Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Vai trò của cộng đồng trong bảo vệ di tích lịch sử văn hóa(Qua nghiên cứu trường hợp tỉnh Bắc Ninh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.73 KB, 7 trang )

55Số 6 - Tháng 12 - 2013
DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
V
Ă N H Ó
A
C
ộng đồng là một thuật ngữ đã và
đang được sử dụng trên nhiều lĩnh
vực khác nhau như xã hội học, văn
hóa học, nhân học, sử học, kinh tế học, chính
trị học… Ở mỗi lĩnh vực, khái niệm cộng đồng
được hiểu theo những tiêu chí, nội hàm phù
hợp. Tuy nhiên theo một số nhà nghiên cứu,
dù ít nhiều có sự hiểu khác nhau nhưng vẫn
có thể đưa ra được những điểm chung trong
khái niệm cộng đồng. Theo tác giả Phạm Hồng
Tung (trong bài viết Cộng đồng: Khái niệm,
cách tiếp cận và phân loại trong nghiên cứu), dù
tiếp cận từ những góc độ lý thuyết khoa học
khác nhau và hướng tới sự quan tâm học thuật
với những dạng thức cụ thể không giống nhau
của cộng đồng thì cách hiểu về cộng đồng vẫn
có một số điểm thống nhất như: cộng đồng
là tập hợp của một số đông người; có bản sắc
riêng; các thành viên phải có sự gắn kết với
nhau; có ý thức cộng đồng… Theo tác giả,
cộng đồng được phân thành ba loại là cộng
đồng địa lý, cộng đồng văn hóa và cộng đồng tổ
VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG
TRONG BẢO VỆ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA


(QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TỈNH BẮC NINH)
TRẦN ĐỨC NGUYÊN
Tóm tắt
Việc bảo vệ, giữ gìn các di tích lịch sử văn hóa đã và đang được cả xã hội quan tâm, trong đó ghi
nhận những đóng góp rất lớn của cộng đồng. Với sự tham gia của cộng đồng, nhiều di tích đã được
trùng tu, tu bổ tránh được sự hủy hoại của thiên nhiên, môi trường, đồng thời đưa vào sử dụng, đáp
ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm thì cũng xuất hiện
những hạn chế như xây dựng, tu bổ sai nguyên tắc, làm sai lệch giá trị của di tích… Điều này đã đặt
ra cho các cơ quan quản lý nhiệm vụ định hướng, giám sát khi huy động các nguồn lực từ cộng đồng
trong bảo vệ di tích lịch sử văn hóa
Từ khóa: Di tích, di tích lịch sử - văn hóa, cộng đồng, vai trò của cộng đồng
Abstract
The protection and preservation of the cultural - historical monuments have been interested
by the whole society, in which recognizing the enormous contribution of the community. With the
participation of the community, many relics have been restored, repaired, avoiding the destruction
of the nature, environment; and put into use, meeting the demand of enjoying culture of the people.
However, besides the advantages, it also appears some disadvantages such as construction, repairing
in wrong principle, distort the value of the relics This has posed to management authorities the tasks
of directing, supervising when mobilizing the resources from the community in protecting the cultural
- historical monuments.
Keyword: Relic, cultural - historical monument, community, role of community
Số 6 - Tháng 12 - 201356
NGHIÊN CỨU
V
Ă N H Ó
A
chức. Trong đó, cộng đồng văn hóa được hiểu
là các thành viên có chung một bản sắc hay
những đặc trưng văn hóa nào đó và dù có thể
không cùng địa bàn quần cư, họ vẫn thường

