Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Thiết kế mô hình thông tin vô tuyến chuyển tiếp sóng cực ngắn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (800.55 KB, 113 trang )

MỤC LỤC
Trang
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
LỜI MỞ ĐẦU
@&?
Quá trình phân tích thiết kế một mô hình thông tin, ta phải tính toán đến khả
năng thực hiện khép kín một cuộc thông tin thành công, nhờ vào thiết bị đầu cuối,
mỗi một kênh thông tin gồm các thiết bị thu phát đặt ở các đầu cuối, tin tức được
mang đi nhờ vào sóng điện từ lan truyền trong môi trường vật lý trung gian và ta
thường gọi là môi trường truyền sóng. Việc nghiên cứu thiết lập một kênh thông tin
nhất là mô hình chuyển tiếp buộc ta phải quan tâm đến hai yếu tố chính cần nghiên
cứu đó là các vấn đề về truyền sóng và thiết bị thông tin đầu cuối phù hợp.
Đặt vấn đề nghiên cứu truyền sóng là tính đến khả năng phủ sóng của thiết bị
dựa trên các tiêu chuẩn sản xuất mà tại đó, các yếu tố địa lý, các tác động môi trường
truyền sóng như lớp khí quyển, mặt đất…sẽ có tác động lên sóng lan truyền đó, đó là
tác động làm giảm yếu biên độ của sóng và tác động làm méo dạng tín hiệu (nếu là
tín hiệu tương tự) và gây lỗi đối với tín hiệu số, do nhiễu.Vì vậy, khi nghiên cứu về
truyền sóng chính là ta đang phải nghiên cứu những vấn đề chính như sau:
- Xác định cường độ trường tại điểm thu khi biết các thông số của máy phát
và xác định điều kiện để thu được trường tốt nhất.
- Nghiên cứu sự phát sinh dạng méo tín hiệu gây lỗi trong quá trình truyền
sóng và tìm biện pháp để làm giảm méo đến mức cực tiểu.
Tìm hiểu thiết bị đầu cuối sẽ giúp ta chọn được thiết bị phù hợp nhất mà tại
địa bàn triển khai sẽ đáp ứng tốt nhất những yêu cầu đặt ra cho quá trình nghiên cứu
một mô hình thông tin phù hợp thông qua thiết bị đã được chọn. Tỉnh Ninh Bình là
một tỉnh thường xuyên phải gánh chịu thiên tai khắc nghiệt như bão, lũ. Công tác chỉ
huy, chỉ đạo phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn diễn ra thường xuyên. Nghiên
cứu mô hình thông tin chuyển tiếp, Em hy vọng phần nào giúp công tác chỉ huy
phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn được thuận lợi hơn, hạn chế thấp nhất hậu
quả xấu do thiên tai gây ra.
SVTH: Trần Thị Minh Hoa


- 1 -
Với mục đích đó em đã chọn đề tài tốt nghiệp của mình là “Thiết kế mô hình
thông tin vô tuyến chuyển tiếp sóng cực ngắn”.Cuốn đồ án tốt nghiệp được hoàn
thành với nội dung chính gồm 5 chương:
Chương 1: Các vấn đề lý thuyết chung
Chương 2: Những ảnh hưởng đến quá trình truyền sóng vô tuyến điện
Chương 3: Truyền sóng
Chương 4: Thiết kế mô hình thông tin vô tuyến chuyển tiếp sóng cực ngắn
Chương 5 : Khai thác và bảo dưỡng mô hình chuyển tiếp
Từ việc học đến việc sử dụng những kiến thức đó vào thực tiễn một cách hiệu
quả là cả một quá trình lâu dài và liên tục. Việc ứng dụng kiến thức sao có hiệu quả
trong công tác sau này chính là lòng biết ơn mà em mong muốn được gửi tới các
thầy, cô đã dày công chỉ bảo. Đặc biệt em xin gửi lời cám ơn chân thành tới sự hướng
dẫn tận tình của thầy Nguyễn Đình Luyện và sự hướng dẫn của Trung tá Trần Mạnh
Huế -phòng thông tin công an tỉnh Ninh Bình- đã cung cấp một số tài liệu về công tác
phòng chống bão lụt ở địa phương giúp em hoàn thành đồ án này. Cảm ơn bạn bè và
người thân đã luôn ủng hộ và động viên em trong suốt thời gian học tập tại trường
Đại học Qui Nhơn.
Đề tài mà em báo cáo, đó chỉ là những hiểu biết ít ỏi được thu lượm từ
những bài giảng trên lớp, những chỉ bảo tận tình của thầy, cô. Thông qua đề tài này,
em hi vọng trong thời gian sắp tới, với công tác thông tin em sẽ đạt được những kết
quả tốt nhất. Tuy vậy, vì những kiến thức còn hạn chế, những khó khăn trong quá
trình thực hiện đề tài và hơn nữa là thiếu kinh nghiệm thực tế nên không tránh khỏi
những sai sót, những hạn chế của cá nhân. Do vậy, em mong muốn tiếp tục nhận
được những chỉ bảo của thầy, cô để đề tài của em có tính thực tế hơn và giúp em
ngày càng hoàn thiện bản thân.
Em xin chân thành cảm ơn!
Qui Nhơn, tháng 6 năm 2010
Sinh viên
Trần Thị Minh Hoa

SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 2 -
CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CHUNG
@&?
1.1.Một số khái niệm cơ bản.
Kể từ những năm 1970, sự thâm nhập lẫn nhau của hai lĩnh vực máy tính và
truyền thông đã làm thay đổi sâu sắc các lĩnh vực công nghệ và sản xuất, và một kết
quả tất yếu là một ngành công nghiệp máy tính - truyền thông (Computer –
Communication ) ra đời. Chính nhờ sự hòa trộn mang tính cách mạng này, rất nhiều
lĩnh vực khoa học công nghệ đã có những cơ sở để phát triển mạnh mẽ. Trong bối
cảnh của sự phát triển bùng nổ này, những hiểu biết về lý thuyết thông tin
(Information Theory), về truyền thông ngày càng quan trọng và cần được xem xét
trong hoàn cảnh mới.
1.1.1.Thông tin và hệ thống truyền tin.
Thông tin (tiếng Anh là “Information”, còn được gọi là tin tức) là vật liệu đầu
tiên được gia công trong một hệ thống truyền tin. Hiện nay chưa có một định nghĩa
đầy đủ và súc tích cho khái niệm thông tin. Chúng ta tạm sử dụng khái niệm sau làm
định nghĩa về thông tin: Thông tin là sự cảm hiểu của con người về thế giới xung
quanh (thông qua sự tiếp xúc với nó). Như vậy, thông tin là hiểu biết của con người
và càng tiếp xúc với môi trường xung quanh con người càng hiểu biết và làm tăng
lượng thông tin thu nhận được.
Phân loại thông tin.
- Thông tin thoại.
- Thông tin hình.
- Thông tin báo.
- Thông tin số liệu.
- Thông tin điều khiển.
Trong cuộc sống, con người luôn có nhu cầu trao đổi thông tin với nhau, có
nghĩa là có nhu cầu truyền tin (Communication) với nhau. Những thông tin khi truyền
được mang dưới dạng năng lượng khác nhau như âm điện, sóng điện từ, sóng ánh

