Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Giải pháp khắc phục và thúc đẩy thị trường chứng khoán tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.57 KB, 65 trang )

Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP VIỆT HUNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH TẾ VÀ NGÂN HÀNG
ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO ĐẲNG
CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
TÊN ĐỀ TÀI
Giải pháp khắc phục và thúc đẩy thị trường chứng khoán tại Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
Giảng viên hướng dẫn: Phạm Thị Vân Anh
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Phương Anh
Lớp: CĐK35 TCNH (Cơ sở Công Thương)
Mã sinh viên: 1101040
Khóa: 2011-2014
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
Hà Nội – Năm 2014
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn tới cô giáo Phạm Thị Vân Anh – giảng
viên trường Đại học Công nghiệp Việt Hung là người trực tiếp hướng dẫn
em làm báo cáo thực tập và đồ án tốt nghiệp này. Đồ án này là kết quả của
quá trình học tập gần 3 năm học của em tại trường. Do đó em cũng xin gửi
lời cảm ơn tới toàn thể các thầy cô đang công tác tại trường Đại học Công
nghiệp Việt Hung cũng như các thầy cô trong khoa Quản trị kinh tế và Ngân
hàng. Nhất là các thầy cô đã tham gia trực tiếp giảng dạy và trang bị cho em
những kiến thức cần thiết để em có thể hoàn thiện kiến thức về ngành Tài
chính ngân hàng nói chung cũng như đồ án tốt nghiệp nói riêng.
Tiếp đến là lời cảm ơn tới người thân, bạn bè đã động viên và giúp đỡ em
trong suốt thời gian làm đồ án cũng như thời gian học tập tại trường. Họ là
những người luôn cho em những góp ý về nội dung cũng như giúp em thu


thập tài kiệu cần thiết để phục vụ cho đồ án tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Trần Thị Phương Anh
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ
STT TÊN BẢNG BIỂU HÌNH VẼ
1
Hình 2.1: So sánh tăng giảm của các chỉ số trong khu vực.
2
Hình 2.2: VN-Index và các chỉ số chứng khoán chính trên thế giới.
3
Hình 2.3: Biến động của VN-Index trong năm 2010.
4
Hình 2.4: Vốn hóa thị trường/GDP.
5
Hình 2.5: Biểu đồ thể hiện giao động việc giao dịch của VNINDEX
năm 2013.
6
Hình 2.6:Thực trạng Vốn hóa/GDP thị trường chứng khoan Việt
Nam (2000-2013)
7
Hình 2.7: Hiện trạng số lượng chứng khoán và cổ phiếu niêm yết
trên thị trường chứng khoán Việt Nam (2000-2013).
8
Hình 2.8: : Thực trạng phát triển các công ty chứng khoán và công
ty quản lý quỹ ở Việt Nam (2000-2013).

9
Hình 2.9: Biểu đồ thể hiện giao động việc giao dịch của VNINDEX
năm 2014.
10
Bảng 2.1: Tình hoạt động của HNX và HSX trên sàn dao dịch
(2010-2011).
11
Bảng 2.2: Thống kê các tiêu chí cơ bản của thị trường chứng
khoán Việt Nam sau 13 năm hoạt động
12
Bảng 2.3: Thống kê thị trường chứng khoán Quý 1.2014
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TTCK: Thị trường chứng khoán.
SGDCK: Sở giao dịch chứng khoán.
HNX: Sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội.
HSX: Sàn giao dịch chứng khoán T.P Hồ Chí Minh.
UBCK: Ủy ban chứng khoán.
UBCKNN: Ủy ban chứng khoán Nhà nước.
CTCK: Công ty chứng khoán.
TPCP: Trái phiếu chính phủ.
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
MỤC LỤC
Lớp: CĐK35TCNH

SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
LỜI MỞ ĐẦU
Đối với Việt Nam thị trường chứng khoán mang đặc thù riêng, tức là
chúng ta xây dựng và hình thành thể chế, hệ thống pháp lý cho hoạt động
của thị trường chứng khoán trước sau đó mới đưa vào vận hành thị trường,
trong khi nhiều quốc gia khác trên thế giới xây dựng hệ thống pháp luật điều
chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán sau khi thị trường đã có thời
gian dài hoạt động. Đó là sự khác biệt của thị trường chứng khoán Việt Nam
so với các thị trường chứng khoán khác trên thế giới. Qua 13 năm hình
thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua nhiều biến
động. Trong quá trình vận hành thị trường đôi lúc còn bộc lộ một số vấn đề
cần phải tiếp tục hoàn thiện, phải có những chiến lược dài hạn, nhưng nhìn
chung có thể nói rằng Việt Nam đã xác định đúng hướng để duy trì và phát
triển thị trường chứng khoán một cách có hiệu quả cho nền kinh tế nước
nhà. Giúp cho thị trường chứng khoán bước đầu phát huy được hiệu quả là
kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Đặc biệt trong tình
hình hiện nay, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới thì thị trường chứng khoán càng khẳng định rõ vai trò và vị
thế của mình trong nền kinh tế.
Nhận thức được tầm quan trọng với vấn đề trên cùng với những kiến thức
được học từ nhà trường, em quyết định chọn đề tài: “Giải pháp khắc phục
và thúc đẩy thị trường chứng khoán tại Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.”
Kết cấu của đề án gồm có ba chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thị trường chứng khoán.
Chương 2: Thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp và ý kiến cá nhân để thúc đẩy sự phát
triển của thị trường chứng khoán Việt Nam.

Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN.
1.1 Tổng quan về chứng khoán.
1.1.1 Khái niệm.
Hiện nay, tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị trường chứng khoán
Quan điểm thứ nhất cho rằng thị trường chứng khoán (TTCK) và thị
trường vốn là một, chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm: Thị
trường tưbản (Capital Market). Nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn
biểu hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua bán các chứng
khoán. TTCK là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do
đó, các thị trường này không thể phân biệt, tách rời nhau mà thống nhất và
cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản.
Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng: ” Thị trường
chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không phải đồng nhất
là một”. Nhưvậy, theo quan điểm này, TTCK và thị trường vốn là khác
nhau, trong đó TTCK chỉ giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và
dài hạn như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các công
cụ tài chính ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ, không thuộc
phạm vi hoạt động của TTCK.
Quan điểm thứ ba dựa trên những gì quan sát được tại đa số các Sở giao
dịch chứng khoán lại cho rằng “Thị trường chứng khoán là thị trường cổ
phiếu”, hay là nơi mua bán các phiếu cổ phần được các công ty phát hành ra
để huy động vốn. Theo quan điểm này, thị trường chứng khoán được đặc
trưng bởi thị trường mua bán các công cụ tài chính mang lại quyền tham gia
sở hữu.
Các quan điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn và

trong từng điều kiện lịch sử nhất định.
Tuy nhiên, quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung
của TTCK hiện nay là:
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi
các loại chứng khoán. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay
bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài
sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự
khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng.
1.1.2 Một số loại chứng khoán cơ bản.
 Cổ phiếu là giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào công ty phát
hành. Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi
sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó.
Người nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông và đồng thời là chủ sở hữu của
công ty phát hành. Cổ phiếu có hai loại chủ yếu là:
• Cổ phiếu phổ thông là loại cổ phiếu phổ biến nhất trong các loại cổ phần của
một công ty cổ phần. Các cổ đông sở hữu loại cổ phiếu này được quyền tự
do chuyển nhượng, có đầy đủ quyền biểu quyết đối với các quyết định
của công ty tại Đại hội cổ đông và được hưởng cổ tức theo kết quả kinh
doanh và giá trị cổ phiếu họ nắm giữ.
Cổ phiếu phổ thông có thể chuyển đổi thành các loại cổ phiếu khác. Cổ
phiếu ưu đãi cũng có thể được chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông theo
những điều kiện nhất định do công ty đó quy định.
Cổ phiếu phổ thông có thể được phát hành hàng loạt sau khi xin phép cơ
quan có thẩm quyền.
Cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông (hay cổ phiếu thường) được gọi là cổ
đông thường. Các cổ đông này sẽ là những người cuối cùng được chia phần

sau khi thanh lý tài sản trong trường hợp công ty bị phá sản.
• Cổ phiếu ưu đãi là một loại chứng khoán vừa có những đặc điểm giống cổ
phiếu thường, vừa giống trái phiếu. Cũng giống như cổ phiếu thường, người
mua cổ phiếu ưu đãi được xem là cổ đông trong công ty. Tuy nhiên, khác với
cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi trả một lượng cổ tức nhất định cho cổ đông
nắm giữ. Giống như trái phiếu, mệnh giá của cổ phiếu ưu đãi khác với mệnh
giá cổ phiếu thường chỉ có giá trị danh nghĩa, mệnh giá cổ phiếu ưu đãi rất
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
quan trọng, có ý nghĩa trong việc chia cổ tức cố định và cổ tức của cổ phiếu
ưu đãi được ấn định theo một tỷ lệ cố định trên mệnh giá.
Có thể nói, lợi ích lớn nhất khi sở hữu cổ phiếu ưu đãi là NĐT có khả
năng thu hồi phần tài sản của công ty lớn hơn cổ đông thường. Cổ đông nắm
cổ phiếu ưu đãi luôn được nhận cổ tức đầu tiên và khi công ty bị phá sản thì
họ cũng là những người được công ty trả trước phần tài sản còn lại, sau đó
mới đến cổ đông thường. Hơn nữa, cổ phiếu phổ thông không thể chuyển
đổi thành cổ phiếu ưu đãi, trong khi cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi thành
cổ phiếu phổ thông theo quyết định củađại hội cổ đông. Cổ đông nắm giữ cổ
phiếu ưu đãi được gọi là cổ đông ưu đãi.
 Trái phiếu là một chứng nhận nghĩa vụ nợ của người phát hành phải trả cho
người sở hữu trái phiếu đối với một khoản tiền cụ thể (mệnh giá của trái
phiếu), trong một thời gian xác định và với một lợi tức quy định. Người
phát hành có thể là doanh nghiệp (trái phiếu trong trường hợp này được gọi
là trái phiếu doanh nghiệp), một tổ chức chính quyền như Kho bạc nhà nước
(trong trường hợp này gọi là trái phiếu kho bạc), chính quyền (trong trường
hợp này gọi là công trái hoặc trái phiếu chính phủ). Người mua trái phiếu,
hay trái chủ, có thể là cá nhân hoặc doanh nghiệp hoặc chính phủ. Tên của
trái chủ có thể được ghi trên trái phiếu (trường hợp này gọi là trái phiếu ghi