xuyên có những tương tác nào đó và dễ nhận
biết lẫn nhau (1). Hai tác giả Tô Duy Hợp, Lương
Hồng Quang khi nghiên cứu về cộng đồng đã
nhấn mạnh đến các yếu tố địa vực, kinh tế hay
nghề nghiệp và các yếu tố có tính văn hóa. Các
tác giả này cũng chia cộng đồng thành ba loại:
loại hình cộng đồng thuần khiết và không thuần
khiết; cộng đồng theo tính trồi (cộng đồng lãnh
thổ, cộng đồng huyết thống, cộng đồng tộc
người…) và cộng đồng lịch sử (2, tr.32). Nhưng
một số ý kiến lại cho rằng trên thực tế không
có loại cộng đồng riêng biệt nào cả mà dường
như tất các cộng đồng đều ở dạng hỗn hợp
hay là phức hợp của một vài kiểu loại khác
nhau. Chẳng hạn, làng xóm là một cộng đồng
địa vực cư trú, nhưng trong đó lại tồn tại cả
những cộng đồng khác như cộng đồng nghề
nghiệp, cộng đồng tín ngưỡng…
Trong lĩnh vực bảo vệ di tích lịch sử văn hóa,
khi đề cập tới cộng đồng, chúng tôi cho rằng
đây là tập hợp những nhóm người có chung
đặc trưng về văn hóa, đó là cùng theo/thờ
phụng một tôn giáo hoặc tín ngưỡng nào đó
như Phật giáo, Đạo giáo, tín ngưỡng thờ Mẫu,
thờ Thành hoàng, thờ tổ tiên… Cộng đồng này
có thể trùng khớp với cộng đồng cư trú (làng
xã, khu phố) nhưng cũng có thể không, thậm
chí còn rộng hơn trên phạm vi cả nước, thậm
chí là ngoài nước. Các thành viên thuộc cộng
đồng này có chung một niềm tin vào các vị

thần linh, cầu mong sự che chở, ban ơn, mang
lại cho họ những điều tốt lành trong cuộc
sống. Những niềm tin như vậy đã tạo sự thống
nhất tinh thần, củng cố đạo lý chung, đồng
thời góp phần vào nhiều hoạt động xã hội tại
cộng đồng bằng một thái độ mà theo các nhà
nghiên cứu, là một “sự dấn thân, không vụ lợi”.
Một trong những hoạt động đó là việc tham
gia đóng góp giữ gìn, bảo vệ những địa điểm
thờ tự của cộng đồng - khi các di tích bị xuống
cấp, hư hỏng thì các thành viên của cộng đồng
sẵn lòng góp công, góp của để trùng tu, tôn
tạo. Họ luôn mong cho các di tích - nơi cư ngụ
của “bậc tối cao” được khang trang, to đẹp. Do
vậy, trong phạm vi này, theo chúng tôi có thể
quan niệm cộng đồng là những người cùng
hoặc khác địa bàn sinh sống, chung các yếu tố
về văn hóa và có sự quan tâm, đóng góp đối
với việc trùng tu, tu bổ các di tích lịch sử văn
hóa.
Luật Di sản văn hóa của nước ta có ghi: “Di
tích lịch sử văn hóa là công trình xây dựng, địa
điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc
công trình, địa điểm đó, có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học” (3, tr.33). Trên thực tế, di tích lịch sử
văn hóa là những nơi lưu giữ một bộ phận giá
trị văn hóa khảo cổ, nơi diễn ra sự kiện lịch
sử quan trọng, có ý nghĩa đối với dân tộc, đất
nước hoặc địa phương: những địa điểm ghi
dấu chiến công chống xâm lược, chống áp bức;

những địa điểm lưu niệm về nhân vật lịch sử,
anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, khoa
học; những công trình kiến trúc nghệ thuật
có giá trị. Di tích lịch sử văn hóa là một phận
quan trọng cấu thành di sản văn hóa, mỗi di
tích hàm chứa giá trị văn hoá - lịch sử - khoa
học nhất định, phản ánh một chặng đường lịch
sử của cộng đồng dân cư, quá trình hình thành
và phát triển xã hội qua mỗi thời đại.
So với các bộ phận khác của di sản văn
hóa vật thể thì các di sản này có những đặc
trưng riêng: các di tích tồn tại, gắn với từng địa
phương, địa bàn cư trú, gắn với các khu dân cư,
với cộng đồng cụ thể. Xét từ góc độ sáng tạo
thì các di tích phần lớn đều do cộng đồng, góp
công sức xây dựng nên. Trong lịch sử có những
trường hợp di tích được triều đình, vua chúa,
quan lại hoặc những người có tiềm lực kinh tế
đầu tư tiền bạc, vật liệu để xây dựng như các
lăng tẩm, đền đài tại kinh thành Huế hay đình
Đình Bảng (Bắc Ninh) nhưng trong quá trình
tạo dựng các di tích đó cộng đồng vẫn đóng vai
trò quan trọng bằng sức lao động của tập thể
và sự sáng tạo của những nghệ nhân. Những
mảng chạm khắc tinh sảo, những kiểu dáng
độc đáo trong kiến trúc do người dân tạo
nên là những di sản văn hóa tiêu biểu mà ngày
nay vẫn còn nguyên giá trị. Trong qúa trình tồn
57Số 6 - Tháng 12 - 2013
DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA

NGHIÊN CỨU
V
Ă N H Ó
A
tại, các di tích như đình, chùa, đền, miếu… đã
chịu nhiều tác động của môi trường tự nhiên,
của chiến tranh tàn phá. Các di tích này vẫn
tồn tại cũng là nhờ công sức của cộng đồng.
Người dân đã huy động công sức, tiền của để
trùng tu, tu bổ cho các di tích. Qua đó, chúng
ta thấy di tích và cộng đồng có mối quan hệ
mật thiết với nhau, trong đó cộng đồng đóng
vai trò rất quan trọng trong quá trình sáng tạo,
hình thành và tồn tại của các di tích.
Trong lịch sử, việc cộng đồng tham gia bảo
vệ, giữ gìn di tích, đặc biệt là các di tích gắn với
tôn giáo - tín ngưỡng là hoạt động phổ biến
tại các xóm làng, khu dân cư. Sự đóng góp của
cộng đồng cho tu bổ di tích không ít hơn sự
đầu tư của chính quyền. Những hành động tốt
đẹp ấy được duy trì trong các điều kiện lịch sử
khác nhau và được ghi lại trên các di vật như
bia đá, chuông, khánh, hoành phi, câu đối ,
trong đó, nhiều nhất là được ghi trên bia đá.
Các tấm bia ghi lại sự đóng góp tiền của, công
sức của những người hảo tâm vào việc tu bổ
di tích. Tùy từng loại hình, bia có những tên
gọi khác nhau như bia hậu thần, bia hậu phật,
bia hậu hiền… Văn bia tại chùa Linh Cảm (xã
Việt Đoàn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) dựng

năm Quang Bảo thứ 4 (1557) có ghi: “…Thắng
tích Khám Sơn vốn có chùa, chùa hiển linh từ
xa xưa. Phàm có việc cầu, đảo đều cảm ứng…
Năm tháng qua đi, chùa cũ kỹ. Muốn sửa cũ
thành mới tất phải chờ vào bậc đại đàn, có lực
lượng lớn, phương sách lớn mới thành… trên
có Thánh Thiên tử đặc ban cấm tiền cung tiến,
Hoàng thái hậu lại lấy tiền quan cúng vào, dưới
có các thái lão, thiện nam tín nữ một vùng có
tấm lòng lành đó khởi xướng lên. Chúng dân
đổ về như nước cùng vui làm việc thiện, giúp
tài vật…”(4, tr.149). Hay văn bia “Ninh Phúc
thiền tự bi ký” tại chùa Bút Tháp dựng năm
Vĩnh Thịnh thứ 10 (1714) cũng nói về điều này:
“chùa Ninh Phúc được mở dựng bởi bậc thánh
đời trước nhưng qua nhiều năm đã hư hại” nên
được nhiều quan viên trong triều hưng công
cho tu sửa thêm khang trang hơn mà “chẳng
tiếc ngàn vàng sắm mua toàn gỗ tốt” đồng
thời “lại được dân làng góp sức mời thợ cất
dựng sửa sang, điện thờ nguy nga, chùa chiền
rộng rãi” (5, tr.37- 38). Ngày nay, tại các di tích
còn lưu giữ được hàng ngàn tấm bia hậu như
vậy, qua đó có thể thấy ngay từ xưa, ý thức bảo
vệ, giữ gìn các di tích đã thu hút được sự quan
tâm và tham gia một cách tự nguyện của cộng
đồng.
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ
của nhiều lĩnh vực như kinh tế, công nghệ,
khoa học, chất lượng cuộc sống của người

dân được tăng lên, văn hóa khẳng định được
vai trò quan trọng trong đời sống xã hội: là
“nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội”. Sự phát triển xã hội về nhiều mặt,
nhất là về kinh tế vừa thể hiện được những ưu
điểm nhưng cũng có những tác động tiêu cực
không nhỏ đến văn hóa truyền thống. Nhiều
di sản bị trào lưu công nghiệp hóa - hiện đại
hóa làm ảnh hưởng, thậm chí phá hủy. Vì vậy
vấn đề bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá trị di sản
văn hóa truyền thống trong điều kiện hiện nay
đã, đang thu hút sự quan tâm của toàn xã hội.
Các di tích lịch sử văn hóa có vị thế quan trọng
trong hệ thống di sản văn hóa của mỗi dân tộc.
Việc bảo vệ, giữ gìn các di tích phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như chính sách, công tác quản lý,
khoa học kỹ thuật… nhưng vai trò của cộng
đồng vẫn là một yếu tố hết sức quan trọng.
Tổ chức UNESCO khẳng định: “theo nghĩa
rộng nhất, di sản thiên nhiên và văn hóa thuộc
về mọi người ”, đồng thời nhấn mạnh vai trò
của cộng đồng trong việc bảo vệ các di sản
ấy: “bổn phận của toàn thể cộng đồng là phải
tham gia vào việc bảo vệ di sản văn hóa và
thiên nhiên” (6). Ở nước ta, Luật Di sản văn hóa
khẳng định “Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản
quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
và là bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có
vai trò lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ

