Tải bản đầy đủ (.docx) (160 trang)

luận văn thạc sĩ kinh tế đầu tư Một số giải pháp chiến lược phát triển dịch vụ du lịch tại khu di tích và thắng cảnh Hương Sơn – Huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.08 KB, 160 trang )

1
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, nội dung luận văn là kết quả của sự tìm tòi, nghiên
cứu, sưu tầm từ nhiều nguồn tài liệu và liên hệ với thực tiễn. Các số liệu trong
luận văn là trung thực không sao chép từ bất cứ luận văn hoặc đề tài nghiên
cứu nào trước đó.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những nội dung đã trình bày.
Tác giả
NGUYỄN BÁ HIỂN
1
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD Viện Kinh tế & Quản lý
2
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình theo học chương trình cao học quản trị kinh doanh của Trường
Đại học Bách Khoa Hà Nội và nhất là trong thời gian nghiên cứu, hoàn thiện luận
văn ngày hôm nay là kết quả của một quá trình học tập cùng với sự say mê và dày
công nghiên cứu của bản thân mình. Nhưng để tôi có được kết quả này là nhờ sự
giảng dạy, chỉ bảo nhiệt tình của các thầy, cô Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội và
sự ủng hộ của các đồng nghiệp, bạn bè và gia đình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu,Viện Đào tại sau Đại học, các
giảng vên Viện kinh tế và Quản lý Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội đã giảng
dạy và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong khóa học và trong quá trình thực hiện luận
văn này.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo TS. Đào Thanh Bình
người đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình hoàn thiện luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp Khu di tích
và Thắng cảnh Hương Sơn nơi tôi công tác để hoàn thành tốt luận văn này.
Và trong thời gian học tập cũng như thời gian làm luận văn, tôi nhận được sự
cộng tác chân thành của các học viên cùng học và tôi xin được gửi lời cám ơn tới họ


về sự cộng tác và giúp đỡ trong thời gian qua.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã ủng hộ tôi trong suốt
thời gian học tập và làm luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cám ơn!
Hà Nội, tháng 1 năm 2013
Tác giả
NGUYỄN BÁ HIỂN
2
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD Viện Kinh tế & Quản lý
3
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
3
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD Viện Kinh tế & Quản lý
4
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
MỤC LỤC
4
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD Viện Kinh tế & Quản lý
5
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ các từ viết tắt
BQL Ban Quản lý
CSHT Cơ sở hạ tầng
CSLT Cơ sở lưu trú
ĐĐDL Điểm đến du lịch
Sở VHTT&DL Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch
UBND Ủy Ban Nhân Dân
UNESCO Tổ chức, Giáo dục Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc
DV Dịch vụ

DL Du lịch
KT-XH Kinh tế xã hội
SWOT Strength Weakness Opportunity Threat - Ma trận phân tích
điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức
BCG Ma trận tổ hợp kinh doanh của Boston Consultant Group
EFE External Factor Evaluation - Ma trận đánh giá các yếu tố
bên ngoài
IFE Internal Factor Evaluation - Ma trận đánh giá các yếu tố bên
trong
SXKD Sản xuất kinh doanh
NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
DT -TC Di tích – thắng cảnh
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
PTTH Phổ thông trung học
5
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD Viện Kinh tế & Quản lý
6
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ DANH MỤC BẢNG BIỂU
TT Hình/Bảng Tên hình, bảng, sơ đồ Trang
1
1
Hình 1.1
Quy trình quản trị chiến lược kinh doanh
2 Hình 1.2 Mô hình PEST nghiên cứu môi trường vĩ mô
3 Hình 1.3 Mô hình 5 áp lực cạnh trạnh của M.Porter
4 Hình 1.4 Mô hình ma trận SWOT
5 Hình 1.5 Ma trận GE trong mô hình Mc Kinsey
6 Hình 1.6 Ma trận GE trong mô hình Clairdes Hofer
7

