo ở nước ngoài... Theo báo cáo của Ngân hàng
Chính sách xã hội, đến hết tháng 6/2010, đã có 1.915.774 học sinh, sinh viên
của 1.723.782 hộ gia đình được vay vốn, với tổng dư nợ là 23.745,595 tỷ đồng.
Trong đó, 786.739 sinh viên đại học được vay vốn, dư nợ 10.376,171 tỷ đồng.
Từ ngày 26/8/2009, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định tăng mức cho vay ưu
đãi từ 800.000 đ/sinh viên/tháng lên 860.000đ/sinh viên/tháng
2.2 vai trò của các trường
Còn về bản thân các trường để thu hút SV đã liên tục đổi mới trang thiết bị
dạy và học, thay đổi phương pháp dạy, xây dựng các trương trình chuẩn quốc
tế, liên kết đào tạo với nước ngoài, thuê giảng viên nước ngoài giỏi về giảng dạy,
tuyển chọn đọi ngũ giảng viên có kinh nghiệm. đồng thời triển khai mạnh mẽ chủ
trương đào tạo nhân lực theo nhu cầu xã hội. Năm học vừa qua, các trường ĐH
trong cả nước tiếp tục triển khai tích cực các văn bản thoả thuận đã ký kết với
các các doanh nghiệp, các địa phương để đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu
của các doanh nghiệp, như: Tập đoàn Than và khoáng sản Việt Nam, tập đoàn
Hồng Hải (Đài Loan), Intel, Campal Electrronic Company, tập đoàn Dệt May, ...
các doanh nghiệp đã hỗ trợ kinh phí, trang bị cho các trường cơ sở vật chất,
trang thiết bị, tạo điều kiện cho sinh viên thực hành, thực tập và tiếp nhận sinh
viên sau tốt nghiệp về làm việc tại doanh nghiệp...
2.3 vai trò của gia đình và xã hội .
Đối với gia đình và xã hội cũng rất quan tâm đến đầu tư cho giào dục. có
nhiều gia đình mặc dù hoàn cảnh khó khăn vẫn cố gắng lo cho 2, thậm chi là ba
người con đi học ĐH. Có nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã tổ chức hội chợ việc
làm cho SV, tạo điều kiện làm thêm cho SV…
2.4 vai trò của sinh viên .
Về bản thân SV, do được sự quan tâm của Đảng, nhà nước, gia đình và xã
hội đã cố gắng học tập tốt và đạt được nhiều kết quả cao. Mới đây khi được tin
giáo sư Ngô Bảo Châu đã đạt được giải thưởng toán học quốc tế Fields như một
hiện tượng làm vinh quang không chỉ cho đất nước mà còn lá tấm gương cho

các bạn SV học tập. có rất nhiều SV đã đoạt giải cao trong các kỳ thi olimpic
quốc tế,chúng ta đã có bốn thí sinh xuất sắc đều đoạt giải Olimpic toán cũng như
các cuộc thi Robocon vừa qua Việt Nam đạt giải nhì(năm 2010)…
3. Những khó khăn.
Trên đây là những thánh tựu rất đáng tự hào củ chúng ta. Vì vậy để nâng
cao vị thế GD Việt Nam trên trường quốc tế và nâng cao chất lượng đào tạo, đòi
hỏi chúng ta không chỉ xem xét khía cạnh đã làm được mà còn phải dũng cảm
đối diện với những gì chưa làm được vì đó là vấn đề quan tâm của toàn xã hội
hiện nay. Nếu như một vài năm gần đây, cả nước bừng tỉnh với con số hàng
trăm nghìn thí sinh trượt đai học mỗi năm và phát hiện nguyên nhân chính là kết
quả của căn bệnh thành tích thì từ đó đến nay chúng ta lai quá quen thuộc với
nó. Hàng ngày chúng ta đã quá quen thuộc khi đề cập đến các căn bệnh trong
GD như“bệnh thành tích”, “bệnh đối phó”, “bệnh đấu đá”, “bệnh thiếu trung thực”
đang tràn lan khắp nơi, ở mọi người kể cả thầy lẫn trò mà hiện tượng quay cóp
đang hoành hành, trở thành quốc nạn. Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương
rất đúng đắn: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” và cũng đã có những biện pháp
cụ thể cải cách giáo dục. Tại sao ngành giáo dục vẫn loay hoay lúng túng, chưa
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với giáo dục? Tại sao khi ta cởi
trói cho nông dân và cho các nhà doanh nghiệp, thì nông nghiệp và doanh
nghiệp phát triển? Tại sao chúng ta không cởi trói cho giáo dục để giáo dục phát
triển? nếu như một thầy thuốc thì cần chẩn đoán đúng bệnh và cho đúng thuốc,
thuốc đắng giã tật, bệnh nặng đến đâu cũng chữa được. Phải thẳng thắn nhìn
vào sự thật những căn bệnh trầm kha của giáo dục Việt Nam nói trên. Và phải
biết trị tận căn, mới mong chất lượng giáo dục của Việt Nam được cải thiện.
3.1 Trong quản lý giáo dục.
Thời đại hiện nay, thế kỷ XXI, khoa học quản trị, nhất là quản trị chất lượng
trở nên rất hệ trọng cho sự phát triển. Sau một thời gian đổi mới, tư tưởng bao
cấp, duy ý chí, quản trị theo cảm tính vẫn còn tàn dư, khoa học quản trị chất
lượng chưa thật sự đi vào nền nếp đời sống quản trị giáo dục từ cấp Bộ xuống
đến cấp cơ sở giáo dục. Nếp sống văn hóa chất lượng chưa được hình thành.