nước của nhân dân”. Trong những năm qua,
Nhà nước ta đã đầu tư nhiều kinh phí cho việc
bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa
nói chung, các di tích lịch sử văn hóa nói riêng.
Bên cạnh đó, Nhà nước còn ban hành các
chính sách, chủ trương nhằm huy động các
Số 6 - Tháng 12 - 201358
NGHIÊN CỨU
V
Ă N H Ó
A
nguồn lực từ cộng đồng. Đây là chủ trương xã
hội hóa với tinh thần “nhà nước và nhân dân
cùng làm”, là chủ trương đúng đắn và phù hợp
với hoàn cảnh đất nước hiện nay, nhằm trả lại
cho cộng đồng những giá trị văn hóa mà họ đã
tạo nên và trao quyền làm chủ những giá trị đó
cho họ. Vì lẽ đó, cộng đồng sẽ quan tâm nhiều
hơn và luôn có ý thức bảo vệ các di tích. Như
vậy, vai trò của cộng đồng tham gia vào hoạt
động bảo vệ di tích có ý nghĩa quan trọng góp
phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Trên thực tế, sự tham gia của cộng đồng
vào việc bảo vệ, phát huy giá trị di tích trong
những điều kiện cụ thể cũng đặt ra cho các nhà
quản lý một số vấn đề đáng lưu tâm. Trong bài
viết này, chúng tôi đưa ra trường hợp nghiên
cứu tỉnh Bắc Ninh.
Bắc Ninh ngày nay, một phần chủ yếu
thuộc xứ Kinh Bắc xưa, nằm gần kề kinh thành

Thăng Long - Hà Nội. Đây là vùng đất có lịch
sử và truyền thống văn hiến lâu đời. Nơi đây
sớm có sự xuất hiện của con người. Các nghiên
cứu khảo cổ cũng như nhiều nguồn tư liệu cho
thấy người Việt cổ đã khai phá và tụ cư ở vùng
đất này cách ngày nay khoảng 4000 năm. Theo
năm tháng, dân cư ngày càng đông đúc, lại là
nơi có nhiều thuận lợi về giao thông thủy bộ
nên Kinh Bắc đã từng được chọn là thủ phủ của
nước ta với thành Luy Lâu - một đô thị cổ, nơi
diễn ra nhiều hoạt động kinh tế - văn hóa sôi
động vào những năm đầu công nguyên. Trải
qua thời gian, vùng đất này ghi dấu nhiều sự
kiện lịch sử quan trọng của dân tộc, là nơi phát
tích của nhà Lý - triều đại phát triển rực rỡ thời
phong kiến, một vùng đất hiếu học, có truyền
thống khoa bảng, lại sản sinh ra nhiều danh
nhân có những đóng góp quan trọng trong
lịch sử như Lý Công Uẩn, Lê Văn Thịnh, Nguyễn
Gia Thiều rồi sau này là Nguyễn Văn Cừ, Ngô
Gia Tự, Hoàng Quốc Việt Kinh Bắc - Bắc Ninh
mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Những nét tiêu biểu đó đã cho thấy Bắc
Ninh là vùng đất giàu truyền thống lịch sử và
văn hiến. Vùng đất này đã hình thành và lưu
giữ một kho tàng di sản văn hóa phong phú,
đa dạng, nhiều loại hình gồm cả di sản văn
hóa vật thể và phi vật thể còn tồn tại đến ngày
nay. Trong kho tàng di sản đó, các di tích lịch
sử văn hóa là một thành tố quan trọng, góp

