Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

Giải pháp hỗ trợ DNTMNVV ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.09 KB, 131 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT ii
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU VÀ SƠ ĐỒ iv
Chương 1 6
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA VÀ 6
HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM 6
Bảng 1.1. Chỉ tiêu xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước 7
Bảng 1.2: Chỉ tiêu xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam 8
PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG DNTMNVV VÀ HỖ TRỢ
DNTMNVV Ở VIỆT NAM 41
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CAD Đô la Canada
CEPT Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan
CN Công nghiệp
CNH Công nghiệp hóa
COTRA Tổ chức xúc tiến thương mại và đầu tư Hàn Quốc
DN Doanh nghiệp
DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa
DNTMNVV Doanh nghiệp Thương mại nhỏ và vừa
DNTM Doanh nghiệp Thương mại
DV Dịch vụ
EU Liên minh châu Âu
GDP Tổng thu nhập quốc nội
GTGT Giá trị gia tăng
GTZ Tổ chức hợp tác kỹ thuật của Công hòa Liên bang Đức
HĐH Hiện đại hóa
HTX Hợp tác xã
ILO Tổ chức Lao động quốc tế
JETRO Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản


JPY Yên Nhật
KD Kinh doanh
MPDF Tổ chức hỗ trợ phát triển Mêkong
MPI Bộ kế hoạch đầu tư
NH Ngân hàng
NHCT Ngân hàng Công thương
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng Thương mại
OECF Quỹ hợp tác kinh tế hải ngoại Thái Lan
SBA Cục quản lý kinh doanh nhỏ của Mỹ
SDA Cơ quan phụ trách về kinh doanh nhỏ của Mỹ
SMI Chương trình phát triển thị trường chiến lược
SXKD Sản xuất kinh doanh
TMĐT Thương mại điện tử
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TPCC Ủy ban điều phối hỗ trợ thương mại Mỹ
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
TW Trung ương
UNIDO Tổ chức phát triển công nghiệp liên hiệp quốc
USD Đô la Mỹ
VCCI Phòng công nghiệp và thương mại Việt Nam
WTO Tổ chức Thương mại thế giới
XK Xuất khẩu
XNK Xuất nhập khẩu
ii
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU VÀ SƠ ĐỒ
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT ii
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU VÀ SƠ ĐỒ iv
Chương 1 6

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA VÀ 6
HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM 6
Bảng 1.1. Chỉ tiêu xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước 7
Bảng 1.2: Chỉ tiêu xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam 8
PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG DNTMNVV VÀ HỖ TRỢ
DNTMNVV Ở VIỆT NAM 41
iv
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau ba năm gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nền kinh tế Việt
Nam đã được nâng lên một vị thế mới. Có được sự thành công như hiện nay không
thể không kể đến sự đóng góp của các doanh nghiệp nhỏ và vừa mà phần lớn là các
doanh nghiệp thương mại nhỏ và vừa (DNTMNVV) (46%). DNTMNVV được
đánh giá là năng động hoạt động có hiệu quả, đóng góp vào tổng sản phẩm quốc
dân khoảng 14%, và sử dụng khoảng 12% lực lượng lao động của cả nước. Đây là
bộ phận có vai trò quan trọng trong quá trình phân phối, lưu thông hàng hoá, cung
ứng dịch vụ, và đặc biệt hơn cả là vai trò dẫn dắt các doanh nghiệp tham gia quá
trình phát triển kinh tế xã hội. DNTMNVV còn là tiền thân của quá trình tích tụ tập
trung vốn, trở thành những công ty, tập đoàn kinh tế lớn cho nền kinh tế trong t-
ương lai, đây là bộ phận kinh tế quan trọng trong nền kinh tế hội nhập [41].
Tuy nhiên trong môi trường kinh doanh cạnh tranh mạnh mẽ của nền kinh tế
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập hiện nay, các DNTMNVV đang phải đối
mặt với rất nhiều khó khăn như thiếu vốn, thiếu mặt bằng kinh doanh, thiếu nguồn
hàng, thiếu nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, cơ sở hạ tầng phục vụ
thương mại còn yếu kém, thiếu thông tin về thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh
tranh …. Điều đó cho thấy rằng các DNTMNVV có khả năng cạnh tranh rất yếu
trong khi các doanh nghiệp thương mại lớn thường tiền thân là các doanh nghiệp
Thương mại Nhà nước, có rất nhiều ưu thế trong cạnh tranh như vốn lớn, được sở
hữu những vị trí mặt bằng thuận tiện trong kinh doanh thương mại, có nguồn nhân
lực dồi dào, vv

Quá trình hội nhập mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam trong những năm
qua, đặc biệt là từ khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế
giới WTO, để thực thi các cam kết WTO, Chính phủ Việt Nam đang dần phải rỡ bỏ
các quy định cản trở các doanh nghiệp Thương mại nước ngoài tham gia thị trường
Việt Nam. Bên cạnh đó, việc cắt giảm thuế nhập khẩu hàng hóa theo lộ trình AFTA
tạo điều kiện cho hàng hóa nhập khẩu với mẫu mã đẹp, chất lượng cao tràn vào thị
trường Việt Nam. Điều đó đã tạo cho các DNTMNVV - những DN kinh doanh 86%
1
hàng sản xuất trong nước - sức ép rất lớn trong hoạt động kinh doanh trên thị trường
trong nước, khu vực và quốc tế [41], [80].
Hiện nay DNTMNVV đang hoạt động dựa trên các chính sách chung khuyến
khích phát triển khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa mà chủ yếu hỗ trợ cho khu vực
doanh nghiệp sản xuất. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, giải pháp hỗ trợ
cần thiết và hiệu quả nhất hiện nay là việc ban hành, thực thi các chính sách tác
động trực tiếp đến DNTMNVV, tạo điều kiện để DNTMNVV phát triển.
Nhìn trên tổng thể, so với các nước trong khu vực và trên thế giới, sự hình
thành và phát triển của các DNTMNVV Việt Nam trong thời gian qua còn có nhiều
bất cập, phần lớn là do tự thân các DN mò mẫm, tự phát tìm hướng đi cho DN
mình. Cả Nhà nước và DN còn thiếu những giải pháp đồng bộ, phù hợp với điều
kiện thực tế Việt Nam. Nhận thức tầm quan trọng, hiểu biết về đặc điểm loại hình,
mô hình DNTMNVV …vv còn không ít bất cập. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên
nhân, trong đó có nguyên nhân rất quan trọng đó là chúng ta còn thiếu những
nghiên cứu, tổng kết mang tính toàn diện, khoa học về DNTMNVV và xu hướng
phát triển của khu vực DN này để làm cơ sở cho việc đề ra các định hướng và giải
pháp hỗ trợ phát triển DNTMNVV ở Việt Nam.
Vì vậy việc đặt vấn đề nghiên cứu đề tài: “Giải pháp hỗ trợ DNTMNVV ở
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” là rất cấp thiết trong thời điểm
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về doanh nghiệp nói