Lãnh đạo Bộ cũng như cấp trường vẫn chưa thật sự quan tâm đến khuyến cáo
của các chuyên gia và thực sự chưa xây dựng được một đội ngũ chuyên gia
hùng hậu có chuyên môn cao, có khả năng thuyết phục cao, nhất là thích ứng
với hoàn cảnh đổi mới, vẫn thường quyết định theo cảm tính hoặc do duy ý chí.
Như tại Thái Lan, đối với các trường công lập thì lo quản lý chặt chẽ về tài
chánh, chuyên môn thì để trường hoàn toàn lo. Đối với các đại học tư, nhà nước
lại không quản lý tài chánh, quản lý nhân sự lãnh đạo, song lại quản lý rất chặt
chẽ về chuyên môn. Khi muốn mở một ngành mới, nhà nước quy định cứ 100
sinh viên thì phải có 3 tiến sĩ, 3 thạc sĩ, 1 cử nhân. Tất cả các trường đều phải
tuân thủ, thượng tôn luật pháp.
Các khâu định hướng, mục tiêu, kế hoạch, thanh tra, sử dụng, quản lý nhân
sự về chất lượng đào tạo còn nhiều hạn chế, bất cập, thiếu nhất quán ổn định.
Tiêu chí chuyên môn, hiệu quả chưa thật sự được coi trọng.
3.2 Phương pháp dạy học
Hầu như các giảng viên chỉ quan tâm đến truyền đạt kiến thức và kiểm tra trí
nhớ mà không quan tâm đến rèn luyện kỹ năng và nhân cách chuẩn bị vào đời,
thường dùng phương pháp thuyết giảng là chủ yếu, truyền thụ kiến thức một
cách thụ động, có nơi còn nạn thầy đọc trò ghi, có đổi mới thì lại chuyển từ "đọc
chép sang nhìn chép”,chưa hướng dẫn sinh viên tự học, tự nghiên cứu hoặc
không có biện pháp cụ thể khuyến khích sinh viên tự học, tự nghiên cứu.
Không lấy sinh viên làm trung tâm trong quá trình dạy học. Khi giảng viên áp
dụng phương pháp chủ động, lại gặp quá nhiều khó khăn do hạn chế phương
tiện thiết bị giảng dạy hay thư viện còn rất hạn chế hoặc sinh viên lại rất thụ
động, có thói quen lười suy nghĩ, không làm theo hướng dẫn của giảng viên.
.Các trường đại học vẫn chưa thật sự quan tâm đến thực hành, thực tập. Bài
tập càng nhiều, kỹ năng càng được rèn luyện, tính thưc hành, thực tiễn càng
cao. Ngay giáo trình cũng thiếu vắng các bài tập. Thiếu hẳn một hệ thống trợ
giảng (giảng viên) hay trợ giáo, kèm cặp (tutoring, sinh viên giỏi đàn anh phụ
trách, được cấp tiền bồi dưỡng tượng trưng từng giờ hay từng buổi phụ việc).
Các trường đại học ở Việt Nam chưa quan tâm đến phương pháp học nhóm,

các thư viện chưa bố trí những phòng học nhóm, chưa có trường nào bố trí rất
nhiều bàn ghế để cho bất cứ sinh viên lúc chưa đến giờ học hay giờ trống đến
ngồi gặp gỡ nhau. Các giảng viên cũng không bắt buộc những bài tập làm theo
nhóm, chấm điểm theo nhóm.
3.3 Đội ngũ giảng viên.
Nếu học vị tiến sĩ là điều kiện chuẩn có khả năng dạy đại học thì hiện nay số
lượng giảng viên có học vị này còn quá thấp so với khu vực ASEAN cũng như
các nước phát triển trên thế giới. Dĩ nhiên cũng có các trường hợp ngoại lệ chỉ
có bằng cử nhân nhưng vẫn là người giảng viên đại học giỏi, đầu ngành, được
phong hàm giáo sư hay phó giáo sư. Đối với các nước trên thế giới, người có

×