danh) hoặc không được ghi (trái phiếu vô danh). Trái chủ là người cho nhà
phát hành vay và họ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả sử dụng
vốn vay của người vay. Nhà phát hành có nghĩa vụ phải thanh toán theo các
cam kết nợ được xác định trong hợp đồng vay. Có các loại trái phiếu sau:
• Phân loại theo người phát hành:
− Trái phiếu của Chính phủ : Đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, chính
phủ phát hành trái phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong dân và các tổ chức
kinh tế, xã hội. Chính phủ luôn được coi là Nhà phát hành có uy tín nhất trên
thị trường; Vì vậy, Trái phiếu Chính phủ được coi là loại chứng khoán có ít
rủi ro nhất.
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
− Trái phiếu của doanh nghiệp là những trái phiếu do doanh nghiệp nhà nước,
công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn phát hành để tăng vốn hoạt
động. Trái phiếu doanh nghiệp có nhiều loại và rất đa dạng.
− Trái phiếu của ngân hàng và các tổ chức tài chính: các tổ chức này có thể
phát hành trái phiếu để tăng thêm vốn hoạt động.
• Phân loại lợi tức trái phiếu:
− Trái phiếu có lãi suất cố định là loại trái phiếu mà lợi tức được xác định theo
một tỷ lệ phần trăm (%) cố định tính theo mệnh giá.
− Trái phiếu có lãi suất biến đổi (lãi suất thả nổi) là loại trái phiếu mà lợi tức
được trả trong các kỳ có sự khác nhau và được tính theo một lãi suất có sự
biến đổi theo một lãi suất tham chiếu.
− Trái phiếu có lãi suất bằng không là loại trái phiếu mà người mua không
nhận được lãi, nhưng được mua với giá thấp hơn mệnh giá (mua chiết khấu)
và được hoàn trả bằng mệnh giá khi trái phiếu đó đáo hạn.
• Phân loại theo mức độ đảm bảo thanh toán của người phát hành:
− Trái phiếu bảo đảm là loại trái phiếu mà người phát hành dùng một tài sản

có giá trị làm vật đảm bảo cho việc phát hành. Khi nhà phát hành mất khả
năng thanh toán, thì trái chủ có quyền thu và bán tài sản đó để thu hồi lại số
tiền người phát hành còn nợ. Trái phiếu bảo đảm thường bao gồm một số
loại chủ yếu sau:
− Trái phiếu có tài sản cầm cố là loại trái phiếu bảo đảm bằng việc người phát
hành cầm cố một bất động sản để bảo đảm thanh toán cho trái chủ. Thường
giá trị tài sản cầm cố lớn hơn tổng mệnh giá của các trái phiếu phát hành để
đảm bảo quyền lợi cho trái chủ.
− Trái phiếu bảo đảm bằng chứng khoán ký quỹ là loại trái phiếu được bảo
đảm bằng việc người phát hành thường là đem ký quỹ số chứng khoán dễ
chuyển nhượng mà mình sở hữu để làm tài sản bảo đảm.
− Trái phiếu không bảo đảm là loại trái phiếu phát hành không có tài sản làm
vật bảo đảm mà chỉ bảo đảm bằng uy tín của người phát hành.
• Phân loại dựa vào hình thức trái phiếu:
− Trái phiếu vô danh là loại trái phiếu không ghi tên của người mua và trong
sổ sách của người phát hành. Trái chủ là người được hưởng quyền lợi.
− Trái phiếu ghi danh là loại trái phiếu có ghi tên của người mua và trong sổ
sách của người phát hành.
• Phân loại dựa vào tính chất trái phiếu:
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
− Trái phiếu có thể chuyển đổi là loại trái phiếu của công ty cổ phần mà trái
chủ được quyền chuyển sang cổ phiếu của công ty đó. Việc này được quy
định cụ thể về thời gian và tỷ lệ khi mua trái phiếu.
− Trái phiếu có quyền mua cổ phiếu là loại trái phiếu có kèm theo phiếu cho
phép trái chủ được quyền mua một số lượng nhất định cổ phiếu của công ty.
− Trái phiếu có thể mua lại là loại trái phiếu cho phép nhà phát hành được
quyền mua lại một phần hay toàn bộ trước khi trái phiếu đến hạn thanh toán.

 Chứng khoán phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những
công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu, nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như
phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các chứng khoán phái
sinh sẽ là đòn bẩy làm tăng nhiều lần giá trị các các đối tượng đầu tư như cổ
phiếu, trái phiếu, hoặc để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu, trái phiếu có
thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở
mức ban đầu. Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành
và mua đi bán lại các chứng từ tài chính, như quyền mua cổ phiếu, chứng
quyền, hợp đồng quyền chọn. Các công cụ phái sinh rất phong phú và đa
dạng, nhưng có bốn công cụ chính là Hợp đồng kỳ hạn (forwards), Hợp
đồng tương lai (futures), Quyền chọn mua hoặc bán (Options) và Hợp đồng
hoán đổi (Swaps). Ngày nay khi thị trường chứng khoán biến động từng giây
từng phút thì việc nắm trong tay những công cụ phái sinh là một biện pháp
khôn ngoan để đối phó với rủi ro.
Các phái sinh chứng khoán Futures và Options thường phức tạp và có tính
chất dao động mạnh, nhưng đồng thời cũng là các phương án đầu tư có ích.
Futures là nghĩa vụ mua hoặc bán một hàng hoá cụ thể nào đó. Options là
quyền bán hoặc mua một hạng mục hàng hóa cụ thể nào đó như: cổ phiếu,
kim loại quý hoặc trái phiếu Kho bạc theo một giá đã xác lập trước trong
một khoản thời gian nào đó.
 Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của các nhà đầu
tư đối với một phần vốn góp trong quỹ đại chúng.
1.2 Thị trường chứng khoán.
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
1.2.1 Khái niệm.
Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của Thị trường vốn,
hoạt động của nó nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã

hội tập trung thành nguồn vốn lớn tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế và Chính phủ để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án
đầu tư.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán
các loại chứng khoán. Việc mua bán được tiến hành ở hai thị trường sơ cấp
và thứ cấp. do vậy thị trường chứng khoán là nơi chứng khoán được phát
hành và trao đổi.
1.2.2 Chức năng.
• Chức năng huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: Thị trường chứng khoán là
nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về chứng khoán qua đó cho phép chuyển các
khoản tiết kiệm vào đầu tư, khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do công ty
phát hành thì số tiền tiết kiệm của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh
doanh qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua thị trường
chứng khoán chính phủ nhà nước cũng huy động được các nguồn vốn chung
và dài hạn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ các nhu cầu chung
của xã hội. Thị trường chứng khoán khơi thông dòng chảy trong nền kinh tế,
chỉ khi phát hành chứng khoán vốn huy động đầu tư cho nền kinh tế.
• Thị trường chứng khoán cung cấp cho công chúng môi trường đầu tư đa
dạng với các cơ hội đầu tư phong phú: Có nhiều loại chứng khoán trên thị
trường với mức độ rủi ro khác nhau để các nhà đầu tư có thể lựa chọn phù
hợp với khả năng và sở thích của mình.
• Cung cấp các khả năng thanh khoản cho các chứng khoán: Nhờ có thị
trường chứng khoán mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi được các chứng
khoán của họ thành tiền mặt và thành các chứng khoán khác khi họ muốn.
Chức năng này rất quan trọng vì nó đảm bảo cho thị trường chứng khoán
hoạt động năng động và hiệu quả.
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung

• Chức năng đánh giá giá trị của doanh nghiệp và tình hình nền kinh tế: Thị
trường chứng khoán là nơi đáng giá giá trị tài sản của doanh nghiệp và cả
nền kinh tế một cách tổng hợp một cách chính xác từ đó tạo môi trường cạnh
tranh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kích thích áp dụng công nghệ
mới cải tiến sản phẩm.
• Thị trường chứng khoán giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ
mô: Thông qua thị trường chứng khoán chính phủ có thể mua và bán trái
phiếu nhằm tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và kiềm chế lạm
phát. Ngoài ra chính phủ còn có thể sử dụng một số chính sách hoặc biện
pháp tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư bảo đảm
cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
1.2.3 Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán.
• Nhà phát hành:
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị
trường chứng khoán. Nhà phát hành có thể là Chính phủ, chính quyền địa
phương, Công ty.
Nhà đầu tư:
• Các nhà đầu tư các nhân:
Nhà đầu tư các nhân là những người tham gia mua bán trên thị trường
chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, lợi nhuận luôn
gắn liền với rủi ro. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn. Do vậy, các nhà
đầu tư phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với mình.
• Các tổ chức kinh doanh chứng khoán:
− Công ty chứng khoán:
Các công ty này hoạt động với nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, tự
doanh, môi giới, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán.
− Các ngân hàng thương mại:
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh

Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn để đầu tư chứng khoán
nhưng chỉ được trong giới hạn rất định để bảo vệ ngân hàng trước những
biến động của giá chứng khoán.
• Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán:
− Cơ quan quản lý nhà nước:
Cơ quan này được thành lập để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối
với thị trường chứng khoán. cơ quan này có những tên gọi khác nhau tuỳ
từng nước. Tại Anh có Uỷ ban đầu tư chứng khoán (SIB- Securities
Investment Board), tại Mỹ có Uỷ ban chứng khoán và Giao dịch chứng
khoán (SEC - Securities And Exchange Comission) hay ở Nhật Bản có Uỷ
ban giám sát chứng khoán và Giao dịch chứng khoán (ESC - Exchange
Surveillance Comission) được thành lập vào năm 1992 và đến năm 1998 đổi
tên thành FSA - Financial Supervision Agency. Và ở Việt Nam có Uỷ ban
chứng khoán nhà nước được thành lập theo Nghị địng số 75/CP ngày
28/11/1996.
− Sở giao dịch chứng khoán:
Hiện nay trên thế giới có ba hình thức tổ chức SGDCK:
Thứ nhất: SGDCK được tổ chức dưới hình thức “câu lạc bộ mini” hay
được tổ chức theo chế độ hội viên. Đây là hình thức tổ chức SGDCK có tính
chất tự phát. Trong hình thức này, các hội viên của sgdck tự tổ chức và tự
quản lý SGDCK theo pháp luật không có sự can thiệp của nhà nước. Các
thành viên của SGDCK bầu ra hội đồng quản trị để quản lý và hội đồng
quản trị bầu ra ban điều hành.
Thứ hai: SGDCK được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần có cổ
đông là công ty chứng khoán thành viên. SGDCK tổ chức dưới hình thức
này hoạt động theo luật công ty cổ phần và chịu sự giám sát của một cơ quan
chuyên môn về chứng khoán và thị trường chứng chứng khoán do chính phủ
lập ra.
Lớp: CĐK35TCNH

SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
Thứ ba: SGDCK được tổ chức dưới dạng một công ty cổ phần nhưng có
sự tham gia quản lý và điều hành của Nhà nước. Cơ cấu tổ chức, điều hành
và quản lý cũng giống như hình thức công ty cổ phần nhưng trong thành
phần hội đồng quản trị có một số thành viên do Uỷ ban chứng khoán quốc
gia đưa vào, giám đốc điều hành SGDCK do ủy ban chứng khoán bổ nhiệm.
• Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm:
Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm là các công ty chuyên đưa ra các
đánh giá về tình hình và triển vọng của các công ty khác dưới dạng các hệ số
tín nhiệm.
1.2.4 Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán.
Nguyên tắc hoạt động thị trường chứng khoán:
• Nguyên tắc trung gian: Trên thị trường chứng khoán thì các giao dịch chứng
khoán không phải do người mua hay người bán chứng khoán thực hiện mà
do những người môi giới trung gian thực hiện. Nguyên tắc này đảm bảo cho
các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thực và tạo ddieuf kiện
cho thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh nhanh chóng đều đặn hợp
pháp bảo vệ được lợi ích của người đầu tư.
• Nguyên tắc đấu giá: Việc đấu giá chứng khoán được thực hiện thông qua
đấu giá giữa người môi giới mua và người môi giới bán. Có ba hình thức
đấu giá cơ bản sau:
− Đấu giá trực tiếp: Là hình thức đấu giá theo phương thức các nhà môi giới
gặp nhau thông qua một người trung gian tại quầy giao dịch trong sàn giao
dịch.
− Đấu giá gián tiếp: Là các nhà môi giới không trực tiếp gặp nhau trong giao
dịch. Trong giao dịch này các công ty chứng khoán thường xuyên công bố
giá cao nhất sẵn sàng mua và giá thấp nhất sẵn sàng bán cho mỗi loại chứng
khoán mà công ty đang xây dựng.

Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
− Đấu giá tự động: Đánh giá qua hệ thống máy tính nối mạng giữa máy chủ
của sở giao dịch chứng khoán với hệ thống của các công ty chứng khoán
thành viên.
• Nguyên tắc công khai: Là tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán
đều công khai. Nguyên tắc này nhằm bảo vệ lợi ích cho nhà đầu tư đảm bảo
công bằng hợp pháp lành mạnh.
1.2.5 Cấu trúc và phân loại cơ bản, một số luật liên quan đến thị
trường chứng khoán.
• Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn:
− Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành.
Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành
thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
− Thị trường thứ cấp: là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên
thị trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát
hành.
• Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường:
− Cách thứ nhất là tổ chức thành các Sở giao dịch (Stock Exchange), tại đây,
người mua và người bán (hoặc đại lý, môi giới của họ) gặp nhau tại một địa
điểm nhất định để tiến hành giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán.
Chính vì vậy, người ta còn gọi Sở giao dịch chứng khoán là thị trường tập
trung, nơi giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán của các công ty lớn,
hoạt động có hiệu quả. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý một cách
chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán quốc gia, các giao dịch chịu sự điều tiết
của Luật Chứng khoán và thị trường chứng khoán. Những thị trường chứng
khoán tập trung tiêu biểu được biết đến là Sở giao dịch chứng khoán Luân
đôn (London Stock Exchange), Sở giao dịch chứng khoán Mỹ (American

Stock Exchange), Sở giao dịch chứng khoán Pari (Paris Stock Exchange).
− Cách thứ hai, khác với thị trường tập trung, thị trường giao dịch qua quầy
hay thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC: Over -The – Counter
Market) là thị trường của các nhà buôn, những người tạo thị trường (Market
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
Makers). Các nhà buôn có một danh mục chứng khoán và họ sẵn sàng mua
và bán với các nhà buôn khác cũng nhưcác nhà đầu tư khi những người này
chấp nhận giá cả của họ. ở thị trường này không có địa điểm giao dịch
chính thức mà có thể diễn ra tại tất cả các quầy, sàn giao dịch của các thành
viên thông qua điện thoại hay mạng máy tính diện rộng. Khối lượng giao
dịch của thị trường này thường lớn hơn rất nhiều lần so với thị trường Sở
giao dịch.
• Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường:
Thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các thị trường:
thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng
khoán phái sinh.
− Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán
các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
− Thị trường trái phiếu: thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua
bán các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái
phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
− Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: Thị trường các chứng khoán
phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính
khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn
• Nội dung chính của luật chứng khoán:
Luật Chứng khoán đã được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua
ngày 29/6/2006. Đây là văn bản pháp luật cao nhất về chứng khoán và thị

trường chứng khoán. Luật sẽ có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2007.
Luật Chứng khoán được ban hành cũng nhằm tạo điều kiện cho thị trường
chứng khoán Việt Nam có khả năng hội nhập sâu hơn với các thị trường vốn
quốc tế và khu vực và thực hiện các cam kết của Việt Nam trong lộ trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Về tổng thể, Luật Chứng khoán bao gồm 11 chương và 136 Điều với các
nội dung cơ bản như sau:
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
1. Về phạm vi và đối tượng điều chỉnh, Luật Chứng khoán có phạm vi điều chỉnh
rộng, quy định về hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết,
giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán và các dịch vụ về chứng khoán
và thị trường chứng khoán. Riêng về hoạt động đầu tư chứng khoán, để
thống nhất với Luật Đầu tư vừa được Quốc hội thông qua, Luật Chứng
khoán thống nhất điều chỉnh đối với hoạt động đầu tư gián tiếp như mua,
bán cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu hoặc thông qua quỹ đầu tư chứng khoán
của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Đối tượng áp dụng của Luật Chứng khoán là tổ chức, cá nhân Việt
Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư chứng khoán và hoạt
động trên thị trường chứng khoán Việt Nam và các tổ chức, cá nhân khác có
liên quan đến hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tuy nhiên,
Luật có quy định trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có
quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng Điều ước quốc tế đó.
2. Về giải thích từ ngữ, Luật Chứng khoán đưa ra những khái niệm, thuật ngữ cơ
bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, bao gồm: khái niệm về thị
trường chứng khoán, thị trường giao dịch chứng khoán, chào bán chứng
khoán ra công chúng, kinh doanh chứng khoán… Những khái niệm này
được xây dựng để đảm bảo chuẩn hoá theo thông lệ quốc tế, đồng thời phù