chung, DNNVV nói riêng, nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu toàn diện
về DNTMNVV được công bố. Ở một góc độ nhất định, liên quan đến vấn đề này có
thể kể đến các công trình trong nước có liên quan như sau:
GS.TS Nguyễn Đình Hương với cuốn sách “Giải pháp phát triển DNNVV ở
Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia năm 2002, đã đưa ra những vấn đề cơ bản về
phát triển các DNNVV trong nền kinh tế thị trường, phân tích thực trạng và những
giải pháp phát triển DNNVV ở Việt Nam.
GS.TS Nguyễn Cúc với cuốn sách “Đổi mới cơ chế chính sách hỗ trợ phát
triển DNNVV ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia năm 2000, đã phân tích thực
2
trạng các chính sách hỗ trợ DNNVV, từ đó đề xuất một số điều kiện để phát triển
DNNVV ở Việt Nam.
TS. Phạm Thúy Hồng với đề tài “Chiến lược cạnh tranh cho các DNNVV ở
Việt Nam hiện nay”, Nxb. Chính trị quốc gia năm 2004, đã phân tích thực trạng
chiến lược cạnh tranh của các DNNVV ở Việt Nam, đề ra giải pháp, kiến nghị cho
các DNNVV trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
TS. Chu Thị Thủy với luận văn Tiến sĩ kinh tế “Một số giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh của DNNVV Việt Nam”, đã đi sâu nghiên cứu
những vấn đề bên trong hoạt động của DN để phát triển các DN bằng cách nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn, tiết kiệm chi phí, tăng doanh thu.
TS. Phạm Văn Hồng với luận văn Tiến sĩ kinh tế “Phát triển DNNVV ở Việt
Nam trong quá trình hội nhập quốc tế” đã đi sâu phân tích lý luận về DNNVV, cơ
hội và thách thức của các DNNVV, đề ra một số giải pháp phát triển DNNVV Việt
Nam.
TS. Lê Xuân Trường với Luận văn Tiến sĩ kinh tế “Chính sách thuế với việc
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành Công nghiệp Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” đã đề cập riêng đến tác động, ảnh hưởng
của chính sách thuế đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp và
đề ra những giải pháp trong phạm vi về chính sách thuế.
TS. Phạm Hữu Thìn với Luận văn Tiến sĩ kinh tế “Giải pháp phát triển các

loại hình tổ chức bán lẻ văn minh hiện đại ở Việt Nam” đã phân tích thực trạng sự
hình thành, phát triển các loại hình bán lẻ ở Việt Nam từ đó đã đề xuất các nhóm
giải pháp phát triển các loại hình tổ chức bán lẻ văn minh hiện đại ở Việt Nam.
Dự án điều tra thực trạng các doanh nghiệp bán lẻ của Việt Nam hiện nay khi
Việt Nam mở cửa thị trường phân phối của Viện Nghiên cứu Thương mại đã đi sâu
phân tích thực trạng hoạt động và môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp bán
lẻ Việt Nam hiện nay và đề xuất các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh cho các
doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong điều kiện Việt Nam mở cửa thị trường phân
phối.
3
Ngoài ra còn nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí, các bài tham luận
tại hội thảo trong nước và quốc tế đề cập đến sự phát triển DNNVV, doanh nghiệp
tư nhân trong lĩnh vực Thương mại …vv với nhiều nội dung khác nhau.
Ở ngoài nước, các DNNVV đã ra đời và phát triển cách đây nhiều thập kỷ.
Hiện có một số tài liệu và thông tin liên quan thu thập được qua học tập, nghiên cứu
có liên quan đến DNTMNVV Việt Nam nhưng cũng chưa thấy có công trình nghiên
cứu toàn diện nào về DNTMNVV ở Việt Nam.
Vì vậy việc nghiên cứu về DNTMNVV và các chính sách hỗ trợ
DNTMNVV rất cần được nghiên cứu, hệ thống hoá, hoàn thiện các chính sách hỗ
trợ một cách chính thức trong điều kiện thực tiễn Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về
DNTMNVV, hỗ trợ bằng chính sách cho DNTMNVV ở Việt Nam trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, đánh giá thực trạng các DNTMNVV, các chính
sách hỗ trợ DNTMNVV hiện nay từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp
nhằm hỗ trợ DNTMNVV trong thời gian tới. Để đạt được mục đích trên, luận văn
cần giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa và làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về DNTMNVV,
chính sách hỗ trợ DNTMNVV.
- Phân tích và đánh giá thực trạng DNTMNVV, các chính sách hỗ trợ