sáng…. Những dạng năng lượng được dùng để mang tin này được gọi là vật mang
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 3 -
(carrier). Nó là một quá trình vật lý cụ thể. Vật mang đã chứa thông tin trong nó là
một đại diện của thông tin và nó được gọi là tín hiệu (Signal). Cho nên trước đây khi
khái niệm “thông tin” chưa được xác định cụ thể như hiện nay, người ta vẫn nghiên
cứu định lượng các hệ thống truyền tin bằng cách tính toán và thực nghiệm trên sự
biến đổi năng lượng mang tin trong các hệ thống đó. Trên quan điểm năng lượng, lý
thuyết tín hiệu đã giải quyết những vấn đề tổng quát về phân tích và tổng hợp mạch
và tín hiệu, và nhờ đó kỹ thuật truyền tin đã có những bước phát triển khá dài.
Nhưng cùng với sự phát triển mạnh mẽ của mình, ngành kỹ thuật truyền tin đã
nảy sinh nhiều vấn đề mà những lý thuyết xây dựng trên quan điểm năng lượng
không giải thích được trọn vẹn, như vấn đề mối liên hệ cơ bản giữa các hệ thống
truyền tin sử dụng những năng lượng khác nhau, như vấn đề bảo tồn thông tin trong
các hệ thống thông tin vũ trụ trong đó năng lượng tải tin rất nhỏ bé, như vấn đề đảm
bảo tốc độ truyền tin nhanh và chính xác trong các hệ thống truyền số liệu, như gia
công thông tin trong các thiết bị tính toán điều khiển… Nói cách khác phải xây dựng
những tiêu chuẩn chung để có thể đánh giá và so sánh các hệ thống truyền tin, giải
quyết những vấn đề cơ bản của truyền tin là: tốc độ truyền tin và khả năng chống
nhiễu của hệ thống, thiết lập những mô hình hệ thống truyền tin thực chỉ ra các
phương hướng cải tiến có hiệu quả.
Những hệ thống truyền tin cụ thể mà con người đã sử dụng và khai thác có rất
nhiều dạng và khi phân loại chúng, người ta cũng có thể dựa trên nhiều cơ sở khác
nhau.Ví dụ trên cơ sở năng lượng mang tin người ta có thể phân hệ thống truyền tin
thành các loại;
- Hệ thống điện tín dùng năng lượng điện một chiều.
- Hệ thống thông tin vô tuyến điện dùng năng lượng sóng điện từ.
- Hệ thống thông tin quang năng (hệ thống báo hiệu, thông tin hồng ngoại, laser,
cáp quang…)
- Hệ thống thông tin dùng sóng âm, siêu âm, năng lượng cơ học…

Chúng ta cũng có thể phân loại hệ thống thông tin dựa trên cơ sở biểu hiện
bên ngoài của thông tin như:
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 4 -
- Hệ thống truyền số liệu.
- Hệ thống truyền hình.
- Hệ thống thông tin thoại…
Những phương pháp phân loại trên dưa theo nhu cầu kỹ thuật, giúp cán bộ kỹ
thuật nhận thức vấn đề một cách cụ thể và tìm hiểu khai thác các loại hệ thống được
dễ dàng. Sự phân loại như vậy đã được ứng dụng rộng rãi và gần như thống nhất
trong các tài liệu và sách kỹ thuật. Nhưng ở đây, để đảm bảo tính logic của vấn đề
được trình bày, chúng ta căn cứ vào đặc điểm cuả thông tin dựa vào kênh để phân
loại các hệ thống truyền tin và như vậy chúng ta phân làm hai loại hệ thống truyền
tin:
- Hệ thống truyền tin rời rạc.
- Hệ thống truyền tin liên tục.
Sơ đồ khối chức năng của hệ thống truyền tin :

IS (Information Soucer) : Nguồn tin
ID(Information Destination): Điểm nhận tin
Ch (Channel): kênh tin
1.1.2.Truyền sóng vô tuyến điện và anten.
1.1.2.1.Cơ sở truyền sóng vô tuyến điện.
Sóng vô tuyến điện là sóng điện từ truyền lan trong không gian và mang tin tức.
Sóng vô tuyến điện có tần số nằm trong khoảng 3.10
3
÷ 10
16
Hz.
Nghiên cứu truyền sóng vô tuyến điện tức là tính cường độ trường tại một điểm

nào đấy khi biết được công suất của máy phát, tần số công tác, cự li và độ cao của
anten, thiết lập được một tuyến thông tin vô tuyến điện khi đã có cự li và tần số công
tác.
SVTH: Trần Thị Minh Hoa

IS

Ch

ID
- 5 -
Sóng vô tuyến điện khi truyền lan trong không gian ở các đoạn tần số khác nhau
truyền theo các phương thức khác nhau, có nghĩa là đường đi khác nhau dẫn đến
trường dẫn điện đến điểm khảo sát khác nhau.
Theo phân loại trước đây, những sóng điện từ nằm trong dải tần số có giới hạn
dưới là f = 10
3
Hz (tương ứng với bước sóng λ = 300Km) và giới hạn trên f = 10
12
Hz
(tương ứng với bước sóng λ = 0,3mm) đều gọi là sóng vô tuyến hay sóng radio.
Nhưng trong nghiên cứu thông tin vô tuyến thì nên phân theo phương thức truyền lan
của sóng. Có các dải sóng chính như sau:
- Sóng cực dài: bước sóng λ > 10km (tần số f < 30 KHz)
- Sóng dài: bước sóng 10km >λ > 1km ( 30KHz <f < 300KHz)
- Sóng trung: bước sóng 1km> λ > 100m ( 300 KHz < f < 3 MHz)
- Sóng ngắn bước sóng 100m > λ > 10m ( 3MHz < f < 30 MHz)
- Sóng cực ngắn: bước sóng 10m > λ > 1mm ( 30MHz < f < 300 GHz)
1.1.2.2.Truyền sóng trong dải sóng ngắn và cực ngắn.
Sóng ngắn được sử dụng nhiều trong thông tin. Trong lĩnh vực viễn thông