Hình 1.7
Sơ đồ các yếu tố hình thành chiến lược dịch vụ du lịch
8
Bảng 2.1 Thống kê CSLT tại Khu di tích – thắng cảnh Hương
Sơn tính đến
9
Bảng 2.2 Thống kê cửa hàng - dịch vụ ăn uống tại khu di tích –
thắng cảnh Hương Sơn tính đến T12/2011.
Bảng 2.3 Thống kê số liệu khách du lịch đến Hương Sơn
từ năm 2007 - T12/2011
Bảng 2.4 Doanh thu xã hội từ du lịch tại khu DT-TC Hương Sơn
từ 2007 - T12/2011
Bảng 2.5 Doanh thu vé thắng cảnh tại khu DT-TC Hương Sơn
Từ 2007 – T12/2011
Bảng 2.6 Doanh thu vận chuyển ở khu DT-TC Hương Sơn Từ
2007 – T12/2011
Bảng 2.7 Cơ cấu vé thắng cảnh và vé đò ở khu di tích thắng
cảnh Hương Sơn (áp dụng từ năm 2009)
Bảng 2.8 Thuế thu từ hoạt động vận chuyển ở khu di tích thắng
cảnh Hương Sơ từ 2007 – T12/2011
Bảng 2.9 Thống kê số lượng vé cáp treo bán qua các năm
từ 2007 – T12/2011
Bảng 2.10 Bảng ma trận đánh giá các yếu tố bên ngoài(EFE)
Bảng 2.11 Bảng ma trận đánh giá các yếu tố bên trong (IFE)
Bảng 3.1 Ma trận SWOT
6
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD Viện Kinh tế & Quản lý
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày nay, những quốc gia có lợi thế về điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa,
di tích… thường tập trung chú trọng trong việc xây dựng phát triển du lịch. Việt
Nam chúng ta cũng vậy, với những điều kiện ưu đãi về tự nhiên địa lý, với bề dày
lịch sử dựng nước và chống ngoại xâm, với nền văn hóa đa dạng, phong phú giàu
tiềm năng du lịch…chúng ta có thể trở thành một cường quốc du lịch của thế giới
trong tương lai. Những năm gần đây với sự phát triển khá cao của ngành du lịch
Việt Nam đã từng bước khẳng định là điểm đến lý tưởng của nhiều du khách trong
và ngoài nước. Nhu cầu đi du lịch của người dân trong nước cũng như tỷ lệ thuận
với tốc độ phát triển kinh tế của đất nước. Nhu cầu đi du lịch không còn là đơn
thuần đi nghỉ dưỡng mà còn có thêm nhu cầu đi thưởng ngoạn, khám phá, học hỏi,
nghiên cứu…nhằm tăng thêm vốn kiến thức và thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ về mặt
tinh thần.
Để phát du lịch, các nước thường tập trung xây dựng những điểm đến du lịch
có danh tiếng và thương hiệu trên thị trường du lịch khu vực và quốc tế. Việt Nam tự
hào giàu tiềm năng du lịch, nhưng các điểm đến du lịch vẫn nghèo nàn, thô sơ và có
nhiều vấn đề bất cập. Điểm đến du lịch Hương Sơn thuộc Huyện Mỹ Đức, Hà Nội,
cách Trung tâm Hà Nội khoảng 50Km. Từ lâu Hương Sơn được du khách biết đến
với lễ hội Chùa Hương, một trong những lễ hội truyền thống lớn nhất Việt Nam cùng
hệ thống các công trình kiến trúc phật giáo cổ kết hợp hài hòa với nhữn hang động,
thung lũng suối đã tạo nên một khu danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam.
Trong những năm qua, hoạt động du lịch ở Hương Sơn phát triển rất mạnh
đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ở Hương Sơn
nói riêng và huyện Mỹ Đức nói chung. Tuy vậy, sự phát triển đang dần bộc lộ ra
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 7 Viện Kinh tế & Quản lý
7
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
những bất cập thể hiện qua một loạt các hiện tượng tiêu cực như việc xây dựng trái
phép vệ sinh môi trường, dịch vụ, hàng quán phát triển tràn lan không theo quy
hoạch, hoạt động thuyền đò thiếu tổ chức tất cả đang ảnh hưởng đến sự phát triển
bền vững Hương Sơn và cho thấy cần có một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện

chiến lược phát triển dịch vụ du lịch tại khu di tích và thắng cảnh Hương Sơn –
Huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội.
Với những đòi hỏi ngày càng cao hơn về du lịch, chúng ta cần phải có
những chiến lược phù hợp với điều kiện sẵn có của mình. Sự lớn mạnh của ngành
du lịch Việt Nam trong tương lai luôn gắn chặt với sự lớn mạnh du lịch tại nhiều
địa phương trong cả nước. Với xu hướng phát triển đó, khu di tích và thắng cảnh
Hương Sơn - Huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội cũng cần phải có chiến lược cụ
thể trong việc phát triển dịch vụ du lịch tại khu di tích và thắng cảnh Hương Sơn,
để tạo tiền đề cho sự phát triển ngành, thu hút được nhiều du khách đến thăm quan
trong những năm tiếp theo, tôi xin chọn đề tài nghiên cứu. “Một số giải pháp
chiến lược phát triển dịch vụ du lịch tại khu di tích và thắng cảnh Hương Sơn –
Huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội đến năm 2020” làm đề tài cho luận văn
thạc sỹ của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là phân tích tiềm năng và thực trạng dịch vụ du lịch tại
Khu di tích và thắng cảnh Hương Sơn từ đó định hướng chiến lược phát triển và
đưa ra những đề xuất một số giải pháp chiến lược phát triển dịch vụ du lịch tại
khu di tích và thắng cảnh Hương Sơn – Huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội đến
năm 2020
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài có nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về chiến lược phát triển các sản phẩm
dịch vụ du lịch tại các khu di tích.
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 8 Viện Kinh tế & Quản lý
8
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
- Đánh giá thực trạng chiến lược phát triển các dịch vụ du lịch tại khu di tích
và thắng cảnh Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội thời gian qua, nhận
định được những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức trong môi trường kinh
doanh tại khu di tích và thắng cảnh Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp chiến lược phát triển dịch vụ du lịch tại khu di

tích và thắng cảnh Hương Sơn – Huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về quá trình hoạt động, quản lý tại khu di tích và
thắng cảnh Hương Sơn. Đề tài không đi sâu phân tích những vấn đề mang tính
chuyên môn mà chỉ phân tích những vấn đề tổng quát trong công tác quản lý dịch
vụ du lịch, các điều kiện thuộc môi trường và các giải pháp góp phần phát triển dịch
vụ du lịch Hương Sơn – Huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội. Phân tích các số liệu
thống kê, các vấn đề liên quan được sử dụng từ năm 2007 đến 2011. Từ đó đề xuất
một số giải pháp chiến lược phát triển dịch vụ du lịch tại khu di tích và thắng cảnh
Hương Sơn – Huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng lý luận và thực hiện kết hợp các phương pháp nghiên cứu
như: phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử đồng thời kết hợp các
phương pháp khảo sát điều tra thực tế và phương pháp phân tích, thống kê trên cơ
sở các số liệu, dữ liệu để phân tích và đánh giá. Đồng thời kết hợp với tổng kết rút
kinh nghiệm thực tiễn ở khu di tích và thắng cảnh Hương Sơn để nghiên cứu, giải
quyết vấn đề đặt ra của đề tài.
5. Cấu trúc của luận văn:
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 9 Viện Kinh tế & Quản lý
9
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục, phần nội dung chính của luận
văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chiến lược phát triển dịch vụ du lịch
Chương 2: Thực trạng phát triển các dịch vụ du lịch tại khu di tích và thắng cảnh
Hương Sơn – Huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp chiến lược phát triển dịch vụ du lịch tại khu di tích và
thắng cảnh Hương Sơn – Huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội đến năm 2020
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 10 Viện Kinh tế & Quản lý
10

Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN
DỊCH VỤ DU LỊCH
1.1. Tổng quan về dịch vụ du lịch
1.1.1. Dịch vụ (service)
Dịch vụ (service) là một khái niệm có không ít cách hiểu không giống
nhau. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: dịch vụ (kinh tế) là những hoạt động
phục vụ nhằm thỏa mãn những nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt. Tùy
theo trường hợp, dịch vụ bao gồm: một công việc ít nhiều chuyên môn hóa, việc
sử dụng hẳn hay tạm thời một tài sản, việc sử dụng phối hợp một tài sản lâu bền
và sản phẩm của một công việc, cho vay vốn. Do nhu cầu rất đa dạng tùy theo sự
phân công lao động nên có nhiều loại dịch vụ. Dịch vụ phục vụ sản xuất, kinh
doanh; dịch vụ phục vụ sinh hoạt công cộng; dịch vụ cá nhân dưới hình thức
những dịch vụ gia đình; những dịch vụ tinh thần dựa trên những nghiệp vụ đòi hỏi
tài năng đặc biệt (hoạt động nghiên cứu, môi giới, quảng cáo); những dịch vụ liên
quan đến đời sống và sinh hoạt công cộng (sức khỏe, giáo dục, giải trí); những
dịch vụ về chỗ ở, vv. Sản xuất, kinh doanh và dịch vụ tác động lẫn nhau chặt chẽ;
dịch vụ là một điều kiện để phát triển sản xuất, kinh doanh. Dịch vụ pháp lý, tài
chính, tiền tệ, vận tải, thông tin liên lạc … có vai trò rất quan trọng. Du lịch là lĩnh
vực hoạt động dịch vụ có ý nghĩa kinh tế lớn. Sự phát triển dịch vụ hợp lý có chất
lượng cao là một biểu hiện của nền kinh tế phát triển và một xã hội văn minh. Do
ý nghĩa kinh tế, xã hội to lớn nên hoạt động dịch vụ trở thành lĩnh vực kinh tế
quan trọng, có vị trí trong cơ cấu kinh tế của các quốc gia có tốc độ phát triển cao.
Từ điển Kinh tế học hiện đại cho rằng: Dịch vụ là các chức năng hoặc các
nhiệm vụ được thực hiện mà người ta có cầu và do đó tạo ra giá cả hình thành nên
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 11 Viện Kinh tế & Quản lý
11
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
một thị trường thích hợp. Đôi khi dịch vụ được đề cập đến như là những hàng hóa

vô hình, một trong những đặc điểm của chúng là được tiêu thụ ngay tại điểm sản
xuất. Thường thì chúng không thể chuyển nhượng được, do đó không đầu cơ được,
với ý nghĩa này, dịch vụ không thể được mua để sau đó bán lại với mức giá khác.
Có người quan niệm dịch vụ là làm một công việc cho người khác hay cộng
đồng, là một việc mà hiệu quả của nó đáp ứng một nhu cầu nào đó của con người,
như: vận chuyển, cung cấp nước, đón tiếp, sửa chữa và bảo dưỡng các thiết bị máy
móc hay công trình.
Cũng có người nhận định: dịch vụ là những hoạt động lao động mang tính xã
hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa không tồn tại dưới hình thái vật thể, không dẫn
đến chuyển quyền sở hữu nhằm thỏa mãn kịp thời các nhu cầu sản xuất và đời sống
sinh hoạt của con người.
Theo nghĩa Hán Việt, dịch vụ được ghép từ hai chữ “dịch” với nghĩa là làm,
là biến đổi, là chuyển dời và “vụ” có nghĩa là chuyên, là vụ việc, là phục vụ. Ghép
chung lại, dịch vụ là các công việc mang tính chuyên môn phục vụ cho con người,
cho xã hội.
Từ những cách hiểu không giống nhau ở trên, có thể định nghĩa: Dịch vụ là
những hoạt động mang tính phục vụ chuyên nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó
của con người, của xã hội.
Dịch vụ là sản phẩm của quá trình phân công chuyên môn hóa lao động xã
hội, của sự phát triển lực lượng sản xuất; nó ra đời và phát triển cùng với nền kinh
tế sản xuất hàng hóa mà đỉnh cao là nền kinh tế thị trường. Dịch vụ là một thứ lao
động không sản xuất ra tư bản, đúng như C. Mác đã khẳng định: Trong những
trường hợp mà tiền được trực tiếp trao đổi lấy một lao động không sản xuất ra tư
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 12 Viện Kinh tế & Quản lý
12
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
bản, tức là trao đổi lấy lao động không sản xuất, thì lao động đó được mua với tư
cách là một sự hoạt động - dịch vụ.
Dịch vụ cũng tạo ra sản phẩm là các tiện ích, các vật dụng đáp ứng cho nhu
cầu nào đó của con người, nhưng sản phẩm do dịch vụ tạo ra có những đặc điểm