hợp với thực tiễn của Việt Nam.
3. Về quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Luật Chứng
khoán thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật, cấp các loại giấy phép, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
trong lĩnh vực chứng khoán. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về
chứng khoán và thị trường chứng khoán, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm
trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thị trường chứng
khoán. Trong Luật quy định rõ Uỷ ban Chứng khoán nhà nước là cơ quan
thuộc Bộ Tài chính nhưng được thực hiện một số chức năng và thẩm quyền
nhất định như cấp các loại giấy phép, giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm hành
chính trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán… nhằm đảm
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
bảo tính độc lập cần thiết và thực quyền của Uỷ ban Chứng khoán nhà nước
trong việc quản lý cũng như thực hiện các vấn đề nghiệp vụ về chứng khoán
và thị trường chứng khoán. Bộ Tài chính thực hiện chức năng ban hành văn
bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền và chỉ đạo Uỷ ban Chứng khoán
nhà nước thực hiện chiến lược, kế hoạch, chính sách, chế độ về chứng khoán
và thị trường chứng khoán.
4. Về chào bán chứng khoán ra công chúng, Luật Chứng khoán thống nhất điều
chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng của các đối tượng và
theo hướng dẫn cụ thể của Chính phủ về điều kiện chào bán chứng khoán
đối với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
chuyển đổi thành công ty cổ phần, doanh nghiệp mới thành lập thuộc lĩnh
vực cơ sở hạ tầng hoặc công nghệ cao; về chào bán chứng khoán ra nước
ngoài và các trường hợp cụ thể khác.
Riêng đối với việc phát hành trái phiếu Chính phủ, hiện nay được
điều chỉnh bởi Luật Ngân sách. Do vậy, tại Luật này không điều chỉnh việc

phát hành trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, việc niêm yết, giao dịch trái
phiếu Chính phủ trên Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch
chứng khoán phải tuân theo quy định của Luật Chứng khoán.
5. Về công ty đại chúng, đây là một nội dung mới trong Luật Chứng khoán, quy
định về công ty đại chúng và các nghĩa vụ công ty đại chúng phải tuân thủ.
Việc đặt ra các quy định về công ty đại chúng nhằm đảm bảo tất cả các
doanh nghiệp có chứng khoán được công chúng sở hữu rộng rãi (kể cả các
doanh nghiệp đã phát hành chứng khoán ra công chúng trước khi Luật
Chứng khoán có hiệu lực hoặc phát hành riêng lẻ nhiều lần theo quy định
của Luật Doanh nghiệp) phải tuân thủ nguyên tắc công khai, minh bạch, từ
đó có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Hoạt động
chào mua công khai được quy định để đảm bảo tính công khai, minh bạch,
tránh việc các công ty đại chúng bị “thâu tóm” không công bằng, không
công khai và để bảo vệ các cổ đông thiểu số trong doanh nghiệp bị “thâu
tóm”.
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
Luật Chứng khoán quy định việc chào mua công khai chỉ được thực
hiện sau khi Uỷ ban Chứng khoán nhà nước chấp thuận và đã được công bố
trên các phương tiện thông tin đại chúng trước thời điểm dự kiến thực hiện.
6. Về thị trường giao dịch chứng khoán, Luật quy định Sở Giao dịch chứng
khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán là pháp nhân hoạt động theo mô
hình công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Thủ tướng Chính
phủ quyết định thành lập, giải thể, chuyển đổi cơ cấu tổ chức và hình thức sở
hữu. Mô hình tổ chức và hoạt động giữa Sở Giao dịch chứng khoán và
Trung tâm Giao dịch chứng khoán cơ bản là giống nhau, chỉ khác nhau về
hàng hoá và phương thức giao dịch.
Trong Luật quy định Sở Giao dịch chứng khoán có chức năng tổ chức

thị trường giao dịch chứng khoán cho các chứng khoán đủ điều kiện niêm
yết tại Sở Giao dịch chứng khoán theo phương thức khớp lệnh tập trung và
phương thức giao dịch khác theo quy định tại Quy chế giao dịch chứng
khoán của Sở Giao dịch chứng khoán; Trung tâm Giao dịch chứng khoán tổ
chức thị trường giao dịch chứng khoán cho các chứng khoán không đủ điều
kiện niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán theo phương thức thoả thuận và
các phương thức giao dịch khác quy định tại Quy chế Giao dịch chứng
khoán của Trung tâm Giao dịch chứng khoán. Chứng khoán niêm yết tại
Trung tâm Giao dịch chứng khoán được giao dịch tại công ty chứng khoán
là thành viên của Trung tâm Giao dịch chứng khoán theo Quy chế của Trung
tâm.
Về điều kiện niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao
dịch chứng khoán, trong Luật chỉ quy định những nguyên tắc cơ bản về điều
kiện niêm yết; quy định cụ thể về mức vốn điều lệ, số năm có lãi, số lượng
cổ đông nắm giữ… do Chính phủ hướng dẫn vì nhiều quốc gia, tiêu chuẩn
niêm yết là so Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán
quy định sau khi được Uỷ ban Chứng khoán nhà nước chấp thuận. Và, trong
điều kiện của Việt Nam, tiêu chuẩn niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán,
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
Trung tâm Giao dịch chứng khoán có thể thay đổi để linh hoạt điều chỉnh
khi điều kiện thị trường thay đổi.
7. Đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán, tổ chức và hoạt động của
Trung tâm lưu ký chứng khoán: Giống như Sở Giao dịch chứng khoán và
Trung tâm Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán cũng
được tổ chức theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ
phần theo quy định của Luật Chứng khoán, có chức năng tổ chức, quản lý và
giám sát hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán.