DNTMNVV ở Việt Nam, tìm ra những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân để xác
lập cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất giải pháp.
- Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp đồng bộ nhằm hỗ trợ DNTMNVV ở
Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là DNTMNVV và chính sách hỗ trợ
DNTMNVV ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chủ yếu tiếp cận trên góc độ vĩ mô, nghiên
cứu, đánh giá thực trạng hoạt động của DNTMNVV và chính sách hỗ trợ
DNTMNVV ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2009 và định hướng đến
năm 2020.
4
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê;
- Phương pháp khảo sát và phân tích số liệu;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp phân tích;
- Phương pháp chuyên gia.
6. Những đóng góp của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu tổng quan các công trình khoa học trong và ngoài
nước, từ đó làm rõ nội dung chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với các
DNTMNVV. Từ việc ban hành, triển khai, sửa đổi đến ảnh hưởng các chính sách
hỗ trợ của nhà nước đến các DNTMNVV trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Luận văn đã tập trung phân tích, đánh giá thực trạng điều kiện hoạt động
kinh doanh của các DNTMNVV trong những năm qua, thực trạng sự hỗ trợ của
Nhà nước bằng các chính sách đối với các DNTMNVV; các kết quả đánh giá, phân
tích đều dựa trên các nguồn số liệu tin cậy, từ đó chỉ ra được những hạn chế, yếu
kém trong việc thực thi các chính sách về hỗ trợ DNTMNVV trong điều kiện đáp
ứng các yêu cầu hội nhập quốc tế.
Kết quả nghiên cứu, đánh giá này là cơ sở quan trọng để luận văn đưa ra hệ

thống các giải pháp nhằm hỗ trợ các DNTMNVV tồn tại và phát triển bền vững
trong môi trường kinh doanh cạnh tranh khốc liệt hiện nay. Cụ thể luận văn đã đưa
ra được sáu nhóm giải pháp hoàn thiện các chính sách hỗ trợ tạo mội trường kinh
doanh thuận lợi cho các DNTMNVV và tám giải pháp cụ thể cho các DNTMNVV.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về DNTMNVV và hỗ trợ DNTMNVV ở Việt Nam.
Chương 2: Phân tích đánh giá thực trạng DNTMNVV và hỗ trợ DNTMNVV
ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hỗ trợ DNTMNVV ở Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA VÀ
HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM
1.1. DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp thương mại nhỏ và vừa
1.1.1.1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Theo nghị định 90/2001 NĐ- CP ngày 23/1/ 2001 của Chính Phủ thì
DNNVV Việt Nam được hiểu là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, được đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng
(700.000 USD), hoặc sử dụng lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.
Khái niệm doanh nghiệp vẫn còn những điểm khác biệt nhất định giữa các
nước nhưng có thể hiểu doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế được thành lập hợp
pháp, có tên riêng, có địa điểm sản xuất kinh doanh ổn định, hoạt động kinh doanh
trên thị trường nhằm mục tiêu lợi nhuận. Để thuận tiện cho việc quản lý, hỗ trợ các
doanh nghiệp phát triển, người ta thường sử dụng tiêu thức quy mô để phân loại
doanh nghiệp. Theo tiêu thức này các doanh nghiệp được chia thành ba loại: doanh
nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ. Tuy nhiên, do có nhiều đặc

điểm giống nhau giữa doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ nên để đơn giản hoá,
nhiều nước trên thế giới (trong đó có Việt Nam) thường gộp chung hai loại hình
doanh nghiệp này thành doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc doanh nghiệp nhỏ và vừa
(tại Việt Nam, các văn bản chính thức của Chính phủ và các cơ quan Nhà nước
thống nhất cách gọi là doanh nghiệp nhỏ và vừa).
Các tiêu chí được sử dụng nhiều nhất để xác định DNNVV là vốn (hoặc tài
sản), lao động và doanh thu. Tuy nhiên, mỗi quốc gia tuỳ theo điều kiện, trình độ
phát triển cũng như các chính sách đối với DNNVV của mình mà có thể chỉ dùng
một, hai hoặc cả ba chỉ tiêu trên. Ngoài ra, tuỳ từng lĩnh vực kinh doanh mà một số
nước còn có những quy định khác nhau cho các tiêu chí.
6
Bảng 1.1. Chỉ tiêu xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước
Nước
Tiêu chí phân loại
Số lao động (người)
bình quân
Tổng giá trị
tài sản
Doanh thu/năm
Nhật Bản
<300 người đối với ngành
sản xuất
< 100 người đối với ngành
bán buôn
< 50 người đối với ngành
bán lẻ và dịch vụ
< 100 triệu JPY
(883.180 USD)
< 30 triệu JPY
(264.909 USD)

< 10 triệu JPY
(88.318 USD)
Mỹ < 500
Canada < 500
<20 triệu CAD
(19.828.000U
SD)
Indonesia < 100
< 0, 6 tỷ rupi
(63.906 U SD)
< 2 tỷ rupi
(213.020 U
SD)
Mexico < 250 < 7 triệu USD
Thái Lan < 100
< 20 triệu Baht
(654.599 U SD)
Hàn Quốc
< 300 (ngành chế tạo,
khai khoáng)
< 200 (ngành xây dựng)
< 20 (ngành dịch vụ)
Nguồn: [48]
DNNVV ở Việt Nam là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy
định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn
vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế
toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí
ưu tiên).
Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ về trợ giúp phát
triển DNNVV đã nêu định nghĩa DNNVV là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh

doanh theo quy định của pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo
quy mô tổng nguồn vốn (tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân
đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là
tiêu chí ưu tiên).
Cụ thể như sau:
- Doanh nghiệp siêu nhỏ có số lao động từ 10 người trở xuống.
7
- Doanh nghiệp nhỏ có tổng nguồn vốn từ 20 tỷ đồng trở xuống hoặc có số
lao động từ trên 10 người đến 200 người. Đối với doanh nghiệp hoạt động thương
mại và dịch vụ thì tiêu chí tổng nguồn vốn được xác định là từ 10 tỷ đồng trở
xuống, hoặc có số lao động từ trên 10 - 50 người.
- Doanh nghiệp vừa có tổng nguồn vốn từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng,
hoặc có số lao động từ trên 200 người đến 300 người. Đối với doanh nghiệp hoạt
động thương mại và dịch vụ thì tiêu chí tổng nguồn vốn được xác định là từ trên 10
tỷ đồng đến 50 tỷ đồng, hoặc có số lao động từ trên 50 người đến 100 người.
Bảng 1.2: Chỉ tiêu xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
Quy mô
Khu vực
Doanh
nghiệp siêu
nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao
động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động