đáng lưu ý sau:
- Tính không chuyển nhượng quyền sở hữu: Dịch vụ là một hoạt động mà
người tạo ra nó luôn luôn sở hữu nó; tức là chủ thể cung ứng dịch vụ cho xã hội sẽ
không bị mất khả năng tạo ra dịch vụ sau khi đã đem dịch vụ phục vụ cho người
khác. Sản phẩm do dịch vụ tạo ra trong trường hợp này thường không có hình thể
(phi vật thể hóa) và được gọi là các tiện ích. Chẳng hạn một giáo viên sau khi giảng
bài cho học viên thì tri thức của họ không hề bị mất đi, hoặc công chứng viên nhà
nước sau khi công chứng giấy tờ cho một công dân nào đó thì họ vẫn còn tiếp tục
dịch vụ công chứng này cho các công dân khác. Chính từ đặc điểm này mà dịch vụ
là một loại hoạt động mà sản phẩm của nó ít có khả năng tích trữ hoặc trao đổi để
sinh lời.
- Tính tiêu dùng tại chỗ: Dịch vụ thường được tiêu dùng tại ngay nơi sản
xuất; nó rất khó, thậm chí không có khả năng chuyển dịch nơi tiêu thụ; Sản phẩm
do dịch vụ tạo ra trong trường hợp này thường có hình thể nhất định (được vật hóa).
Chẳng hạn một con đường quốc lộ, một công viên giải trí chỉ đem lại việc đáp ứng
nhu cầu cho con người khi họ đi trên đường đó hoặc vào công viên đó để nghỉ ngơi
thư giãn vv
- Tính khó nhận dạng: thể hiện ở cả hai đầu sản xuất và tiêu dùng. ở đầu sản
xuất, dịch vụ thường không có cấu trúc hữu hình dưới dạng vật chất mà nó thường ở
dạng vô hình mà người sử dụng rất khó nhận biết, ví như người bác sĩ làm dịch vụ
khám bệnh, hoặc hướng dẫn viên du lịch hay lao động của nhà tư vấn (quản lý,
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 13 Viện Kinh tế & Quản lý
13
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
pháp luật, giáo dục vv) cách thể hiện ra bên ngoài rất khó đoán định. Về phía đầu ra,
sản phẩm của các dịch vụ cũng không có tính hữu hình cố định, mà nó thường bất
định và khó đánh giá về chất lượng. Chẳng hạn một ca sĩ phục vụ khán giả, ý kiến
nhận xét về ca sĩ và cách biểu diễn của ca sĩ này đối với mỗi người thưởng thức là
thường không giống nhau, tùy theo sự cảm nhận riêng của họ.
Chính từ tính khó nhận dạng mà việc đáp ứng của dịch vụ cho con người là

hết sức phức tạp và đa dạng.
1.1.2. Dịch vụ du lịch
1.1.2.1. Khái niệm
Dịch vụ du lịch là sự kết hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên cơ
sở khai thác các tiềm năng du lịch nhằm cung cấp cho du khách một khoảng thời
gian thú vị, một kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lòng. Nói một cách đơn
giản: Dịch vụ du lịch = Tài nguyên du lịch + các dịch vụ và hàng hoá du lịch.
Theo Michael M. Coltman, dịch vụ du lịch có thể là một món hàng cụ thể
như thức ăn, hoặc một món hàng không cụ thể như chất lượng phục vụ, bầu không
khí tại nơi nghỉ mát.
Điểm chung nhất mà dịch vụ du lịch mang lại cho du khách chính là sự hài
lòng. Nhưng đó không phải là sự hài lòng như khi ta mua sắm một hàng hoá vật
chất mà ở đây sự hài lòng là do được trải qua một khoảng thời gian thú vị, tồn tại
trong ký ức của du khách khi kết thúc chuyến đi du lịch. Vậy để thu hút và lưu giữ
khách du lịch, chúng ta phải tổ chức các dịch vụ ở những nơi có khí hậu thuận lợi,
có vẻ đẹp tự nhiên độc đáo và đồng thời cả những nơi có các di tích lịch sử, các
viện bảo tàng
Thường thường, người ta phân biệt ba mức độ trong khái niệm của một dịch
vụ du lịch.
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 14 Viện Kinh tế & Quản lý
14
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
- Dịch vụ du lịch chính trả lời cho câu hỏi: người mua thật sự muốn được
gì? Sản phẩm này là trung tâm của số cung đối với du khách. Sản phẩm chính
không phải xác định theo một thành phần chính mà là nhu cầu cần thoả mãn chính
hoặc là phần lợi ích của sản phẩm này khác với các sản phẩm cạnh tranh khác,
chẳng hạn một điểm trượt tuyết, một sân golf, một chỗ nghỉ mát, một chuyến du
hành đường thuỷ
- Dịch vụ du lịch hình thức: Dịch vụ du lịch hình thức tương ứng với sản
phẩm mà nó có mặt lúc mua hoặc chọn lựa. Nó là sản phẩm cốt yếu được cụ thể hóa

bằng những yếu tố hoặc những dịch vụ rõ ràng như khách sạn, nhà hàng, trang thiết
bị. Nó không còn là một sản phẩm ở trong khái niệm mà là một thành phẩm có
thương mại hóa và có ích hoặc được du khách tiêu thụ.
Chẳng hạn, nếu sản phẩm cốt yếu là một trung tâm trượt tuyết, thì sản phẩm
hình thức là toàn bộ những khách sạn và dịch vụ thương mại ở trong làng trượt
tuyết cũng như những đặc tính kỹ thuật liên quan đến trượt tuyết.
Dịch vụ du lịch mở rộng. Dịch vụ du lịch mở rộng là toàn bộ những yếu tố
liên quan đến người tiêu dùng, tức là du khách, là tổng thể do các yếu tố nhìn thấy
được cũng như không nhìn thấy được cung cấp cho người du lịch, đặc biệt là những
lợi ích tâm lý như là cảm giác lạ, được coi là thành phần ưu tú, thượng lưu
Dịch vụ du lịch mở rộng là một sản phẩm hoàn toàn thích hợp cho khách
hàng cuối cùng. Đó là hình ảnh hay cá tính của sản phẩm mà du khách cảm nhận.
Hình ảnh đó bao gồm những yếu tố vật lý như kiến trúc, khí hậu, cảnh quan và
những yếu tố tâm lý như bầu không khí, mỹ học, cách sống, định chế xã hội của
khách hàng.
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 15 Viện Kinh tế & Quản lý
15
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
1.1.2.2. Đặc điểm của dịch vụ du lịch
- Dịch vụ du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng đặc biệt (nhu cầu hiểu
biết kho tàng văn hoá lịch sử, nhu cầu thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên …). Mặc dù
trong cấu thành dịch vụ du lịch có những hàng hoá và dịch vụ nhằm thoả mãn nhu
cầu ăn ở, đi lại của con người nhưng mục đích chính của chuyến đi không phải để
thoả mãn nhu cầu ấy mà là để giải trí, tìm hiểu, nâng cao tầm hiểu biết, nghiên
cứu Vì vậy cần phải chú ý vào nhu cầu của du khách để họ cảm thấy hài lòng.
- Dịch vụ du lịch chỉ thoả mãn những nhu cầu thứ yếu của con người. Du
lịch là nhu cầu phát sinh sau khi con người đã đủ ăn, mặc. Vì vậy nhu cầu du lịch
chỉ đặt ra khi người ta có thời gian nhàn rỗi và có thu nhập cao. Như vậy, du lịch là
một trong những khoản chi tiêu bị cắt giảm đầu tiên nếu mức thu nhập giảm.
- Dịch vụ du lịch về cơ bản là không cụ thể. Thật ra dịch vụ du lịch là một