phần tạo nên bản sắc văn hóa của vùng Kinh
Bắc. Việc giữ gìn, bảo vệ và phát huy giá trị các
di tích ở Bắc Ninh trong những năm qua đã đạt
được những thành công đáng ghi nhận, trong
đó vai trò của cộng đồng được thể hiện khá rõ
nét. Theo số liệu thống kê của Ban Quản lý di
tích Bắc Ninh, trên toàn tỉnh hiện có khoảng
1259 di tích gồm ba loại hình là di tích khảo cổ,
di tích lịch sử và di tích kiến trúc nghệ thuật.
Tính đến năm 2013 đã có 498 di tích được xếp
hạng với 194 di tích cấp quốc gia và 304 di tích
cấp tỉnh… Hai di tích là chùa Dâu và chùa Phật
Tích được xếp hạng di tích đặc biệt quan trọng
của quốc gia.
Các di tích ở nước ta có chung đặc điểm
là được xây dựng chủ yếu bằng các vật liệu
truyền thống như gạch, gỗ, đá… nên thường
bị tác động của môi trường, thiên nhiên làm
nhanh bị xuống cấp, hư hỏng. Do vậy các di
tích cần được theo dõi, quản lý và tiến hành
các hoạt động trùng tu, tu bổ. Hiện nay việc
tu bổ, tôn tạo di tích được thực hiện chủ yếu
bằng hai nguồn: thứ nhất thông qua sự hỗ
trợ của nhà nước, kinh phí theo chương trình
mục tiêu quốc gia, chống xuống cấp di tích;
thứ hai, huy động các nguồn lực từ cộng đồng.
Những năm qua, tỉnh Bắc Ninh đã có những
chính sách nhằm khuyến khích, thu hút và tạo
điều kiện cho các tổ chức, đoàn thể, cá nhân
tham gia vào hoạt động bảo tồn, phát huy giá

trị của di tích. Điều này đã góp phần huy động
được một nguồn lực lớn từ cộng đồng tham
gia. Qua khảo sát cho thấy, cộng đồng tham
gia trùng tu, tu bổ di tích gồm hai dạng chính:
- Đóng góp một phần kinh phí, nhân lực,
vật liệu…cùng với kinh phí của nhà nước với
phương châm “nhà nước và nhân dân cùng
làm”.
- Đóng góp toàn bộ kinh phí, ngày công
vào việc trùng tu, tu bổ cho các di tích.
Kinh phí được người dân ủng hộ trùng
59Số 6 - Tháng 12 - 2013
DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
V
Ă N H Ó
A
tu, tôn tạo di tích tùy theo khả năng kinh tế
của từng địa phương. Với số lượng di tích lớn,
ngân sách của nhà nước đầu tư cho trùng tu,
tu bổ còn hạn chế thì sự huy động nguồn lực
từ nhân dân đã góp phần có hiệu quả ngăn
chặn tình trạng xuống cấp của di tích. Do vậy,
ở hình thức thứ nhất nhà nước đầu tư hỗ trợ
một phần kinh phí, số còn lại sẽ huy động sự
ủng hộ, đóng góp từ cộng đồng. Với phương
thức đó nhiều di tích đã được trùng tu, tu bổ
kịp thời, tránh khỏi nguy cơ bị hủy hoại, biến
dạng, nhiều di tích được đưa vào phục vụ nhu
cầu đời sống văn hóa của người dân. Theo số

liệu thống kê, năm 2010 tỉnh Bắc Ninh đã tiến
hành trùng tu, tu bổ được 21 di tích với tổng
số kinh phí huy động được từ cộng đồng lên
tới gần 5 tỷ đồng; năm 2011 huy động được
gần 15 tỷ đồng để tu bổ cho 16 di tích. Trường
hợp cụ thể như: xây dựng Tam bảo chùa Đọ
Xá (phường Ninh Xá, thành phố Bắc Ninh),
nhà nước hỗ trợ 200 triệu đồng, huy động của
cộng đồng số tiền đạt gần 4 tỷ đồng; tu bổ tòa
tiền tế đình Đông Yên (xã Đông phong, huyện
Yên Phong), nhà nước hỗ trợ 50 triệu, người
dân đóng góp kinh phí là 1,3 tỷ đồng… Ngoài
ra còn phải kể tới một số trường hợp khác như
chùa Diên Phúc, chùa Phong xá, đình Trần Xá
(huyện Yên Phong), chùa Yên Lã (Từ Sơn), đình
Xuân Ổ (thành phố Bắc Ninh)… là các di tích
được trùng tu với số lượng kinh phí khá lớn
huy động được từ người dân địa phương cũng
như của khách thập phương*.
Vai trò của cộng đồng trong việc bảo tồn,
phát huy giá trị di tích có lẽ được thể hiện
điển hình nhất là trường hợp khôi phục, tôn
tạo khu di tích các vua nhà Lý ở Đình Bảng,
Từ Sơn gồm đền Đô, chùa Ứng Tâm, chùa Kim
Đài, chùa Quang Đổ Những di tích này bị thời
gian, chiến tranh làm xuống cấp, thậm chí bị
phá hủy hoàn toàn. Đền Đô - nơi thờ tám vị vua
Lý, trước khi được nhà nước ra quyết định xếp
hạng chỉ còn là bãi đất trống và một tấm bia
“Cổ Pháp điện tạo bi”, niên đại 1604, do Hoàng