hiện nay thông tin sóng ngắn là hệ thông thông tin dự phòng T3 của quốc gia (cáp
quang – vi ba sóng ngắn).
- Bước sóng: 100m > λ > 10m ( 3MHz < f < 30 MHz)
- Truyền lan: bằng sóng đất, sóng điện ly. Nhờ có truyền lan bằng sóng tầng
điện ly nên có khả năng truyền lan được xa khi công suất máy phát bé.
- Giới hạn của dải tần số công tác:
+ Ban ngày: bước sóng 10m đến 35m.
+ Ban đêm: bước sóng 35m đến 100m.
Sóng cực ngắn truyền lan trong tầm nhìn thẳng (anten phát và anten thu nhìn
thấy nhau). Tín hiệu thu được ổn định, độ tin cậy cao, cự li thông tin gần. Hầu hết
trong lĩnh vực thông tin đều nằm trong dải sóng cực ngắn (phát thanh FM, truyền
hình, hệ thống rada, vi ba…)
- Bước sóng: 10m > λ > 1mm ( 30MHz < f < 300 GHz)
- Chia thành 4 băng :
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 6 -
- Sóng mét: bước sóng từ 10m đến 1m ( f = 30 ÷ 300MHz)
- Sóng đềcimét: bước sóng từ 1m đến 10cm ( f = 300 ÷ 3000MHz)
- Sóng centimet: bước sóng từ 10cm đến 1cm ( f = 3GHz ÷ 30GHz)
- Sóng milimet: bước sóng ngắn hơn 1 cm (f cao hơn 30 GHz).
1.1.2.3.Anten.
Anten và môi trường truyền sóng thay thế cho đường truyền để khép kín giữa
nguồn và tải. Anten làm việc ở chế độ phát: là một thiết bị dùng để biến đổi sóng
điện từ ràng buộc trong các hệ định hướng thành các sóng điện từ tự do trong không
gian. Chế độ thu thì ngược lại, anten là thiết bị biến đổi từ sóng điện từ lan truyền tự
do trong không gian thành sóng điện từ ràng buộc để đưa đầu vào thiết bị thu. Yêu
cầu đặt ra là làm thế nào để sau khi biến đổi tín hiệu không bị méo dạng.
Phân loại anten: phụ thuộc vào phương pháp phân loại mà chia thành nhiều
loại khác nhau như sau:
- Phân loại theo dải tần công tác có: anten sóng trung, anten sóng ngắn, anten

sóng cực ngắn..
- Phân loại theo kết cấu: anten dây, anten chấn tử, anten bức xạ mặt…
- Phân loại theo sử dụng: anten phát thanh, truyền hình, rađa, viba, vệ tinh…
1.1.3.Tín hiệu.
Tín hiệu là dạng vật lý của thông tin, tín hiệu có thể là không khí, âm thanh..
Hoặc tín hiệu là một dạng vật chất có một đại lượng vật lý biến đổi theo quy luật
tuyến tính.
- Tín hiệu âm thanh: là sự thay đổi của áp suất không khí đưa thông tin đến tai
chúng ta.
- Tín hiệu hình ảnh: là sự thay đổi cường độ ánh sáng đưa thông tin đến mắt
chúng ta.
Có hai loại tín hiệu tổng quát:
- Tín hiệu liên tục: nếu một tín hiệu có sự biểu diễn toán học có biến liên tục
theo thời gian thì tín hiệu đó là tín hiệu liên tục theo thời gian. Liên tục ở đây là liên
tục theo biến số. Nếu xét về hàm số thì có hai loại tín hiệu:
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 7 -
+ Tín hiệu tương tự: nếu hàm của tín hiệu liên tục lấy các giá trị liên tục thì tín
hiệu đó gọi là tín hiệu tương tự (liên tục theo thời gian của cả biến số và hàm số)
+ Tín hiệu lượng tử: nếu hàm của tín hiệu rời rạc lấy các giá trị rời rạc thì tín
hiệu đó gọi là tín hiệu lượng tử.
- Tín hiệu rời rạc: nếu tín hiệu được biểu diễn bởi hàm của các biến rời rạc thì tín
hiệu đó còn gọi là tín hiệu rời rạc. Rời rạc ở đây là rời rạc theo biến số. Nếu xét hàm
số thì ta có hai loại tín hiệu:
+ Tín hiệu lấy mẫu: nếu hàm của tín hiệu rời rạc lấy các giá trị liên tục thì tín
hiệu đó gọi là tín hiệu lấy mẫu.
+ Tín hiệu số: nếu hàm của tín hiệu rời rạc lấy các giá trị rời rạc thì tín hiệu đó
gọi là tín hiệu số.
1.2.Khái niệm về sóng vô tuyến điện và phân dải sóng vô tuyến điện
1.2.1.Khái niệm.

Các sóng vô tuyến điện (VTĐ) dùng trong kỹ thuật thông tin, tia hồng ngoại
mà chúng ta cảm nhận được hiệu ứng nhiệt trên da hoặc ánh sáng thấy được từ màu
tím đến màu đỏ, hay tia tử ngoại, tia X, tia Gama phát từ các chất phóng xạ…đều là
những sóng có tần số khác nhau của bức xạ từ. Bức xạ điện từ còn gọi là sóng điện
từ, nó có thể chuyển đổi lẫn nhau trong không gian truyền dẫn từ dạng điện trường
sang dạng từ trường và ngược lại.
Sóng điện từ lan truyền trong không gian với vận tốc 3.10
8
m/s.
Nếu gọi c là vận tốc truyền sóng
f là tần số (Hz)
λ là bước sóng của bức xạ
Ta có : f = c/λ
Trong kỹ thuật thông tin vô tuyến điện có bước sóng λ tính bằng mét (m) hay
centimet (cm).
1.2.2.Phân dải sóng vô tuyến điện.
Trong các tài liệu khác nhau thì phân dải sóng vô tuyến điện khác nhau. Theo
phân loại trước đây, những sóng điện từ nằm trong dải tần số có giới hạn dưới là f =
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 8 -
10
3
Hz (tương ứng với bước sóng λ = 300Km) và giới hạn trên f = 10
12
Hz (tương ứng
với bước sóng λ = 0,3mm) đều gọi là sóng vô tuyến hay sóng radio. Nhưng trong
nghiên cứu thông tin vô tuyến thì nên phân theo phương thức truyền lan của sóng. Có
các dải sóng chính :
o Dải sóng cực dài λ > 10km (f < 30 KHz)
o Dải sóng dài 10km >λ > 1km ( 30KHz <f < 300KHz)