kinh nghiệm du lịch hơn là một món hàng cụ thể mặc dù trong cấu thành dịch vụ du
lịch có cả hàng hoá.
Dịch vụ du lịch là không cụ thể, do đó không đặt ra vấn đề nhãn hiệu như là
hàng hoá. Vì vậy mà dịch vụ du lịch rất dễ bị bắt chước, cụ thể là người ta sao chép
chương trình du lịch đã đặt ra, bắt chước cách bày trí phòng đón tiếp hay một quy
trình phục vụ được nghiên cứu công phu.
Do tính chất không cụ thể nên không thể kiểm tra chất lượng sản phẩm trước
khi mua, vì vậy nhiều người chưa từng đi du lịch rất phân vân khi chọn dịch vụ du
lịch nào. Chính vì vậy, quảng cáo trong du lịch rất là quan trọng.
- Việc tiêu dùng dịch vụ du lịch xảy ra cùng một thời gian và địa điểm nơi
sản xuất ra chúng. Do đó dịch vụ du lịch là không thể dự trữ được. Khi một buồng
khách sạn không được thuê thì đêm nay khách sạn sẽ mất doanh thu chứ không thể
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 16 Viện Kinh tế & Quản lý
16
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
để dành lưu kho để cộng thêm vào số buồng cho thuê đêm mai được. Như vậy
khách du lịch không thể thấy dịch vụ du lịch trước khi mua. Thêm vào đó, chúng ta
không thể vận chuyển dịch vụ du lịch tới cho khách hàng mà khách hàng phải tự
đến nơi sản xuất ra dịch vụ du lịch.
- Việc tiêu dùng dịch vụ du lịch có tính thời vụ. Đây là hiện tượng lúc thì
cung không đáp ứng được cầu trong du lịch, lúc thì cầu quá thấp so với khả năng
cung ứng. Nguyên nhân chính là trong du lịch, lượng cung khá ổn định trong thời
gian dài còn nhu cầu khách hàng thì thường xuyên thay đổi, dẫn tới có sự chênh
lệch giữa cung và cầu. Như vậy, kinh doanh du lịch có tính thời vụ (Trương Sĩ
Quý, Hà Quang Thơ, 1995).
1.1.2.3. Những yếu tố cơ bản của dịch vụ du lịch
Cũng như tất cả những sản phẩm khác, dịch vụ du lịch gồm nhiều yếu tố kết
hợp với nhau để cung cấp cho thị trường mục tiêu những sự thoả mãn và lợi ích của
khách hàng.
* Những yếu tố cấu thành cơ bản: Mọi dịch vụ du lịch gồm những yếu tố cơ

bản thiên nhiên hoặc nhân tạo như:
- Cảnh quan địa lý thiên nhiên (bãi biển, núi rừng);
- Các thành phố hoặc làng mạc nằm trên những cảnh quan đó;
- Điều kiện khí hậu;
- Di tích lịch sử;
Những yếu tố thiên nhiên như thác Niagara, Canyon du Colorado, vịnh Hạ
Long, những yếu tố nhân tạo như Kim Tự Tháp (Ai Cập),Vạn Lý Trường Thành
(Trung Quốc), các lăng tẩm vua chúa ở Huế (Việt Nam).
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 17 Viện Kinh tế & Quản lý
17
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
* Môi trường kế cận: Nếu những yếu tố thiên nhiên là những nguồn dịch vụ
du lịch thì chúng phải được bao bọc bằng những vùng chung quanh thật lôi cuốn.
* Dân cư địa phương: Du lịch tạo điều kiện cho du khách tiếp xúc với dân cư
bản xứ. Thường hai dân tộc này có những nếp sống và văn hóa khác nhau. Mối
quan hệ giữa họ có thể làm phát sinh mâu thuẫn. Cho nên, thái độ của dân bản xứ
ảnh hưởng lớn đến sự cảm nhận mà du khách có đối với dịch vụ du lịch, không nên
coi nhẹ vấn đề này.
* Náo hoạt và bầu không khí: Phần lớn, du lịch gồm những yếu tố kích thích
tâm hồn và cảm xúc. Những khía cạnh như mỹ học và bầu không khí là những yếu
tố quyết định trong việc đánh giá một dịch vụ du lịch. Câu lạc bộ Địa Trung Hải là
một ví dụ thành công về việc náo hoạt du lịch.
* Trang thiết bị công cộng về giải trí: Nếu những yếu tố cơ bản của dịch vụ
du lịch thường khó thay đổi, thì ngược lại những trang thiết bị công cộng có thể làm
thay đổi bản chất sản phẩm và thoả mãn nhu cầu cho khách du lịch.
Vì vậy, xây dựng một trung tâm hội nghị ở trong thành phố, một khu vui
chơi giải trí, một khu thể thao, một sân golf là những ví dụ làm thay đổi dịch vụ du
lịch của một thành phố hoặc một điểm du lịch.
* Cơ cấu lưu trú, nhà hàng, cơ sở thương mại: Người ta định nghĩa, một
người được gọi là du khách khi người đó ra khỏi nhà ở chính của mình trong một thời