giáp Phùng Khắc Khoan soạn ghi lại việc nhà
Lê cho xây dựng lại đền Đô. Được sự quan tâm,
ủng hộ của chính quyền địa phương, người
dân Đình Bảng cùng khách thập phương đã
đồng lòng nhất trí ủng hộ tiền bạc, công sức
để xây dựng lại đền Đô. Theo thống kê, vào thời
điểm những năm 1989, trong khoảng 5 năm,
nhân dân Đình Bảng và hàng triệu tấm lòng
đại nghĩa của khách thập phương đã công đức
bằng tiền mặt và hiện vật, công sức lao động
trị giá gần 6 tỷ đồng Qua nhiều lần tu bổ,
đến nay đền Đô là quần thể di tích với nhiều
hạng mục kiến trúc khang trang, một không
gian văn hóa tâm linh - điểm đến hấp dẫn của
du khách trong và ngoài nước. Bên cạnh đó,
ban quản lý di tích đền Đô hiện nay (một mô
hình quản lý với sự tham gia của người dân địa
phương) đang hoạt động có nhiều hiệu quả,
đảm bảo được an ninh trật tự cũng như giữ
gìn được tính thiêng, các yếu tố truyền thống
của khu di tích. Những thành tựu này đã được
chính quyền và du khách ghi nhận.
Việc tham gia của cộng đồng đã góp phần
bảo tồn, gìn giữ được nhiều di tích đồng thời
làm cho các di tích đó gắn với đời sống văn
hóa của cộng đồng. Có thể thấy trong thời
gian qua, sự đóng góp (nhất là về kinh phí)
chủ yếu tập trung vào các di tích tôn giáo - tín
ngưỡng như đình, chùa, đền, miếu, nhà thờ
họ Những di tích thuộc loại này đã thu hút

số lượng lớn người dân tới để thi hành các
sinh hoạt văn hóa tâm linh đồng thời sẵn lòng
đầu tư kinh phí tiền bạc vào các hoạt động tu
bổ, tôn tạo cho di tích. Nhìn chung người đi lễ
luôn có tâm lý là cầu mong thánh thần phù hộ,
đem lại cho họ những điều tốt lành, mỗi người
đến với di tích đều mang những nguyện vọng
riêng và mong muốn gửi gắm nguyện vọng đó
đến thánh thần. Do vậy việc đóng góp kinh phí
để trùng tu di tích như là một cách thể hiện sự
tâm thành của người dân.
Các di tích thuộc loại hình khác như di tích
khảo cổ, di tích lịch sử, di tích lưu niệm danh
nhân dường như ít thu hút được sự quan tâm
của cộng đồng. Người dân đến những di tích
này ít hơn, nắm bắt được nội dung, giá trị của
di tích cũng sơ sài. Các di tích này chủ yếu được
trùng tu, tu bổ bằng nguồn ngân sách của nhà
nước, cộng đồng có tham gia nhưng với số
Số 6 - Tháng 12 - 201360
NGHIÊN CỨU
V
Ă N H Ó
A
lượng đóng góp rất nhỏ. Có thể thấy đây là
một vấn đề đặt ra đối với các nhà quản lý trong
việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức của
cộng đồng về vai trò, giá trị của các loại hình
di tích trong đời sống xã hội hiện nay. Nhiều
di tích vừa mang giá trị về lịch sử, vừa mang