o Dải sóng trung 1km> λ > 100m ( 300 KHz < f < 3 MHz)
o Dải sóng ngắn 100m > λ > 10m ( 3MHz < f < 30 MHz)
o Dải sóng cực ngắn 10m > λ > 1mm ( 30MHz < f < 300 GHz)
- Dải sóng cực dài và dải sóng dài : mặt đất gần với môi trường điện dẫn nên
sóng truyền lan chủ yếu là sóng bề mặt – sóng đất. λ lớn nên có khả năng nhiễu xạ
qua các chướng ngại vật lớn →người ta sử dụng trong thông tin hàng không và hàng
hải (ít sử dụng).
- Dải sóng trung : truyền lan được cả sóng bề mặt và cả sóng tầng điện li (sóng
trời). Đặc điểm sóng tầng điện li chỉ truyền lan được vào ban đêm, ban ngày tầng
điện li hấp thụ. Sóng trung hiện nay chỉ khai thác ở phát AM quảng bá.
- Dải sóng ngắn : mặt đất là môi trường bán dẫn điện nên hệ số suy hao α =
2
ω
σµ
lớn, truyền lan sóng bề mặt, đi được cự li gần nên truyền lan chủ yếu là
truyền sóng tầng điện li (sóng trời). Nhờ có truyền lan sóng tầng điện li nên có khả
năng truyền lan được xa khi công suất máy phát bé. Sóng ngắn được sử dụng nhiều
trong thông tin. Trong lĩnh vực viễn thông hiện nay thông tin sóng ngắn là hệ thống
thông tin dự phòng T3 của quốc gia (cáp quang – viba – sóng ngắn).
- Dải sóng cực ngắn : truyền lan trong tầm nhìn thẳng (anten phát và thu nhìn
thấy nhau). Ưu điểm : tín hiệu thu được ổn định, độ tin cậy cao, cự li thông tin gần.
Hầu hết các lĩnh vực thông tin đều nằm ở dải sóng cực ngắn (phát thanh FM, truyền
hình, hệ thống ra đa vi ba, di động….)
Việc sử dụng những sóng ngắn nằm ngoài dải tần số phân theo băng sóng
người ta gọi trực tiếp tên theo bước sóng hay tần số của nó.
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 9 -
Ví dụ : thiết bị làm việc ở dải sóng µm ; nm (10
-6
→10

-9
)
Dải cực ngắn còn được gọi là dải siêu cao (viba).
Trong những năm gần đây, với sự phát triển mạnh của khoa học công nghệ,
đặc biệt là một số lĩnh vự công nghệ mới đã sử dụng những sóng điện từ có tần số
vượt quá giới hạn của dải tần đã nêu ở trên. Do đó khái niệm về giới hạn của dải tần
vô tuyến điện cũng cần được mở rộng hơn.
Ngày nay, sóng vô tuyến điện được coi là những sóng điện từ có giới hạn dưới
của dải tần số xuống tới 3.10
-3
Hz (sóng miliHec), tương ứng với bước sóng 10
11
m và
gới hạn trên lên tới 10
16
Hz, ứng với bước sóng 3.10
-8
(sóng ánh sáng).
Mỗi băng sóng có đặc điểm truyền lan riêng. Tuy nhiên giữa hai băng sóng
gần nhau thì sự biến đổi đặc tính truyền lan của chúng thường là không rõ rệt. Trong
môi trường đồng nhất, sóng truyền lan với vận tốc không đổi.
Sự phân loại như trên là thích hợp cho việc nghiên cứu về sóng. Tuy

nhiên để
thuận tiện cho việc phân định tần số sử dụng cho các lĩnh vực hoạt động khác nhau,
người ta chia nhỏ hơn 5 băng sóng trên thành 11 tần số, lấy khoảng từ 30 ÷ 300 GHz,
tên các băng tần, phạm vi tần số và lĩnh vực cụ thể theo bảng (1.1) sau :
Bảng 1.1: Bảng phân băng tần số vô tuyến
Tên băng tần Tên viết tắt Phạm vi tần số Lĩnh vực sử dụng
Tần số cực kỳ

thấp
ULF 30→ 300Hz
Vật lý
Tần số cực thấp ELF 300Hz →3KHz Thông tin dưới nước và trong lòng
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 10 -
đất
Tần số rất thấp VLF 3KHz →30KHz
Vô tuyến đạo hàng thông tin di
động trên biển
Tần số thấp LF 30 →300KHz
Vô tuyến đạo hàng thông tin di
động trên không
Tần số trung bình MF 300→ 3000KHz
Phát thanh, thông tin hàng hải, vô
tuyến đạo hàng
Tần số cao HF 3MHz→ 30MHz
Phát thanh sóng ngắn, thông tin di
động các loại, thông tin quốc tế
Tần số rất cao VHF 30 →300MHz
Truyền hình và phát thanh sóng
FM
Tần số cực cao UHF 300 →3000MHz
Truyền hình các loại thông tin di
động, các loại thông tin cố định
Tần số siêu cao SHF 3→ 30GHz
Thông tin vệ tinh ra đa, viễn thông
công cộng, vô tuyến thiên văn
Tần số vô cùng
cao

EHF 30 →300GHz
Vô tuyến thiên văn, ra đa sóng
milimet, thông tin vệ tinh nghiên
cứu và thí nghiệm
Dưới milimet Sub milimet 300 →3000GHz Nghiên cứu và thí nghiệm
1.2.3.Cơ sở đặt vấn đề nghiên cứu lý thuyết
Tìm hiểu việc truyền sóng chính là chúng ta phải khảo sát về sự lan truyền tự
do của sóng điện từ ở dải tần số vô tuyến điện. Nhờ các sóng này mà ta có thể thiết
lập các kênh thông tin vô tuyến với các cự ly thông tin rất lớn, không kể là trên mặt
đất hay trong khoảng không vũ trụ. Mỗi kênh thông tin gồm có các thiết bị thu phát
đặt ở các trạm đầu cuối, tin tức mang đi nhờ sóng điện từ lan truyền trong môi trường
truyền sóng hay nói cách khác là việc thực hiện khép kín một kênh thông tin phải có
môi trường truyền sóng. Chính vì vậy, môi trường truyền sóng chính là một bộ phận
của kênh thông tin.
Để đảm bảo chất lượng một kênh thông tin vô tuyến chúng ta phải đặc biệt
quan tâm đến môi trường truyền sóng và khả năng đáp ứng của thiết bị đầu cuối một
cách hợp lý nhất cho yêu cầu đặt ra, hay nói cách khác là ta phải lựa chọn thiết bị sao
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 11 -
cho phù hợp về công suất phát, tần số làm việc sao cho phù hợp phương thức truyền
sóng đúng đắn nhất mới có hiệu quả.
Môi trường truyền sóng vô tuyến như lớp khí quyển, mặt đất.. sẽ có hai tác
động lên sóng lan truyền trên đó. Tác động thứ nhất là làm giảm biên độ của sóng;
tác động thứ hai là làm méo dạng tín hiệu (nếu là tín hiệu tương tự) và gây lỗi đối với
tín hiệu dạng số do nhiễu. Vì vậy, khi nghiên cứu truyền sóng vô tuyến ta sẽ tập trung
vào hai nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Xác định cường độ trường tại đểm thu khi biết các thông số của máy phát và
xác định điều kiện để thu được cường độ trường lớn nhất.
- Nghiên cứu sự phát sinh dạng méo tín hiệu hoặc gây lỗi trong quá trình truyền
sóng và tìm biện pháp để làm giảm thiểu các lỗi đó.