gian nhất định. Lúc ấy, lưu trú và ăn uống là những sản phẩm quan trọng của dịch vụ
du lịch.
Để lưu trú, du khách có thể ở khách sạn, cắm trại, ở nhà trọ. Trong những
năm gần đây, hệ thống nhà trọ rất phát triển.
Cơ cấu lưu trú làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm. Có những bãi thiên nhiên
tuyệt vời, nhưng lại không có bãi tắm cao cấp cũng không tốt. Các khách sạn, nhà
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 18 Viện Kinh tế & Quản lý
18
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
hàng, trung tâm thương mại kế cận một bãi biển sẽ làm cho một trung tâm tắm biển
có tính ưu tú hơn.
* Hạ tầng giao thông: Du lịch hàm ý một sự di chuyển của du khách ra khỏi
nhà để đến chỗ lưu trú. Cho nên đường sá, sân bay, bến cảng là những điều kiện
để sự di chuyển đó có thể diễn ra trong những điều kiện tốt nhất (ít mệt, ít tốn thời
gian) và chi phí thấp nhất.
Trong trường hợp ấy, đối với một trung tâm trượt tuyết, hạ tầng đường sá là
một yếu tố của dịch vụ du lịch để kích thích người trượt tuyết. Đối với một trung
tâm du lịch quốc tế thì hạ tầng sân bay mới có thể thương mại hóa những thị trường
xa xôi. Cũng vậy, những phương tiện đi lại trong trung tâm (xe bus, taxi ) và các
điều kiện đi lại là những yếu tố không thể coi thường bên trong dịch vụ du lịch.
* Hình ảnh: Đối với du khách, hình ảnh du lịch được thông qua các nhân
viên dịch vụ, các tập giới thiệu, những người tổ chức du lịch hoặc bạn bè của họ. Vì
sự chọn lựa một chuyến đi du lịch bị tác động bởi rất nhiều yếu tố nên sự phân khúc
thị trường, sự chọn lựa thị trường điểm là rất quan trọng để xây dựng một hình ảnh
nhằm thu hút du khách
1.1.2.4. Một số loại dịch vụ du lịch
Dịch vụ du lịch rất đa dạng, nhưng có thể tóm lại trong năm loại chính sau đây.
- Dịch vụ du lịch của một quần thể địa lý: Khái niệm sản phẩm vĩ mô của
dịch vụ du lịch nằm trong một tổng thể địa lý: lục địa, đa quốc gia, (vùng núi
Andins, Bắc Âu, Đông Nam Á ); một nước, một vùng đặc biệt của một nước, một

thành phố. Nhưng tất cả những thứ đó chưa phải là dịch vụ du lịch mà chúng chỉ
mới là nguyên liệu để những nhà tổ chức du lịch đem ra những sản phẩm của mình.
Thực thể địa lý không dễ dàng tổ chức phối kết hợp. Vì vậy, để cho có dịch
vụ du lịch thì đó là một công việc chung của nhiều tổ chức công cũng như tư.
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 19 Viện Kinh tế & Quản lý
19
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Chặng đầu tiên cần phải liệt kê được những yếu tố hiện tại và tương lai của
dịch vụ du lịch do thực thể địa lý đưa lại. Chặng thứ hai là nhận diện các thị trường
tiềm năng, phân khúc và chọn thị trường mục tiêu. Chặng thứ ba là xác định tổng
thể các sản phẩm và vị trí của chúng trên thị trường mục tiêu đã chọn. Sau đó, sản
phẩm phải được tổ chức và phối kết hợp để du khách mục tiêu có thể tìm được lợi ích
của họ. Cuối cùng sản phẩm phải được tung vào thị trường với một hệ thống bán hàng
và khuyến mãi hoàn chỉnh.
Du lịch có tầm quan trọng trong nền kinh tế, nên hiện nay phần nhiều các
nước, các vùng và các thành phố đều cố gắng thiết lập các bộ máy và cơ sở để khai
thác các dịch vụ du lịch.
- Sản phẩm chìa khóa giao tay: Sản phẩm này bao gồm toàn bộ những sản
phẩm mà chúng ta đã nói tới (lưu trú, nhà hàng, hàng không, du ngoạn và những thứ
khác). Cái đặc biệt ở đây là du khách mua một thành phẩm hoàn chỉnh với một giá
nhất định.
Những người chủ trương loại dịch vụ du lịch này thường là những nhà tổ
chức du lịch của các khách sạn hoặc các công ty vận chuyển. Một số cung cấp
những catalogues đầy đủ về lưu trú hoặc một chuyến đi, một số chỉ chuyên biệt
trong một loạt các chương trình du lịch cá biệt.
- Dịch vụ du lịch dạng trung tâm: Đó là những sản phẩm như trung tâm trượt
tuyết, tắm biển hoặc tắm nước nóng. Thường dành riêng cho những khách hàng ưu
tiên có khả năng đi tắm nắng hoặc giải lao trên núi.
Với sự gia tăng hiện tượng nghỉ hè, những trung tâm loại đó ngày một phát
triển nhiều hơn.