I. Nông, lâm
nghiệp và
thủy sản
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến 300
người
II. Công
nghiệp và xây
dựng
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200

người đến 300
người
III. Thương
mại và dịch
vụ
10 người trở
xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
50 người
từ trên 10 tỷ
đồng đến 50
tỷ đồng
từ trên 50
người đến 100
người
Nguồn: [42]
Trong luận văn này, DNNVV được hiểu là các cơ sở sản xuất, kinh doanh
độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng ký không
quá 100 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.
1.1.1.2. Khái niệm DNTMNVV
Trong nền kinh tế thị trường, quá trình từ sản xuất đến lưu thông hàng hoá,
dịch vụ đã hình thành nên các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Loại hình doanh
nghiệp chuyên đảm bảo khâu lưu thông, phân phối hàng hoá được gọi là doanh
nghiệp thương mại. Đặc trưng cơ bản của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
thương mại khác với hoạt động của doanh nghiệp sản xuất là hoạt động này chỉ thuần
8
tuý mua để bán hàng hoá nhằm thu được lợi nhuận (theo công thức T - H - T

/
) mà
không tham gia vào sản xuất, hoặc có nhưng rất ít (theo công thức T -H - H
/
- T
/
).
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại không chỉ thuần tuý là
việc tìm mua hàng hoá ở nơi rẻ, thừa thãi để bán cho nơi đắt, thiếu mà hoạt động
này chủ yếu dựa trên yêu cầu của cả người có hàng lẫn người mua hàng, cần có sự
tham gia của người trung gian vào việc trao đổi hàng hoá để thoả mãn tốt hơn nhu
cầu của cả hai phía. Trường hợp này, doanh nghiệp thương mại hoạt động kinh
doanh trên cơ sở mua hàng hoá của người cần bán (người có nhu cầu giúp đỡ tiêu
thụ sản phẩm) để bán cho người mua (người có yêu cầu để giúp đỡ để có sản phẩm
thoả mãn nhu cầu sử dụng).
Về thực chất, hoạt động của doanh nghiệp thương mại là hoạt động dịch vụ.
Thông qua hoạt động mua - bán trên thị trường, doanh nghiệp thương mại vừa làm
dịch vụ cho người bán, vừa làm dịch vụ cho người mua và đáp ứng lợi ích của chính
mình là có lợi nhuận (bởi lợi nhuận của doanh nghiệp thương mại là từ hai nguồn
chủ yếu: khoản bớt giá của nhà sản xuất dành cho thương mại và khoản trả cho
thương mại từ người tiêu thụ). Mối quan hệ giữa doanh nghiệp thương mại với
người bán hàng (nhà sản xuất) và người mua hàng (người tiêu dùng) được thể hiện
như sau:
Quan hệ trên cho thấy doanh nghiệp thương mại chủ yếu hoạt động trên lĩnh
vực lưu thông hàng hoá, đầu tư tiền của, công sức, nguồn lực vào lĩnh vực mua -
bán hàng hoá nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực lưu
thông hàng hoá vừa có đặc điểm chung của hoạt động kinh doanh, nhưng lại có
những đặc thù riêng của lĩnh vực lưu thông hàng hoá. Các doanh nghiệp thương mại
là những trung gian quan trọng nhất nằm trong hệ thống kênh phân phối, tạo thành
các mức kênh. Các doanh nghiệp thương mại trực tiếp tham gia vào vận hành kênh

phân phối, song song với nó còn có các hoạt động kinh tế khác tạo nên dòng chảy
của kênh phân phối trên nhiều mức: dòng sở hữu, dòng vật chất (hàng hoá), dòng
thông tin, dòng giao tiếp - khuyếch trương và dòng thanh toán. Nhưng tổ chức và
quản trị kênh phân phối chủ yếu là các nhà sản xuất và các doanh nghiệp thương
Người tiêu dùngDNTMNhà sản xuất
T
/
H
T
H/H
/
9
mại. Như vậy, các doanh nghiệp thương mại có vị trí quyết định đến sự thành công
của hệ thống phân phối và vận động hàng hoá, bởi vì cạnh tranh trong nền kinh tế
thị trường ngày nay không còn ở phạm vi đơn lẻ với từng doanh nghiệp mà ở cả
phạm vi hệ thống, phạm vi kênh phân phối.
Ở khía cạnh doanh nghiệp thương mại làm dịch vụ cho nhà sản xuất có thể
thấy: Nhà sản xuất chế tạo ra sản phẩm không nhằm để thoả mãn nhu cầu của nhà
thương mại (doanh nghiệp thương mại /thương nhân). Nhà sản xuất chế tạo ra sản
phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu của thị trường. Nhà sản xuất luôn muốn và có thể
trực tiếp bán sản phẩm của mình cho người tiêu dùng cuối cùng vì có thể đạt được
lợi nhuận cao nhất từ hoạt động chế tạo do bán được sản phẩm ở mức giá cuối cùng
cao nhất là giá công bố cơ bản (giá người tiêu dùng chấp nhận trả khi mua hàng).
Nhưng, vì nhiều lý do khác nhau, không phải bán trực tiếp cho người tiêu dùng luôn
là có lợi nhất đối với người sản xuất. Trong đa số các trường hợp (phổ biến) bán
cho người tiêu dùng thông qua nhà thương mại mang lại hiệu quả lớn hơn cho nhà
sản xuất mặc dù phải chia sẻ lợi nhuận với họ.
Khi bán cho nhà thương mại, nhà sản xuất đã sử dụng các dịch vụ mà nhà
thương mại cung ứng cho mình. Nhà sản xuất đã chuyển phần lớn công việc bán
hàng (tiêu thụ sản phẩm) của mình cho nhà thương mại. Nhà sản xuất đã giao bán