Ở đây vấn đề giảm yếu của sóng trong quá trình truyền lan bao gồm sự giảm
yếu cường độ trường do bị sự phân tán tất yếu của năng lượng khi bức xạ và truyền
lan, sự giảm yếu do sự hấp thụ của môi trường, giảm yếu khi sóng nhiễu xạ quanh
các vật thể gặp phải trên đường truyền lan, hoặc bởi vật cản, sự khuếch tán các vật
thể trong môi trường ….
Vấn đề trước hết ta khảo sát tác dụng làm giảm yếu trường do sự phân tán tất
yếu của năng lượng khi bức xạ truyền lan. Tìm ra phương thức truyền sóng tốt nhất
(tín hiệu ảnh hưởng, đảm bảo sự trung thực và biên độ cho phía thu).
1.3.Công thức truyền sóng lý tưởng.
Giả sử chúng ta có một không gian đồng nhất rộng vô hạn, trong khoảng
không gian đó, chúng ta đặt một nguồn bức xạ đẳng hướng (là một anten chuẩn bức
xạ năng lượng sóng điện từ về mọi phía là như nhau).
P là công suất phát của nguồn (w)
Nhiệm vụ của bài toán đặt ra là phải tính được giá trị trường ở một điểm thu
M cách nguồn một khoảng là r (m).
Qua M chúng ta vẽ một mặt cầu, tâm là nguồn phát (anten), bán kính r.
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 12 -
Mật độ công suất bức
xạ(trên một đơn vị diện
tích) S=
2
4
P
r
π
(W/m
2
) (1.1)
Hình 1.1: Mật độ công suất bức xạ trên một đơn vị diện tích

Nếu biểu thị cường độ bằng vol/met (V/m) còn từ trường bằng ampe/met
(A/m) thì ta sẽ có :
S = E
h
H
h
(W/m) (1.2)
E
h
và H
h


giá trị hiệu dụng của cường độ điện trường và từ trường.
Các đại lượng này quan hệ nhau bằng hệ thức :
H = E/ Z
o
(A/m) (1.3)
Z
o
là trở kháng sóng của môi trường.
Đối với môi trường là không khí thì :
Z
o
=
o
o
µ
ε
=120п (Ω) (1.4)

 Khi sóng lan truyền trong không gian tự do :
E
h
= 173.
( ). ( )
( )
P Kw D l
r Km
[mV/m] (1.5)
P : công suất máy phát (Kw)
D : hệ số định hướng của anten (lần)
r : khoảng cách từ anten phát đến điểm xác định E (Km)
E
max
=

E
h
.
2
 Khi kể đến ảnh hưởng của mặt đất :
E
h
= 245.
( ). ( )
( )
P Kw D l
r Km
[mV/m] (1.6)
E

max
=

E
h
.
2
(1.7)
1.4.Các phương thức truyền sóng.
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 13 -
Mỗi băng sóng có phương thức truyền lan riêng, nhưng giữa hai băng sóng
gần nhau sự biến đổi đặc tính truyền lan giữa chúng là không rõ rệt. Trong môi
trường đồng nhất, sóng sẽ truyền lan theo đường thẳng với vận tốc không đổi. Khi
sóng truyền lan gần mặt đất, sự có mặt của mặt đất bán dẫn điện, một mặt gây phản
xạ sóng từ mặt đất, làm biến dạng cấu trúc của sóng và gây ra hấp thụ sóng trong đất;
mặt khác, do mặt đất có dạng hình cầu, sóng truyền lan trên đó sẽ có hiện tượng
nhiễu xạ.
Nhưng ta biết hiện tượng nhiễu xạ chỉ xảy ra rõ rệt đối với những trường hợp
khi kích thước của vật chướng ngại có thể so sánh được với bước sóng. Vì vậy, chỉ
những sóng dài hoặc cực dài có bước sóng hàng trăm hoặc hàng nghìn mét thì mới
thỏa mãn điều kiện nhiễu xạ quanh mặt đất và dễ dàng phát sinh hiện tượng này.
Tuy nhiên, cần chú ý rằng sự nhiễu xạ của sóng chỉ có thể xảy ra trên một
phần mặt cong của trái đất và cả trong những điều kiện thuận lợi nhất (bước sóng dài
nhất) sóng nhiễu xạ cũng không thể truyền lan vượt quá cự ly 300 - 400 km.
Có các phương thức truyền sóng như sau :
1.4.1.Sóng đất.
Khi sóng truyền lan gần mặt đất, sóng thường bị nhiễu xạ do cấu trúc vật lý
của bề mặt trái đất. Sự có mặt của mặt đất bán dẫn điện, một mặt gây phản xạ sóng,
mặt khác nó lại hấp thụ sóng, làm biến dạng cấu trúc của sóng,mặt khác bề mặt trái