- Dịch vụ du lịch dạng biến cố: Những sự kiện thể thao, văn hóa, giải trí
đã tạo thành một loại dịch vụ du lịch. Cái bất trắc của loại này là có tính chất
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 20 Viện Kinh tế & Quản lý
20
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
thời điểm, vài ngày tới một tháng là tối đa. Những ví dụ quen thuộc nhất là
Carnaval de Rio, Festival de Cannes, Marathon de New York và những buổi biểu
diễn hòa tấu ngoài trời
- Những dịch vụ du lịch đặc biệt: Các loại sản phẩm này như chơi thể thao
(thuyền buồm, ván lướt sóng, canh, cưỡi ngựa, nhảy dù bay, ) sinh hoạt hưu trí hay
học tập (thủ công, nhạc, yoga, ) hoặc trong những mục đích khác như hội nghị,
như sành ăn, cờ bạc, Đây là những sản phẩm đặc biệt cần phân khúc thị trường
chọn lọc.
1.2. Chiến lược phát triển dịch vụ du lịch
1.2.1. Quan niệm về chiến lược phát triển dịch vụ du lịch
Khái niệm "chiến lược" được sử dụng đầu tiên trong lĩnh vực quân sự, sau đó
trong lĩnh vực chính trị. Từ những năm 1950 - 1960 của thế kỷ XX, khái niệm chiến
lược được sử dụng sang lĩnh vực kinh tế, xã hội. "Chiến lược", thường được gọi là
hướng và cách giải quyết nhiệm vụ đặt ra mang tính toàn cục, tổng thể và trong thời
gian dài.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (dưới đây gọi tắt là chiến lược) là một
công cụ nhằm tác động đến bản chất của quá trình phát triển của một hệ thống kinh tế
- xã hội. Chiến lược phải có tác dụng làm thay đổi hệ thống kinh tế - xã hội, từ những
thay đổi về lượng đưa đến thay đổi quan trọng về chất của hệ thống. Đó là sự thay đổi
về mục tiêu, cơ cấu gắn liền với cơ chế hoạt động của hệ thống kinh tế - xã hội.
Những thay đổi này tạo cho hệ thống kinh tế - xã hội có được những tính chất mới.
Sự thay đổi của hệ thống kinh tế - xã hội quốc gia nói chung không thể diễn ra trong
một thời gian ngắn mà đòi hỏi phải có một thời gian tương đối dài, khoảng một vài
thập kỷ tùy theo những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Điều đó cũng có thể áp dụng
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 21 Viện Kinh tế & Quản lý

21
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
cho một hệ thống kinh tế nhỏ hơn như một ngành, một vùng lãnh thổ cũng có những
biến đổi tương tự, nhưng ở một phạm vi hẹp hơn, thời gian có thể ngắn hơn.
Theo cách hiểu của Trung tâm Kinh tế quốc tế của Ôxtrâylia (CIE), có chiến
lược trung hạn, chiến lược dài hạn và nội dung chiến lược phải xác định được điểm
xuất phát và mục tiêu cuối cùng của một giai đoạn phát triển, phải xây dựng các thể
chế và tận dụng yếu tố thị trường để đạt được các mục tiêu phát triển, trong đó nhấn
mạnh chiến lượt phải tính đến các khía cạnh vĩ mô và vi mô cũng như các khía cạnh
chính trị xã hội của các mục tiêu phát triển và chỉ ra cần phải làm gì để đạt được các
mục tiêu đề ra.
Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) cho rằng:
"Thông thường, một chiến lược phát triển có thể mô tả như bản phác thảo quá
trình phát triển nhằm đạt được những mục tiêu đã định cho một thời kỳ từ 10 - 20
năm; nó hướng dẫn các nhà hoạch định chính sách trong việc huy động và phân
bố các nguồn lực. Như vậy, có thể nói chiến lược cung cấp một "tầm nhìn" của
một quá trình phát triển mong muốn và sự nhất quán trong các biện pháp tiến
hành. Chiến lược có thể là cơ sở cho các kế hoạch phát triển toàn diện ngắn hạn
và trung hạn, hoặc là một nhận thức tổng quát không bị ràng buộc của những
người trong cuộc trong thời kỳ đó về những triển vọng, những thách thức và
những đáp ứng mong muốn".
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được hiểu như là: một bản luận cứ có
cơ sở khoa học xác định mục tiêu và đường hướng phát triển cơ bản của đất nước
trong khoảng thời gian 10 năm hoặc dài hơn, là căn cứ để hoạch định các chính
sách và kế hoạch phát triển. Chiến lược xác định tầm nhìn của một quá trình phát
triển mong muốn và sự nhất quán về con đường và các giải pháp cơ bản để thực
hiện. Chiến lược là cơ sở cho xây dựng quy hoạch và các kế hoạch phát triển trung
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 22 Viện Kinh tế & Quản lý
22
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

hạn và ngắn hạn. Trong quy trình kế hoạch hóa, chiến lược được coi như một định
hướng của kế hoạch dài hạn.
Trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển ngành du lịch vận dụng quan
điểm này cần lưu ý đến các vấn đề:
- Du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển du lịch là hiệu quả nhằm
đổi mới cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hoá.
- Nghiên cứu xu hướng phát triển của cầu du lịch, đặc biệt cầu du lịch của du
khách quốc tế làm căn cứ đầu tư khai thác các tài nguyên du lịch tạo nên những sản
phẩm du lịch phong phú, chất lượng cao để thỏa mãn cầu du lịch thời hiện đại.
- Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển
của du lịch (mức độ tiện nghi, mức độ thẩm mỹ, mức độ vệ sinh; mức độ an toàn).
- Đào tạo một đội ngũ lao động ngành du lịch có cơ cấu hợp lý, có trình độ
chuyên môn cao, có trình độ ngoại ngữ; có thái độ phục vụ và đạo đức nghề nghiệp tốt.
- Chiến lược phát triển du lịch ở một địa phương phải gắn với chiến lược phát
triển chung của ngành du lịch xuyên suốt cả nước, trước hết là quan điểm phát triển
ngành. Mục tiêu phát triển của ngành du lịch là: phát triển nhanh và bền vững để du
lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn (Văn kiện Đại hội Đảng IX) và nước
ta trở thành trung tâm du lich có tầm cỡ ở khu vực.
Nhưng muốn phát triển nhanh và bền vững thì phải biết tranh thủ mọi nguồn
lực trong nước, ngoài nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh
tế, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng yêu cầu phát triển. Phải
nhận thức rõ du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, mang nội dung văn hoá sâu sắc, có
tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao. Phát triển cả du lịch quốc tế và trong
nước, bảo đảm hiệu quả cao trên các mặt KT-XH, lấy phát triển du lịch quốc tế là
hướng chiến lược. Phát triển nhanh nhưng phải vững chắc, bảo vệ tài nguyên du
lịch, bảo đảm hài hoà lợi ích giữa các bên trong hưởng thụ sự phát triển du lịch.
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 23 Viện Kinh tế & Quản lý
23
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Tổ chức xây dựng chiến lược phải bảo đảm theo đúng các bước; từng bước