hàng cho nhà thương mại để nhà thương mại tiếp tục thực hiện nốt các công đoạn
còn lại của việc bán hàng cho người tiêu dùng. Khi mua hàng của nhà sản xuất, nhà
thương mại đã đáp ứng các nhu cầu của nhà sản xuất trong kinh doanh và tiêu thụ
sản phẩm như: Giúp nhà sản xuất giải quyết một số vấn đề liên quan đến vốn kinh
doanh của họ: ứng vốn, làm tăng vòng quay vốn, ; dự trữ hàng hoá cho nhà sản
xuất khi chuyển dự trữ vào lưu thông; Tạo điều kiện cho nhà sản xuất tập trung vào
giải quyết các vấn đề thuộc chức năng chính của họ là chế tạo sản phẩm (tập trung
vào chuyên môn hoá sản xuất); Giảm chi phí và làm tăng khả năng tiêu thụ của nhà
sản xuất thông qua hiệu quả mang lại bởi sự chuyên môn hoá mua - bán của nhà
thương mại; Mở rộng thị trường tiêu thụ, làm tăng khả năng tiêu thụ hàng hoá cho
nhà sản xuất; Tiêu thụ sản phẩm cho người sản xuất,
Vì các hoạt động và lợi ích trên của nhà thương mại, nhà sản xuất chấp nhận
chia sẻ một phần lợi nhuận từ hoạt động chế tạo của mình để trả công cho họ.
10
Khoản tiền từ nhà sản xuất giành cho nhà thương mại là nguồn gốc của lợi nhuận
trong kinh doanh thương mại. Khoản tiền này thường được gọi là “chiết khấu lưu
thông” được trả dưới dạng “khoản bớt giá” của nhà sản xuất, khoản bớt giá bao gồm
cả chi phí bán hàng và lợi nhuận của nhà thương mại. Chiết khấu lưu thông hay
khoản bớt giá thực chất là tiền công dự kiến, nhà thương mại có thể nhận được mà
nhà sản xuất đã giành cho họ để tiếp tục bán hàng cho người tiêu thụ. Đó là khoản
tiền có thể có được dự kiến “đủ” để nhà thương mại trang trải chi phí và thu lợi
nhuận. Người ta có thể ước lượng (dự kiến) mức phí lý thuyết mà nhà sản xuất cần
giành cho nhà thương mại khi ký hợp đồng mua bán giữa hai bên. Nhưng, trong
điều kiện kinh tế thị trường đây là khoản phí đặc biệt, bởi đó là khoản tiền không
chắc chắn và chứa đầy rủi ro. Mức phí này vừa chứa đựng nhiều cơ hội để có lợi
nhuận, thậm chí lợi nhuận cao cho nhà thương mại, vừa tiềm ẩn những rủi ro lớn -
có thể đến mức nhà thương mại không những không có lợi nhuận, không có tiền
công mà còn có khả năng dẫn đến thua lỗ hoặc phá sản. Kinh doanh thương mại là
mối quan hệ tay ba, luôn cần có sự xuất hiện (tuy không đồng thời) của cả ba thành
phần: nhà sản xuất - nhà thương mại - người tiêu dùng. Trong điều kiện này, khoản

bớt giá của nhà sản xuất có thật sự trở thành tiền công của nhà thương mại hay
không còn phụ thuộc vào tính quyết định của người tiêu dùng.
Còn ở khía cạnh doanh nghiệp thương mại làm dịch vụ cho người tiêu dùng
lại thể hiện ở chỗ: Nhà thương mại không mua hàng của nhà sản xuất để sử dụng
vào mục đích thoả mãn nhu cầu cá nhân của mình. Họ mua hàng để bán cho người
tiêu dùng và thu được khoản bớt giá của nhà sản xuất. Khoản bớt giá mà thực chất
là phí dịch vụ của nhà sản xuất giành cho nhà thương mại đặc biệt ở chỗ: nó là
khoản tiền nhà sản xuất giành cho nhà thương mại nhưng nhà sản xuất không trả
trực tiếp. Muốn có được khoản tiền này nhà thương mại phải thoả mãn tốt nhu cầu
của người tiêu dùng để nhận được nó từ người tiêu dùng. Người tiêu dùng là người
trả tiền cho khoản bớt giá của nhà sản xuất. Vì lý do đó, nhà thương mại sẽ không
chịu mạo hiểm làm dịch vụ cho nhà sản xuất nếu không có người tiêu dùng cần mua
hàng hoá đó. Cơ hội và rủi ro của nhà thương mại tuỳ thuộc vào quyết định cuối
cùng của người tiêu dùng.
11
Như vậy, trên thực tế mặc dù nguồn gốc lợi nhuận của nhà thương mại là từ
nhà sản xuất, nhưng chính người tiêu dùng với tư cách là người trả tiền mới là
người quyết định sự thành công hay thất bại, có hay không có lợi nhuận trong kinh
doanh của nhà thương mại.
Khi người tiêu dùng mua hàng của nhà thương mại về thực chất họ đã chấp
nhận dịch vụ của nhà thương mại cung ứng cho họ. Người tiêu dùng mua hàng để
thoả mãn nhu cầu sử dụng của chính họ. Khi quyết định mua hàng để thoả mãn nhu
cầu họ cần được đáp ứng một cách đồng bộ các dạng có ích cần thiết: đúng dạng có
ích; đúng thời gian có ích; đúng địa điểm có ích; đúng tài sản có ích.
Trong nền kinh tế, do nhiều nguyên nhân khách quan, sản xuất và tiêu dùng
không thể trùng khớp với nhau giữa thời gian, địa điểm sản xuất và tiêu dùng cũng
như một loạt các yếu tố khác của sản xuất và tiêu dùng. Những yếu tố này hạn chế
khả năng mua hàng trực tiếp từ nhà sản xuất của người tiêu dùng. Mua hàng trực
tiếp từ nhà sản xuất trong nhiều trường hợp không có hiệu quả thoả mãn nhu cầu
bằng mua hàng gián tiếp qua nhà thương mại. Trong trường hợp này, để thoả mãn

nhu cầu của mình người tiêu dùng cần đến sự “giúp đỡ” - dịch vụ mà nhà thương
mại cung ứng cho họ. Họ chấp nhận hoạt động kinh doanh của nhà thương mại và
chấp nhận trả tiền công cho hoạt động đó - trả khoản bớt giá dự kiến của nhà sản
xuất cho nhà thương mại.
Hàng hoá mà người tiêu dùng nhận được (mua) từ nhà thương mại không chỉ
là sản phẩm hiện vật. Cái mà người tiêu dùng nhận được luôn bao gồm sản phẩm
hiện vật và dịch vụ [61].