đất là một mặt cầu có cấu trúc địa lý gồ ghề, nhiều chướng ngại cho sự truyền lan
của sóng.
Những sóng vô tuyến điện truyền lan ở gần mặt đất theo đường thẳng hoặc bị
phản xạ từ mặt đất, hoặc bị uốn cong đi theo độ cong mặt đất do hiện tượng nhiễu xạ
gọi là sóng đất.
1.4.2.Sóng tầng đối lưu.
Tầng đối lưu là tầng khí quyển thấp, có độ cao khoảng 10 đến 15km tính từ bề
mặt trái đất. Đây là môi trường không đồng nhất, tính không đồng nhất của tầng đối
lưu có nhiều dạng. Một dạng gây ra sự uốn cong quĩ đạo của tia sóng khi truyền trong
đó và tạo khả năng để sóng có thể truyền đi xa trên mặt đất cong. Một dạng không
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 14 -
đồng nhất khác gây ra sự khuếch tán sóng và những sóng khuếch tán đó có thể đạt tới
khoảng cách 1000km kể từ mặt đất.
Ảnh hưởng của hiện tượng khuếch tán chỉ biểu hiện rõ ở những sóng ngắn
hơn 10m.
Ảnh hưởng của sự uốn cong quĩ đạo sóng do tầng đối lưu biểu hiện ở những
sóng có bước sóng dài hơn.
Ngoài ra, trong một số trường hợp, với điều kiện khí tượng thích hợp thì tầng
đối lưu lại truyền sóng theo kiểu “ ống sóng” và tại đó nó cho phép những sóng có
bước sóng ngắn hơn (khoảng λ = 3m) truyền lan xa tới những cự ly 800 đến 1000km.
Những sóng vô tuyến điện truyền đi tới các cự ly xa trên bề mặt đất do khuếch
tán trong tầng đối lưu hoăc do tác dụng của “ống dẫn sóng” của tầng đối lưu được
gọi là sóng tầng đối lưu.
1.4.3.Sóng tầng điện ly.
Tầng điện ly là miền khí quyển có độ cao từ 60 đến 600km bao quanh trái đất.
Do tầng khí quyển ngoài cùng nên tầng điện ly chịu ảnh hưởng trực tiếp của bức xạ
năng lượng mặt trời, của các hạt vũ trụ và các tác động khác làm cho khí quyển bị ion
hóa, tạo nên một số lớn điện tử tự do ( khoảng 10
2

→10
6
điện tử trong một cm
3
). Đối
với sóng vô tuyến điện thì tầng điện ly có thể xem là môi trường bán dẫn điện và
sóng có thể phản xạ từ đó.
Qua tính toán và thực nghiệm cho thấy rằng tầng điện ly chỉ có thể phản xạ
được những sóng có bước sóng dài hơn 10m, với những sóng có bước sóng ngắn hơn
thì tầng điện ly được coi là môi trường “trong suốt”. Do được phản xạ một hay nhiều
lần mà sóng có thể truyền đi được tới những cự ly rất xa. Bên cạnh khả năng phản xạ
sóng vô tuyến điện, do tầng điện ly có các miền không đồng nhất, nó có khả năng
khuếch tán các sóng khi truyền tới. Vì vậy, những sóng có tần số rất cao có thể không
phản xạ được ở tầng điện ly, nhưng do khuếch tán ở các lớp ion hóa nó vẫn có thể
truyền tới những cự ly rất xa.
Những sóng vô tuyến điện truyền tới những cự ly xa do phản xạ( một hoặc
nhiều lần) hoặc do khuếch tán từ tầng điện ly được gọi là sóng tầng điện ly.
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 15 -
1.4.4.Sóng vũ trụ.
Những sóng vô tuyến điện truyền lan giữa các trạm mặt đất và các vệ tinh bay
quanh trái đất, hoặc với các con tàu trong khoảng không vũ trụ là những sóng không
bị tầng điện ly cản trở bởi các hiệu ứng phản xạ, hoặc khuếch tán. Trong quá trình
truyền lan, nó chỉ bị hấp thụ qua các vật cản như các đám mây mưa. Tần số càng cao
sự suy giảm càng lớn, hay các đám mưa càng lớn thì sự suy hao càng nhiều.
Những sóng truyền lan trực tiếp ( sóng thẳng) giữa mặt đất và các đối tượng
khác ngoài vũ trụ được gọi là sóng vũ trụ.
Chỉ những sóng có tần số cao từ 1GHz trở kên mới thích hợp với điều kiện
truyền lan của sóng vũ trụ.
1.5.Nguyên lý Huyghen và miền Fresnel.

1.5.1.Nguyên lý.
Để hiểu rõ một số đặc điểm truyền lan của sóng trên mặt đất cần biết những
khái niệm về miền Fresnel. Việc biểu thị miền Fresnel lại dựa trên nguyên lý
Huyghen.
Ta coi mỗi mặt sóng bất kỳ bao quanh nguồn thực là tập hợp của vô số nguồn
bức xạ thứ cấp (hay nguyên tố Huyghen), mỗi năng lượng bức xạ thứ cấp này lại tạo
ra những mặt sóng mới. Trường nhận được ở điểm thu là kết quả giao thoa của
những mặt sóng mới.
Hình 1.2: Sự giao thoa của các mặt sóng
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 16 -
M
Theo nguyên lý Huyghen, người ta có thể tính được giá trị trường ở điểm thu
bất kỳ trong không gian khi đã biết được trường trên một bề mặt nào đó.
Giả sử nguồn của sóng sơ cấp đặt ở điểm A ( Hình 1.3) , kí hiệu S chỉ một mặt
kín bao quanh A. M là một điểm bất kỳ nằm ngoài mặt kín. Giả sử ta đã có các trị số
đã biết của trường trên mặt S. Đặt Ψ là kí hiệu của thành phần trường tại M. Ψs là trị
số của thành phần ấy trên S. Khoảng cách từ S→M là r.
Hình 1.3: Trường ở điểm thu bất kỳ trong không gian
Theo nguyên lý Huyghen, trường thứ cấp tạo ra bởi một số nguyên tố bề mặt
tại điểm dS tại điểm M sẽ tỷ lệ với diện tích của mặt nguyên tố. Qua nghiên cứu tính
toán người ta đã tìm được công thức áp dụng cho trường hợp mặt S là một mặt có
hình dạng bất kỳ. Công thức Huyghen có dạng tổng quát như sau:
φ =
1
4
π




* *
ikr ikr
s
e e
dS
n r r n
ϕ
ϕ
− −
 
 
∂ ∂

 
 ÷
∂ ∂
 
 


(1.8)
Trên cơ sở công thức tổng quát, nhờ nguyên lý Huyghen người ta có thể tính
được giá trị trường ở điểm thu bất kỳ mà không cần biết chính xác sự phân bố của
nguồn thực. Tuy nhiên đây là một việc rất khó, nhưng qua nghiên cứu vấn đề này,
nguyên lý Huyghen cho người ta xác định được các miền Fresnel mà trong đó miền
Fresnel thứ nhất là rất quan trọng vì nó có ảnh hưởng rất lớn đến việc truyền sóng,
vấn đề mà ta đang nghiên cứu.
1.5.2.Miền Fresnel.
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 17 -