giá trị văn hóa tâm linh nhưng người dân biết/
quan tâm đến vấn đề văn hóa tâm linh nhiều
hơn. Di tích đền Phấn Động (xã Tam Đa, huyện
Yên Phong) là một trong những di tích thuộc
phòng tuyến sông Cầu, theo thời gian được du
khách biết đến nhờ việc thờ Mẫu nhiều hơn.
Du khách đến đây chủ yếu là lễ cầu lộc thánh
và tiến hành nghi lễ hầu đồng. Nhiều du khách
khi được hỏi thì hoàn toàn không biết về sự
kiện lịch sử cũng như các di tích thuộc phòng
tuyến sông Cầu.
Nhận thức của cộng đồng trong bảo vệ,
phát huy giá trị di tích đóng vai trò rất quan
trọng. Người dân có nhận thức đúng về giá trị
của các di tích mới có hành động bảo vệ di tích
một cách hợp lý, ngược lại nhận thức của cộng
đồng chưa cao, sẽ dẫn đến sự thờ ơ đối với giá
trị của di tích.
Ở hình thức thứ hai, các di tích được trùng
tu, tu bổ hoàn toàn bằng nguồn lực được huy
động từ cộng đồng thì đã xảy ra những hiện
tượng sai phạm như xây dựng trái quy định
dẫn đến hiện tượng làm méo mó, sai lệch
những giá trị, đặc biệt là làm mất tính nguyên
gốc của di tích như thay thế cột gỗ bằng cột bê
tông cốt thép, nền lát đá hoa, xây dựng Phật
điện kiểu hai tầng… Nhiều tượng cổ có niên
đại vài trăm năm bị đưa ra sơn son thếp vàng
thay thế cho nước sơn tuyệt đẹp trước đây.
Ở một số nơi nhận thức của người dân về

di sản văn hóa còn hạn chế dẫn đến việc lấn
chiếm đất đai, xây dựng nhà cửa, công trình
dân sinh, vi phạm vào vùng bảo vệ, làm mất
cảnh quan, không gian của di tích (như tại
chùa Phi Tướng, thành cổ Luy Lâu ) hay việc
khai thác, kinh doanh trái phép cát trên sông
Cầu đã ảnh hưởng trực tiếp đến các di tích
thuộc phòng tuyến. Ngành văn hóa, chính
quyền địa phương trong nhiều năm vẫn chưa
thể giải quyết dứt điểm vấn đề này. Ở một số di
tích đã xảy ra tình trạng mất cắp cổ vật, di vật,
một phần nguyên nhân là do người dân chưa
nêu cao tinh thần cảnh giác, chưa phối hợp
đồng bộ trong việc bảo vệ di tích. Các di tích
bị mất cắp cổ vật, di vật là đình Bái Uyên (xã
Liên Bão, huyện Tiên Du), đình Cả (xã Nội Duệ,
huyện Tiên Du), đình Yên Việt (xã Đông Cứu,
huyện Gia Bình)…Thậm chí có di tích bị trộm
cắp vài lần như di tích thờ danh nhân Nguyễn
Phúc Xuyên (phường Đại Phúc, thành phố Bắc
Ninh) năm 2004 bị mất câu đối, năm 2006 lại
mất bình hương…
Để nâng cao vai trò và huy động được sự
tham gia của cộng đồng trong hoạt động bảo
vệ di tích lịch sử - văn hóa, theo chúng tôi cần
chú ý tới một số vấn đề sau:
- Tăng cường các hoạt động tuyên truyền
Luật Di sản văn hóa, các văn bản về bảo vệ, phát
huy giá trị di tích lịch sử văn hóa dưới nhiều
hình thức khác nhau nhằm đưa các văn bản

này vào cuộc sống và có hiệu lực trong thực
tế, đồng thời nâng cao nhận thức của người
dân, hình thành ý thức, thái độ trân trọng đối
với các loại hình di sản văn hóa truyền thống
trên quê hương.
Việc tuyên truyền di tích để người dân có
cách ứng xử tích cực, phù hợp là vấn đề cần
thiết nhất. Trong quá khứ cũng như hiện nay,
truyền thống đấu tranh, tinh thần yêu nước,
tự hào dân tộc luôn là vấn đề được coi trọng
hàng đầu. Lịch sử hào hùng của dân tộc ngày
nay được lắng đọng, thể hiện qua các di tích.
Do vậy cần tuyên truyền, định hướng giúp cho
người dân nhận thức đúng vai trò, giá trị của
loại hình di tích này từ đó họ có sự quan tâm,
đầu tư hợp lý, tránh tình trạng quá thiên về các
di tích gắn với tôn giáo tín ngưỡng.
- Đặc điểm của các di tích là thường gắn
bó chặt chẽ với một cộng đồng cụ thể (làng
xóm, khu phố, cụm dân cư ), do vậy cần tạo
điều kiện để người dân tham gia bảo vệ, sử
dụng và khai thác giá trị của di tích. Việc trao
cho cộng đồng quyền chủ động quản lý các
di tích, thành lập các ban quản lý di tích do
61Số 6 - Tháng 12 - 2013
DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
V
Ă N H Ó
A