Trong kinh doanh thương mại, không nên hiểu sản phẩm của doanh nghiệp
thương mại là các sản phẩm vật chất mà họ đang đưa ra bán ở thị trường. Đó là sản
phẩm của nhà sản xuất đã chế tạo ra nó. Sản phẩm của nhà thương mại mặc dù luôn
Hàng hoá người tiêu
dùng nhận được từ nhà
thương mại
Sản phẩm được chế tạo
bởi nhà sản xuất
Sản phẩm của nhà
thương mại (dịch vụ)
Đòi hỏi thoả mãn nhu cầu
đồng bộ - đáp ứng cơ sở
kinh tế có ích của người
tiêu dùng
Sản phẩm của nhà sản xuất
sự đáp ứng người tiêu dùng
của nhà sản xuất
Dịch vụ của nhà thương
mại đáp ứng cho người
tiêu dùng
+
=

12
gắn chặt với hàng hoá hiện vật mà họ buôn bán nhưng thực chất chỉ gồm các dịch
vụ mà họ đáp ứng cho cả nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng.
Sản phẩm của doanh nghiệp thương mại là tập hợp các dịch vụ đồng bộ, đa
dạng mà nhà thương mại đã thực hiện để thoả mãn nhu cầu bán hàng của nhà sản
xuất và mua hàng của người tiêu dùng. Nó có thể gồm một hoặc một tập hợp các
dịch vụ trong thương mại. Thông thường, các dịch vụ đó được thể hiện qua một loạt
các hoạt động tác nghiệp trong kinh doanh của doanh nghiệp thương mại [61].
+ Tìm kiếm và nghiên cứu các sản phẩm đã được chế tạo bởi các nhà sản
xuất khác nhau để đánh giá, lựa chọn những sản phẩm hiện vật có khả năng đáp ứng
tốt nhất nhu cầu của nhóm khách hàng tiềm năng mà doanh nghiệp muốn phục vụ
(giúp người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm hiện vật).
+ Thay mặt “khách hàng tiềm năng của mình đặt hàng hoặc mua hàng chuẩn
bị trước cho sự thoả mãn nhu cầu của họ (mua hàng hộ).
+ Tổ chức vận chuyển hàng hoá từ cơ sở của nhà sản xuất đến địa điểm có
ích của người tiêu dùng (dịch vụ vận chuyển)
+ Tổ chức dự trữ hàng hoá để đáp ứng đúng thời gian có ích của người tiêu
dùng (dự trữ hộ)
+ Tổ chức phân loại, đóng gói, bảo quản, đồng bộ hoá, hàng hoá để thoả
mãn tốt nhất nhu cầu cá biệt của từng cá nhân hoặc tổ chức tiêu dùng.
+ Đáp ứng các nhu cầu tài chính, vốn, cho người tiêu dùng.
+ Đáp ứng các thông tin cần thiết phục vụ cho việc mua và sử dụng sản
phẩm thông qua giới thiệu, tư vấn giảm khó khăn và tạo sự tiện lợi khi mua hàng,
tiết kiệm thời gian mua hàng, an toàn hoá việc mua hàng,
+ Tự chấp nhận gánh chịu rủi ro có thể xảy ra khi mua và dự trữ hàng hoá
chờ đáp ứng nhu cầu đồng bộ của người tiêu dùng. Nhà thương mại chỉ có thể dự
đoán “người tiêu dùng có thể mua” nhưng điều đó lại không chắc chắn. Nhu cầu
của người tiêu dùng cần sự giúp đỡ của nhà thương mại để thỏa mãn một cách tốt
nhất, nhà thương mại cần chuẩn bị trước các dịch vụ cho mình để sẵn sàng phục vụ
người tiêu dùng. Nhưng người tiêu dùng có thể và có quyền tuyệt đối khi không

chấp nhận hàng hoá và dịch vụ mà nhà thương mại đã chuẩn bị cho họ. Sự không
đồng nhất giữa sự chuẩn bị của nhà thương mại và quyết định cuối cùng của người
13
tiêu dùng sẽ dẫn đến rủi ro hay may mắn của nhà thương mại theo xu hướng vận
động của quy luật cung - cầu trên thị trường.
Như vậy, hoạt động dịch vụ làm trung gian cho cả nhà sản xuất và người tiêu
dùng là hoạt động chủ yếu tạo ra cơ hội và khai thác cơ hội trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp thương mại.
Hiện nay, trong thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh ở hầu hết các nước
trên thế giới, đặc biệt là với mục đích tăng trưởng nhanh nền kinh tế dưới sự trợ
giúp đắc lực của khoa học kỹ thuật hiện đại và công nghệ tiên tiến đã dẫn tới trình
độ chuyên môn hóa ngày càng cao, phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc,
đi đôi với quá trình quốc tế hóa diễn ra ngày càng sâu rộng, thì hình ảnh và quy mô
khổng lồ của các công ty xuyên quốc gia không còn xa lạ gì đối với chúng ta nữa.
Ngay trong nội bộ của một ngành, một công ty, một hãng, hay nói chung một doanh
nghiệp không chỉ diễn ra đơn thuần một loại nhiệm vụ nhất định mà có thể vừa làm
nhiệm vụ trực tiếp sản xuất ra hàng hóa dịch vụ, đồng thời vừa làm nhiệm vụ trao
đổi và lưu thông hàng hóa. Nghĩa là không chỉ có loại doanh nghiệp chuyên môn
tiến hành hoạt động thương mại thuần túy mà xuất hiện ngày càng nhiều các doanh
nghiệp đa chức năng.
Ngay cả ở nước ta, trong các hiệp định thương mại mà Việt Nam đã ký kết,
khái niệm thương mại bao hàm: thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, những
vấn đề đầu tư có liên quan đến thương mại và sở hữu trí tuệ. Sự phát triển về loại
hình, cấu trúc tổ chức và phương thức quản trị doanh nghiệp cũng có nhiều sự thay
đổi, do đó khái niệm “doanh nghiệp thương mại” cũng chỉ có tính chất tương đối.
Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu có thể hiểu: Doanh nghiệp thương mại là một tổ
chức kinh tế được thành lập với mục đích chủ yếu là tiến hành các hoạt động
thương mại.
Do đó, DNTMNVV là các doanh nghiệp bảo đảm cả hai tiêu chí sau:
(1) Là doanh nghiệp có tỷ trọng doanh thu từ hoạt động thương mại chiếm