Thành viên lưu ký tại Trung tâm Lưu ký chứng khoán là các ngân
hàng thương mại hoạt động tại Việt Nam, công ty chứng khoán đáp ứng đủ
các điều kiện như về trang thiết bị, về hoạt động kinh doanh… được Uỷ ban
Chứng khoán nhà nước cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động lưu ký
chứng khoán. Luật quy định chứng khoán của các công ty đại chúng phải
được đăng ký, lưu ký tập trung tại Trung tâm lưu ký chứng khoán. Quy định
như vậy là phù hợp với thông lệ quốc tế về đăng ký và lưu ký tập trung,
khắc phục được tình trạng các nhà đầu tư nắm giữ trực tiếp chứng chỉ chứng
khoán. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc theo dõi biến động sở
hữu, cũng như thuận tiện cho việc giao dịch, thanh toán và tiến tới thực hiện
chính sách phi vật chất chứng khoán như một số nước đã tiến hành.
8. Về công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, Luật quy
định công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán được tổ
chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo
Luật Doanh nghiệp do Uỷ ban Chứng khoán nhà nước cấp Giấy phép thành
lập và hoạt động. Giấy phép này đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh.
Các điều kiện cấp Giấy phép thành lập và hoạt động công ty chứng
khoán, công ty quản lý quỹ được quy định bao gồm điều kiện về trụ sở,
trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh chứng khoán, có đủ số vốn pháp
định và giám đốc hoặc tổng giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ
kinh doanh chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề. Riêng điều kiện về
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
mức vốn pháp định sẽ do Chính phủ quy định cụ thể vì đây là chỉ tiêu định
lượng có thể thay đổi theo tình hình phát triển của thị trường.
Về nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán: Luật quy định công ty chứng
khoán được thực hiện các nghiệp cụ môi giới, bảo lãnh phát hành và tư vấn

đầu tư chứng khoán; công ty quản lý quỹ được thực hiện nghiệp vụ quản lý
quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. Chứng
chỉ hành nghề chứng khoán được cấp cho các cá nhân có đủ điều kiện. Đây
cũng là một điểm mới so với cơ chế hiện hành. Chứng chỉ hành nghề không
có thời hạn và chỉ có giá trị khi người có chứng chỉ hành nghề làm việc tại
một công ty chứng khoán hay công ty quản lý quỹ. Luật quy định trách
nhiệm của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ phải báo cáo Uỷ ban
Chứng khoán nhà nước về những người hành nghề tại công ty chứng khoán,
công ty quản lý quỹ đó và định kỳ các cá nhân hành nghề tại công ty chứng
khoán, công ty quản lý quỹ đó và định kỳ các cá nhân hành nghề phải bồi
dưỡng, đào tạo chứng khoán để cập nhật những quy định, những nghiệp vụ
mới.
9. Về Quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán và ngân hàng giám
sát, Luật quy định các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán, việc thành lập quỹ
đầu tư chứng khoán; quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; Đại hội nhà đầu tư;
Điều lệ quỹ; giải thể quỹ; các quy định hạn chế đối với quỹ đại chúng; quy
định về quỹ mở, quỹ đóng.
Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường, đa dạng hoá
các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán, Luật Chứng khoán quy định về thành
lập, tổ chức và hoạt động của công ty đầu tư chứng khoán (thực chất là quỹ
đầu tư chứng khoán dạng pháp nhân) được tổ chức dưới hình thức công ty
cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp để đầu tư vào chứng khoán.
Công ty đầu tư chứng khoán trong Luật này là loại hình công ty mới, hiện
chưa có ở Việt Nam, tổ chức và bộ máy của công ty này mang tính đặc thù
cao, do vậy trong Luật chỉ quy định những nguyên tắc cơ bản về việc thành
lập và hoạt động của loại hình công ty này còn các nội dung cụ thể sẽ do
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung

Chính phủ hướng dẫn để đảm bảo tính thực thi và phù hợp với tình hình thực
tế.
Về ngân hàng giám sát, Luật Chứng khoán không đặt ra các quy định
về cấp phép đối với ngân hàng giám sát mà chỉ quy định ngân hàng giám sát
thực hiện giám sát việc quản lý quỹ đại chúng chỉ khi có Giấy chứng nhận
đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán.
10. Về Công bố thông tin, Luật Chứng khoán dành một chương quy định về đối
tượng và phương thức công bố thông tin; nghĩa vụ công bố thông tin của tổ
chức phát hành, tổ chức niêm yết, công ty đại chúng, công ty chứng khoán,
công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán và Sở
Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán. Các đối tượng
này khi công bố thông tin phải đồng thời báo cáo Uỷ ban Chứng khoán nhà
nước về nội dung thông tin được công bố. Nội dung và phương thức công bố
thông tin của từng đối tượng do Bộ Tài chính quy định.
11. Thanh tra và xử lý vi phạm, để đảm bảo thị trường chứng khoán hoạt động
có hiệu quả, ngăn ngừa các hành vi vi phạm và hạn chế rủi ro trên thị trường
chứng khoán, hạn chế đến mức thấp nhất việc hình sự hoá các quan hệ kinh
tế trong lĩnh vực chứng khoán, trong Luật quy định rõ quyền hạn của Uỷ ban
Chứng khoán nhà nước trong việc thực hiện các biện pháp thanh tra thị
trường và xử lý các hành vi vi phạm, theo đó quy định rõ các căn cứ, điều
kiện, biện pháp tiến hành thanh tra về hoạt động chứng khoán và thị trường
chứng khoán, quyền và nghĩa vụ của đối tượng chịu sự thanh tra thị trường
chứng khoán.
Về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị
trường chứng khoán: Trong Luật quy định cụ thể về các hành vi vi phạm
trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán và hình thức xử lý
tương ứng với từng hành vi vi phạm. Riêng về mức tiền xử phạt được quy
định trong văn bản dưới Luật cho phù hợp với tình hình thực tế trong từng
thời kỳ và quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Lớp: CĐK35TCNH

SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
12. Về giải quyết tranh chấp, khiếu nại tố cáo và bồi thường thiệt hại, Luật
Chứng khoán quy định nội dung và nguyên tắc giải quyết tranh chấp; việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khoán, quy định cụ thể về trách nhiệm của Uỷ ban Chứng khoán nhà nước
trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo;
tổ chức, cá nhân bị thiệt hại về kinh tế do việc vi phạm pháp luật chứng
khoán có quyền khởi kiện để yêu cầu tổ chức, cá nhân gây thiệt hại phải bồi
thường.
Để Luật Chứng khoán sớm đi vào cuộc sống, dự kiến các Nghị định
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán sẽ được hoàn
chỉnh và trình Chính phủ trong tháng 11/2006. Trong tháng 12/2006, Bộ Tài
chính sẽ tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho các tổ chức và cá nhân liên quan,
đồng thời chuẩn bị các nội dung cần thiết để Luật Chứng khoán được thực
thi từ ngày 01/01/2007.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM HIỆN NAY.
2.1 Sự cần thiết phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
Do việt Nam xuất phát điểm từ một nước nghèo nhưng kể từ sau đổi mới
năm 1986 nền kinh tế đã có những bước chuyển biến rất nhanh do đó nhu
cầu vốn đầu tư tăng cao. Trong khi đó, quá trình công nghiệp hóa hiện đại
hóa lại đòi hỏi ngày một khối lượng khổng lồ vốn dài hạn: Trong năm năm
1991 – 1995, để có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 2,8% năm cần 18,6 tỉ
USD. Thời kì 1996 – 2000, để đạt được tốc độ tăng trưởng 9 – 9,5% năm thì
dự tính vốn đầu tư đã tăng hơn 2,2 lần, khoảng 40-45 tỉ USD. Với quy mô
như vậy năm 2020 vốn đầu tư là 500-600 tỉ USD. Do đó việc phát triển thị
trường chứng khoán là một trong những giải pháp huy động vốn cho các
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đồng thời giúp nhân dân có thể mở rộng

danh mục đầu tư.
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh
Đồ án tốt nghiệp Trường: ĐHCN Việt-Hung
Ngoài ra sự hình thành thị trường chứng khoán còn có các lý do sau:
− Sự hình thành của thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn cho
các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất kinh
doanh trong điều kiện nền kinh tế việt Nam đang ngày càng phát triển và mở
rộng hội nhập như hiện nay.
− Dưới góc độ vĩ mô thì sự hình thành thị trường chứng khoán tạo ra một thị
trường tài chính hoàn thiện hơn với chúng ta đồng thời nâng cao hiệu quả
hoạt động của thị trường tài chính.
− Một thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả là cơ sở giúp hoạch định
các chính sách kinh doanh trong tương lai, đưa ra các dự báo chính xác đồng
thời giúp nhà nước quản lý vĩ mô thông qua TTCK.
2.2 Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
2.2.1 Lịch sử hình thành chứng khoán tại Việt Nam.
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc
đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày
20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ở
thời điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE
và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được
niêm yết giao dịch.
Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái gà gật, loại trừ cơn
sốt vào năm 2001(chỉ số VN index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu
năm nhưng chỉ trong vòng chưa đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ
phiếu niêm yết đã mất giá tới 70% giá trị, chỉ số VN Index sụt từ 571,04
điểm vào ngày 25/4/2001 xuống chỉ còn khoảng 200 điểm vào tháng

10/2001. Trong 4 tháng “hoảng loạn” này, trong khi nhiều nhà đầu tư tháo
chạy khỏi thị trường với lời nguyền không bao giờ quay lại thì một số nhà
đầu tư khác vẫn bình tĩnh bám trụ, âm thầm mua bán và tiếp tục kiếm được
lợi nhuận. thì trong 5 năm chỉ số VN-Index lúc cao nhất chỉ có 300 điểm,
mức thấp nhất xuống đến130 điểm. Lý do chính là ít hàng hoá, các doanh
Lớp: CĐK35TCNH
SVTH:
Trần Thị Phương Anh

×