A
X
M
Giả sử có một đài phát tại A với bước sóng làm việc là λ. Để khảo sát ta vẽ
một mặt cầu tâm A, bán kính l
1
. Từ điểm thu M hạ một họ đường thẳng l cắt mặt cầu
một đường tròn f
1
.
Tiếp theo đó hạ một họ đường thẳng nữa có độ dài là l
2
+
2 λ/2. Họ đường
thẳng này lại cắt mặt cầu theo một đường tròn nữa f
2
. Tiếp tục như vậy, với độ dài
đoạn thẳng hạ xuống mặt cầu ( từ M) có độ dài là :
l
2
+ 3 λ/2 ; l
2
+4 λ/2 ; … l
2
+n λ/2


2
2
l

λ
+

2
l
M
0
f
Hình 1.4: Miền Fresnel
Các đường này chia hết mặt cầu thành các miền vành khăn và hai chỏm cầu.
Các miền này theo thứ tự được gọi là miền Fresnel thứ nhất, thứ hai,…thứ n.
Bán kính của các vòng tròn F
1
, F
2
,…., Fn được gọi là bán kính của các miền
Fresnel thứ nhất…., thứ n.
Năng lượng trường phát ra từ A đến M theo nguyên lý Huyghen sẽ bằng năng
lượng trường tạo bởi tất cảcác miền Fresnel thứ nhất, thứ hai…., thứ n đưa đến điểm
thu M.
Qua nghiên cứu người ta thấy các miền Fresnel có đặc điểm: hai miền kề nhau
có khoảng cách thu chênh nhau 0,5λ thì trường do chúng tạo ra ngược pha nhau, do
vậy chúng triệt tiêu nhau.
Như vậy người ta tính toán được rằng năng lượng thực sự đưa đến điểm thu M
chỉ tương đương với năng lượng do nửa miền Fresnel thứ nhất tạo ra.
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 18 -
l
1
A

Fn
Do vậy, ta phải xác định được bán kính miền Fresnel này. Để thuận tiện ta
chọn bề mặt để lập miền Fresnel là mặt phẳng So, mặt phẳng này vuông góc với AM
(hình 1.5)
1 2
1 1
2
ANn NnM n
λ
+ = + +
(1.9)
2
2 2
1 1
1
2
n
n
b
ANn l b l
l
= + ≈ +
(1.10)
2
2 2
1 2
2
2
n
n

b
NnM l b l
l
= + = +
(1.11)
Ta có bán kính miền Fresnel thứ n (tính gần đúng) là :

1 2
1 2
n
l l
b n
l l
λ
= ∗
+
(1.12)
Giả sử mặt phẳng So dịch chuyển theo đường lan truyền từ A →M. Giới hạn
dịch chuyển sẽ vẽ nên quĩ tích cho một mặt phẳng ellipsoit.

Hình 1.6:Hình Elipsoit với tiêu điểm A và M
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
A l
1
l
2
b
n M
S
o

N
n
Hình 1.5: Xác định bán kính miền Fresnel
- 19 -
A M
Vùng không gian được vạch là khoảng không gian quan trọng mà ta phải
nghiên cứu tính toán trong quá trình thiết lập một kênh thông tin.
1.5.3.Khoảng hở Fresnel – Bài toán tính chiều cao anten.
Theo nghiên cứu ở trên, vùng không gian quan trọng nhất đối với truyền sóng
trực tiếp trong tầm nhìn thằng là nửa miền Elipsoit tròn xoay. Nhận hai điểm thu –
phát ( A và M ) làm tiêu điểm.
Bán kính của hai tiêu điểm được xác định theo công thức :
F
1
= b
1
=
1 2
1 2
l l
l l
λ

+
(1.13)
Do vậy, khi tính toán chiều cao anten người ta yêu cầu khoảng cách từ trục nối
hai điểm thu – phát đến vật cao nhất trên đường truyền ( hình 7) phải lớn hơn 1/2b
1
hay F
1

.
Hình 1.7: Khoảng hở Fresnel
Qua nghiên cứu tính toán người ta đã có công thức tính toán khoảng hở
Fresnel (khoảng hở đường truyền ∆h) ∆h ≥ 0,6F
1

F
1
: khoảng hở Fresnel.
Khoảng hở Fresnel là vô cùng quan trọng trong việc tính toán đường truyền
trên địa bàn.
Bài toán ví dụ : tính chiều cao tối thiểu của anten thu đặt tại Công an huyện
Nho Quan, trên đường truyền cực ngắn Ninh Bình – Nho Quan (cự ly 30km đường
chim bay). Khi biết anten phát tại Ninh Bình có chiều cao là 60m. Thiết bị sử dụng là
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 20 -
A
M
A
H
Vật cản
máy bộ đàm Motorola có tần số công tác là 450MHz. Vật cản trên đường truyền là
dãy núi Hoa Lư có chiều cao 120m nằm cách Nho Quan 5km.
Bài toán đặt ra cho ta thấy, chiều cao anten đặt tại Nho Quan phải đảm bảo
điều kiện của khoảng hở Fresnel cho phép là ∆h
1
= 0,6F
1
. Như vậy ta phải tính F
1

.
Áp dụng công thức :
1 2
1 2
n
l l
b n
l l
λ
= ∗
+
=
( )
3 3 8
3 6
25.10 .5.10 .3.10
25 5 .10 .450.10+
= 52,7(m)
Khoảng hở cho phép là ∆h =0,6F
1
= 52,7 .0,6 = 31,6(m)
Chiều cao tối thiểu của anten đặt tại Nho Quan là x + h
1
.
Theo hình vẽ mô phỏng cho thấy tại vị trí vật cản cách Ninh Bình 25km thì
chiều cao h
1
chính bằng vật cản và khoảng hở cộng lại.
120 + 31,6 = 151,6 (m)
Vậy tại Nho Quan (cách Ninh Bình 30km) thì chiều cao anten sẽ là :