trên 50% trong tổng doanh thu của doanh nghiệp;
(2) Là doanh nghiệp có nguồn vốn dưới 50 tỷ đồng và sử dụng dưới 100 lao
động.
1.1.2. Đặc điểm của DNTMNVV
14
Như đã trình bày ở trên, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại
không chỉ thuần tuý là việc tìm mua hàng hoá ở nơi rẻ để bán ở chỗ đắt hoặc mua
của người thừa để bán cho người thiếu (cần) như một số người vẫn quan niệm, mà
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại chủ yếu dựa trên yêu cầu của
cả người có hàng lẫn người mua hàng, cần có sự tham gia của người trung gian vào
việc trao đổi hàng hoá để thoả mãn tốt hơn nhu cầu của cả hai phía. Trường hợp
này, doanh nghiệp thương mại hoạt động kinh doanh trên cơ sở mua hàng hoá của
người cần bán (người có nhu cầu giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm) để bán cho người mua
(người có yêu cầu để giúp đỡ để có sản phẩm thoả mãn nhu cầu sử dụng). Điều này
chứng tỏ, thực chất hoạt động của doanh nghiệp thương mại là hoạt động dịch vụ;
do đó, chúng ta có thể hiểu doanh nghiệp thương mại là doanh nghiệp dịch vụ (mặc
dù, dịch vụ của doanh nghiệp thương mại luôn gắn liền với hàng hóa hiện vật).
So với các loại hình doanh nghiệp sản xuất, các doanh nghiệp thương mại có
các đặc trưng sau [66].
Thứ nhất, đối tượng lao động của các doanh nghiệp thương mại là các sản
phẩm hàng hóa hoàn chỉnh, nhiệm vụ của các doanh nghiệp thương mại không phải
là tạo ra các giá trị sử dụng và giá trị mới mà là thực hiện giá trị. Đây được coi là
điểm rất khác biệt giữa doanh nghiệp thương mại so với doanh nghiệp khác.
Thứ hai, hoạt động của doanh nghiệp thương mại giống như các doanh
nghiệp khác bao gồm các quá trình kinh tế, tổ chức kỹ thuật, nhưng mặt kinh tế là
chủ yếu. Trong doanh nghiệp thương mại nhân vật trung tâm là khách hàng. Mọi
hoạt động của doanh nghiệp đều tập trung và hướng tới khách hàng, tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho họ thỏa mãn nhu cầu. Trong khi đó, mọi hoạt động của các doanh
nghiệp sản xuất đều hướng tới và phục vụ cho người lao động (giảm nhẹ cường độ
lao động, đảm bảo an toàn lao động…) và sản phẩm (đảm bảo chất lượng, tiết kiệm

nguyên vật liệu, sáng tạo ra sản phẩm mới…).
Thứ ba, do khách hàng - nhân vật trung tâm trong doanh nghiệp thương mại -
có nhu cầu rất đa dạng và do mọi hoạt động của doanh nghiệp thương mại đều
hướng tới khách hàng, nên việc phân công chuyên môn hóa trong nội bộ từng doanh
nghiệp cũng như giữa các doanh nghiệp thương mại bị hạn chế hơn so với các
doanh nghiệp sản xuất.
15
Thứ tư, doanh nghiệp thương mại có đặc thù liên kết “tất yếu” với nhau hình
thành nên ngành kinh tế kỹ thuật, xét trên góc độ kỹ thuật tương đối lỏng lẻo, nhưng
lại rất chặt chẽ trên góc độ kinh tế - xã hội và do đó tồn tại những luật (thành văn và
bất thành văn) được thừa nhận và tôn trọng. Đó chính là nói tới tính chất phường
hội kinh doanh rất chặt chẽ của hoạt động thương mại.
Từ các đặc trưng này, ta thấy sự khác biệt về bản chất của các doanh nghiệp
thương mại so với các doanh nghiệp sản xuất đó là tính đa dạng của các hoạt động,
ngoài các hoạt động có đặc tính công nghệ và quản trị hậu cần (phân loại, chỉnh lý,
bao gói, tái chế, bảo quản, vận chuyển, ), còn bao hàm một hỗn hợp phức tạp, linh
hoạt và nhạy cảm của các hoạt động có đặc trưng tổ chức và quản trị thương mại để
xác định, lựa chọn, xâm nhập, khai thác và phát triển tiềm năng thị trường. Đồng
thời, vì những khác biệt về chức năng tác nghiệp nên hoạt động của các doanh
nghiệp thương mại sẽ liên quan đến các quá trình có đặc trưng tiếp thị, marketing
thương mại như: nghiên cứu marketing, tổ chức kênh, mạng phân phối, tổ chức vận
hành hàng hóa từ sản xuất đến tiêu dùng, tạo lập và định vị mặt hàng kinh doanh, tổ
chức chào hàng và chiêu khách, xúc tiến thương mại cho đến việc xác định các
phương pháp, công nghệ bán cũng như quản trị bán hàng…. Tóm lại, hoạt động của
doanh nghiệp thương mại rất sinh động, đa dạng và toàn diện.
Xu hướng đang phát triển là các doanh nghiệp thương mại có quan hệ chặt
chẽ, xâm nhập vào các doanh nghiệp sản xuất và các doanh nghiệp dịch vụ dưới
hình thức đầu tư vốn cho sản xuất, đặt hàng với sản xuất, kết hợp thực hiện các dịch
vụ trong và sau bán hàng. Tất cả những công việc đó đều nhằm cho người tiêu dùng
được thoả mãn tối đa nhu cầu của mình, giúp cho họ có ấn tượng tốt đẹp và tiến tới