chính người dân địa phương bầu chọn cũng
làm cho người dân cảm thấy được quyền làm
chủ của mình, từ đó tạo niềm tự hào, có ý thức
trách nhiệm đối với các di tích. Ban quản lý
di tích đền Đô là mô hình quản lý hoạt động
có hiệu quả trong nhiều năm qua. Do vậy cần
phổ biến, nhân rộng mô hình quản lý này đến
nhiều di tích khác. Nhằm giúp cho công tác
quản lý di tích có chất lượng, hiệu quả, các cơ
quan quản lý nhà nước cần đóng vai trò định
hướng, giám sát hoạt động của các ban quản
lý tại các di tích này, đồng thời thường xuyên
tổ chức các lớp tập huấn, phổ biến kiến thức về
di tích, về di sản văn hóa cũng như nghiệp vụ
quản lý cho các thành viên của các ban quản
lý này để họ nâng cao được nhận thức về quản
lý và bảo vệ di tích. Bên cạnh đó, sự phối hợp
đồng bộ giữa các cơ quan quản lý nhà nước
với cộng đồng, nơi có di tích là điều cần thiết.
Cộng đồng là sợi dây liên hệ giữa di tích với
cơ quan quản lý, những hiện tượng vi phạm di
tích sẽ nhanh chóng bị cộng đồng phát hiện
và thông tin được truyền tải đến những cơ
quan có thẩm quyền xử lý.
- Cần thiết phải xây dựng cơ chế nhằm
khuyến khích, động viên các tổ chức doanh
nghiệp, đoàn thể cá nhân tích cực đầu tư, ủng
hộ các hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị di
tích. Đối với các doanh nghiệp, cần có những
chính sách ưu đãi khi tham gia đầu tư kinh phí

cho các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa. Bên
cạnh đó, cần chú ý biểu dương, khen thưởng
kịp thời đối với các cá nhân, tổ chức tham gia
tích cực, có hiệu quả trong việc trùng tu, tôn
tạo cũng như phát huy giá trị của các di tích.
- Ban hành chính sách quản lý và sử dụng
các nguồn tài chính huy động từ cộng đồng
theo hướng ưu tiên cho việc trùng tu, tu bổ
cho di tích
Trên đây là một số vấn đề mà chúng tôi
mong muốn đưa ra nhằm góp phần làm cho
hiệu quả xã hội hóa việc bảo tồn, phát huy giá
trị di tích lịch sử văn hóa ngày càng được nâng
cao. Vai trò của cộng đồng cần được đề cao
không chỉ đối với việc bảo vệ các di tích mà
còn đối với các loại hình di sản văn hóa khác
như lễ hội, nghề truyền thống, các loại dân ca,
dân vũ Chỉ có dựa vào sức mạnh của cộng
đồng, chúng ta mới có thể bảo tồn, phát huy
các di sản văn hóa một cách có hiệu quả trong
điều kiện hiện nay.
T.Đ.N
(ThS, Khoa Di sản văn hóa)
Chú thích
* Số liệu của Ban Quản lý di tích tỉnh Bắc Ninh
Tài liệu tham khảo
1. Phạm Hồng Tung (2009), Cộng đồng: Khái
niệm, cách tiếp cận và phân loại trong nghiên cứu,
Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội, Số 12/2009,
tr. 21-29

2. Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang (2000),
Phát triển cộng đồng, Lý thuyết và Vận dụng, Nxb.
Văn hóa - Thông tin.
3. Luật di sản văn hóa năm 2001 được sửa dổi,
bổ sung năm 2009, Nxb. Chính trị quốc gia, 2009,
tr.33
4. Đinh Khắc Thuân (2010), Văn bia thời Mạc,
Nxb. Hải Phòng.
5. Phạm Tuấn (2005), Lịch sử chùa Bút Tháp qua
tư liệu Hán nôm, Tạp chí Xưa và Nay, Số 235.
6. Công ước quốc tế về du lịch văn hóa: Việc
quản lý du lịch ở những nơi có di sản quan trọng.
Được ICOMOS thông qua tại Đại hội đồng lần thứ
12 ở Mehico, tháng 10/1999.
Ngày nhận bài: 3 - 5 - 2013
Ngày phản biện, đánh giá: 6 - 9 - 2013
Ngày chấp nhận đăng: 10 - 12 - 2013

×