151,6 151,6.30
181,92
25 30 25
x
x m
= ⇒ = =
Trong bài toán trên các thống số về chiều cao anten, tần số công tác của thiết
bị là có thật, chiều cao của vật cản là ví dụ. Trong thực tế thì dãy núi này còn cao hơn
rất nhiều. Với kết quả bài toán trên cho thấy việc xây dựng một cột anten đảm bảo
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 21 -
60m
120m
h
1
Ninh Bình l
1
= 25Km l
2
=5Km N.Quan
Hình 1.8: Bài toán ví dụ
H
2
=?
cho đường truyền thẳng vô tuyến sóng cựa ngắn là không khả thi. Do vậy chỉ có thể
thông tin thông suốt bằng phương pháp khác hoặc phải thiết kế một đường truyền
chuyển tiếp vô tuyến sóng cực ngắn mới đảm bảo được thông tin trên.
Kết luận chương: Trong bối cảnh của sự phát triển bùng nổ khoa học công
nghệ như hiện nay, những hiểu biết về lý thuyết thông tin, về truyền thông ngày càng
quan trọng và cần được xem xét trong hoàn cảnh mới. Chương này khái quát một số

khái niệm cơ bản, những vấn đề cơ bản về lý thuyết truyền sóng. Bắt đầu từ chương
này chúng ta sẽ khảo sát về sự truyền lan của sóng điện từ ở dải sóng vô tuyến điện.
Nhờ các sóng này mà ta có thể thiết lập các kênh thông tin vô tuyến với các cự li
thông tin rất lớn, không kể là trên mặt đất hay trong khoảng không vũ trụ. Để hiểu rõ
việc truyền lan của sóng trên mặt đất cần phải biết những khái niệm về miền Fresnel.
Việc biểu thị miền Fresnel lại dựa trên nguyên lý Huyghen. Vì vậy ở đây sẽ nhắc lại
một số khái niệm cơ bản xung quanh vấn đề này. Ngoài ra còn phải chú ý đến khoảng
hở Fresnel vì khoảng hở Fresnel là vô cùng quan trọng trong việc tính toán đường
truyền trên địa bàn.
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 22 -
CHƯƠNG 2: NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH TRUYỀN SÓNG
VÔ TUYẾN ĐIỆN.
@&?
2.1.Đặc điểm của mặt đất và phương pháp khảo sát.
2.1.1.Các thông số điện của đất.
Khi nghiên cứu đặc điểm truyền lan của sóng đất, thường các điều kiện thực
của mặt đất sẽ không được giữ lại nguyên vẹn mà nó được lý tưởng hóa đi.Những
vấn đề được lý tưởng hóa là :
a.Thay thế mặt đất thực và lồi lõm bằng mặt đất bằng phẳng tưởng tượng có
hằng số điện môi và điện dẫn suất giống như mặt đất thực.
Vấn đề xác định tính chất lồi lõm của mặt đất chỉ là tương đối so với bước
sóng. Đối với sóng dài có bước sóng hàng nghìn mét hay hàng chục nghìn mét, tất cả
các địa hình mặt đất trừ miền núi cao còn lại đều có thể xem là bằng phẳng hoàn
toàn. Ngược lại, đối với các sóng thuộc dải sóng decimet và centimet thì chỉ với các
lồi lõm nhỏ (gợn sóng trên mặt biển, cây cỏ ở cánh đồng v.v…) mặt đất cũng trở
thành không bằng phằng.
b.Bỏ qua sự biến đổi liên tục của chất đất trên đường truyền lan.
Trong thực tế, giữa hai miền có chất đất khác nhau, các thông số của mặt đất
thường biến đổi một cách từ từ, liên tục. Nhưng khi tính toán, để đơn giản, không thể

tính đến sự biến đổi liên tục ấy mà phải xem như các thông số cảu đất biến đổi một
cách đột biến.
c.Bỏ qua sự biến đổi của chất đất theo chiều sâu.
Đối với mặt đất thực, càng xuống sâu dưới mặt đất thì độ dẫn điện càng tăng
do ở dưới sâu độ ẩm của đất cao hơn hoặc có nhiều mạch nước ngầm. Nhưng trong
tính toán, để đơn giản ta bỏ qua đặc điểm này.
d.Mặt đất thực tế thường cũng không đồng nhất. Vì vậy khi tính toán, người ta
còn thay thế mặt đất thực không đồng nhất bằng mặt đất đồng nhất tưởng tượng (có
tham số tương đương như thế nào để nó gây ra tổn hao cũng giống như đối với mặt
đất thực).
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 23 -
Khi thực hiện đơn giản hóa ở điểm thứ nhất, cần lưu ý thêm đến địa hình phức
tạp của mặt đất. Nếu mặt đất gồm những địa hình có các lồi lõm nhỏ, ta có thể thay
thế trực tiếp mặt đất lồi lõm bằng mặt đất bằng phẳng cùng với thông số điện.
Trường hợp mặt đất gồm những địa hình có các lồi lõm đáng kể, khi thay thế bằng
mặt đất phẳng cần đưa vào các thông số tương đương. Thông số tương đương được
chọn sao cho giữa mặt đất thực và mặt đất bằng phẳng có sự hấp thụ giống nhau.
Bảng 2.1 cho ta thông số tương đương của một số loại mặt đất khác nhau đối
với dải sóng trung.
Bảng 2.1: Thông số tương đương của một số loại mặt đất
Loại mặt đất Giới hạn biến đổi Trị số trung bình
Έ Σ έ σ
Nước biển 80 1 ÷ 4,3 80 4
Nước ngọt 80 10
-3
÷ 2,4.10
-2
80 10
-2

Đất ẩm 10 – 30 3.10
-3
÷ 3.10
-2
10 10
-2
Đất khô 3 – 6 1,1.10
-5
÷ 2.10
-3
4 10
-3
Rừng cây 1,004 – 1,4 10
-6
÷ 10
-5
1,2 10
-5
Thành phố lớn 7,5.10
-4
Miền rừng núi 7,5.10
-4
2.1.2.Đặc điểm của mặt đất và phương pháp khảo sát.
a.Khi nghiên cứu việc truyền sóng vô tuyến điện, mặt đất thường có tác động
rất lớn đến quá trình truyền sóng. Do vậy, ta phải tìm hiểu những đặc điểm của mặt
đất, từ đó có phương pháp nghiên cứu.
Như ta đã biết cấu trúc địa lý của mặt đất rất phức tạp, mặt đất thực tế không
bằng phẳng, song khi tính toán ta phải lý tưởng hóa đi. Ta coi mặt đất là bằng phẳng
và có thông số điện tương đương ( độ dẫn điện ; hằng số điện môi, hệ số từ thẩm ξεμ.
b.Mặt đất không đồng nhất, nhưng ta xem nó như đồng nhất khi khảo sát với

các thông số điện tương đương.
c.Mặt đất thay đổi liên tục theo khoảng cách đường truyền và theo độ sâu. Khi
khảo sát ta vẫn coi là các thông số tương đối ổn định với các thông số điện tương
đương.
SVTH: Trần Thị Minh Hoa
- 24 -

×