phải tuân thủ các phương pháp khoa học; phải huy động được trí tuệ của toàn dân.
Trong chức năng định hướng, cùng với việc xây dựng chiến lược phát triển,
quy hoạch phát triển cũng là một nội dung rất quan trọng. Quy hoạch phát triển là
một bước cụ thể hoá chiến lược phát triển, nhưng quan trọng là luận chứng cả về
mặt tổ chức không gian lãnh thổ quy hoạch tổng thể phát triển du lịch là loại hình
quy hoạch tổng thể phát triển ngành. Nó được thực hiện ở cấp cả nước và từng vùng
lãnh thổ (theo tỉnh, vùng lớn) gồm: quy hoạch các yếu tố tổ chức; quy hoạch cơ cấu;
các tiện nghi tiêu chuẩn Các bước tiến hành quy hoạch là: kiểm kê, điều tra, bổ
sung, đánh giá các yếu tố, điều kiện, bối cảnh của phát triển (đánh giá các điều kiện
phát triển, thực trạng phát triển, điểm xuất phát, những vấn đề mâu thuẫn cần giải
quyết; dự báo thị trường và phân tích yêu cầu cạnh tranh đối với những sản phẩm
chính; đánh giá, dự báo khả năng thu hút vốn và công nghệ từ nước ngoài, từ các
địa phương khác, từ các nguồn nội sinh); dự báo định hướng phát triển; luận chứng
mục tiêu, phương hướng phát triển (hướng sản phẩm chủ lực, cơ cấu sản phẩm;
hướng mở rộng thị trường; hướng chiến lược, hướng chủ yếu, hướng kết hợp
hướng phát triển cung du lịch, hướng đầu tư, hướng thu hút lao động và đào tạo;
hướng khai thác tài nguyên du lịch, phát triển loại hình du lịch ); lựa chọn phương
án phân bổ (tổ chức) ngành theo không gian lãnh thổ; xác định các chính sách, giải
pháp thực hiện quy hoạch (các chương trình, dự án được ưu tiên, nhu cầu và biện
pháp bảo đảm các nguồn lực, các biện pháp tổ chức quản lý).
1.2.2. Nội dung cơ bản của chiến lược phát triển dịch vụ du lịch
Quá trình xây dựng chiến lược gồm các bước: phân tích bối cảnh, môi trường
phát triển (xác định các cơ hội và thách thức); xác định mục tiêu chiến lược; quan
điểm phát triển, xây dựng chiến lược phát triển của một lĩnh vực chủ yếu, và vùng
điểm du lịch, các chính sách, biện pháp chủ yếu để thực thi chiến lược.
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 24 Viện Kinh tế & Quản lý
24
Luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Qua thực tế nghiên cứu và theo quan niệm của số đông các chuyên gia, chiến
lược gia, cho thấy nội dung cơ bản của chiến lược phát triển dịch vụ du lịch là tổ

hợp các yếu tố sau đây:
1.2.2.1. Các căn cứ và quan điểm của chiến lược
+ Các căn cứ của chiến lược:
- Những kinh nghiệm lịch sử trong phát triển du lịch của địa phương. Đây là
những bài học kinh nghiệm trong quá trình phát triển đã qua của đất nước, nhất là
khoảng thời gian thực hiện chiến lược 10 năm liền kề với thời kỳ chiến lược mới.
Mặt khác, kinh nghiệm phát triển của các nước trên thế giới và khu vực, đặc biệt
các nước đang phát triển có điều kiện tương tự với Việt Nam và các sự kiện quốc tế
(ví dụ khủng hoảng tài chính - tiền tệ, v.v ) có giá trị lớn để nghiên cứu, tham khảo,
rút kinh nghiệm khi xây dựng chiến lược.
- Xác định điểm xuất phát về kinh tế - xã hội, tức là đánh giá thực trạng thời
điểm mở đầu chiến lược, trả lời các câu hỏi: nền kinh tế đang ở giai đoạn nào và
trình độ nào trong tiến trình phát triển và trong sự so sánh quốc tế.
- Đánh giá, dự báo các nguồn lực, các lợi thế so sánh và môi trường phát
triển trong thời kỳ chiến lược, bao gồm các yếu tố như: vị trí địa lý, tài nguyên thiên
nhiên, dân số và lao động, cơ sở vật chất - kỹ thuật, nguồn vốn tài chính
- Đánh giá và dự báo bối cảnh quốc tế, các điều kiện bên ngoài như tác động
của quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa, nguồn vốn bên ngoài và khả năng mở rộng
hợp tác quốc tế, khả năng ứng dụng khoa học và công nghệ
Từ các điều kiện nêu trên, làm rõ các thuận lợi, thời cơ và khó khăn thách
thức đối với sự phát triển trong thời gian thời gian tới.
+ Các quan điểm cơ bản của chiến lược:
Nguyễn Bá Hiển – Lớp QTKD 25 Viện Kinh tế & Quản lý
25

×