“phụ thuộc” vào doanh nghiệp thương mại của mình.
Đặc trưng cho thấy sự khác biệt về bản chất của các doanh nghiệp thương
mại so với các doanh nghiệp sản xuất, đó là tính đa dạng của các hoạt động, ngoài
các hoạt động có đặc tính công nghệ và quản trị hậu cần (phân loại, chỉnh lý, bao
gói, tái chế, bảo quản, vận chuyển, ), còn bao hàm một hỗn hợp phức tạp, linh hoạt
và nhạy cảm của các hoạt động có đặc trưng tổ chức và quản trị thương mại để xác
định, lựa chọn, xâm nhập, khai thác và phát triển tiềm năng thị trường.
16
Ngoài những đặc trưng của doanh nghiệp thương mại nói chung,
DNTMNVV có những đặc điểm nhất định trong quá trình hình thành và phát triển.
Có thể nhận thấy DNTMNVV có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, tính dễ khởi sự. Luật Doanh nghiệp hiện nay áp dụng đối với các
ngành nghề kinh doanh không có điều kiện cũng không qui định mức vốn pháp định
bắt buộc khi khởi sự doanh nghiệp. Luật cũng không qui định số lượng lao động tối
thiểu khi cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp. Cùng với môi trường kinh doanh
đang được cải thiện thì số lượng các DNTMNVV đăng ký mới gia tăng nhanh
chóng. Trong một chừng mực nhất định, khi việc thực thi các qui định về phá sản và
giải thể doanh nghiệp chưa thuận lợi nên một số DNTMNVV thay vì rút lui khỏi thị
trường một cách chính thức thì chọn phương án đơn giản là ngừng hoạt động. Cũng
chính vì lý do đó nên việc thống kê số lượng các DNTMNVV đang hoạt động trên
thị trường gặp nhiều khó khăn và khó đưa ra con số chính xác.
Thứ hai là tính linh hoạt cao. Đây là đặc điểm gắn liền với các DNTMNVV.
Do qui mô không lớn nên đầu tư của các DNTMNVV vào các dây chuyền và máy
móc công nghệ không nhiều, chính vì lẽ đó nên sau một thời gian hoạt động nếu
nhận thấy một ngành, hay một mặt hàng kinh doanh nào đó không có lời thì lập tức
các DNTMNVV sẽ chuyển hướng sang các mặt hàng và dịch vụ hiệu quả hơn. Một
số DNTMNVV sau một thời gian khẳng định được uy tín và thương hiệu đã tiến
hành các biện pháp tích luỹ vốn và mở rộng qui mô để trở thành các doanh nghiệp
lớn. Tuy nhiên nhiều chủ DNTMNVV bằng lòng với qui mô của doanh nghiệp
mình và thể hiện tính linh hoạt cao để khẳng định vị trí trên thương trường. Nếu

như các doanh nghiệp lớn chuyên kinh doanh một số sản phẩm hoặc dịch vụ nhất
định thì khi gặp suy thoái hoặc các tác động bất lợi từ bên ngoài thì sẽ rất khó xoay
xở.
Thứ ba là tính linh hoạt trong cạnh tranh. Với xuất phát điểm là khả năng dễ
tham gia vào thị trường cũng như rút khỏi thị trường. Trong các chuỗi giá trị ngành
hàng thì các DNTMNVV có thể khá dễ dàng tìm cho mình phân khúc phù hợp
trong hợp tác với các doanh nghiệp lớn.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể kể đến hàng loạt các điểm yếu của các
DNTMNVV, mà khởi đầu là thiếu các nguồn lực phát triển, đặc biệt là các nguồn
17
lực về tài chính và con người. Đối với một số ngành hàng thì các DNTMNVV
không tận dụng được các lợi thế về qui mô. Còn một điểm nữa đó là sự hình thành
và phát triển của các DNTMNVV phụ thuộc nhiều vào chủ doanh nghiệp nên khó
thu hút trí tuệ tập thể trong các quyết định dài hạn và chiến lược của doanh nghiệp.
Điều này thể hiện qua cách thức đưa ra các quyết định quan trọng mang tính chiến
lược của doanh nghiệp. Tại các doanh nghiệp lớn các quyết định mang tính chiến
lược được thực hiện theo qui trình và có hệ thống, tuy nhiên tại các DNTMNVV thì
các quyết định này trong nhiều trường hợp mang nặng ý kiến chủ quan của chủ
doanh nghiệp.
1.1.3. Sự cần thiết hỗ trợ doanh nghiệp thương mại nhỏ và vừa
1.1.3.1. Vai trò của DNTMNVV trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Ở Việt Nam cũng như nhiều nước khác trên thế giới, các DNTMNVV đóng
vai trò rất quan trọng trong viêc thúc đẩy sự phát triển kinh tế và có vai trò quan
trọng trong mạng lưới sản xuất toàn cầu và chuỗi cung ứng hàng hóa và dịch vụ.
Trong điều kiện nền kinh tế Việt nam hiện nay vai trò của các DNTMNVV được
thể hiện ở các khía cạnh khác nhau:
Thứ nhất, đóng góp vào kết quả hoạt động của nền kinh tế, góp phần làm
tăng GDP. Cũng như DNTMNVV ở tất cả các nước, DNTMNVV ở Việt Nam cung
cấp ra thị trường nhiều loại hàng hóa khác nhau đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu
dùng trong nước như trang thiết bị và linh kiện cần thiết cho các ngành sản xuất

hàng tiêu dùng và các ngành thủ công nghiệp cũng như các hàng hóa tiêu dùng
khác. Theo số liệu của Tổng cục thống kê trong những năm vừa qua trung bình
hàng năm DNTMNVV đã đóng góp khoảng 12% tổng sản phẩm quốc dân (GDP)
của cả nước. Ngoài ra, DNTMNVV việt nam còn tham gia phân phối sản phẩm cho
nhiều ngành công nghiệp truyền thống thu hút nhiều lao động như giầy dép, chiếu
cói,…Việc mở rộng và phát triển các DNTMNVV sẽ góp phần không nhỏ trong
việc làm tăng GDP.
Thứ hai, thu hút vốn và các nguồn lực sẵn có trong dân cư. Vốn đầu tư là
một yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh. Vốn là yếu tố cơ bản để khai thác và
phối hợp các yếu tố khác trong kinh doanh như lao động, công nghệ và quản lý …
để tạo ra lợi nhuận. Tuy nhiên, một nghịch lý hiện nay là trong khi có nhiều DN
18
đang thiếu vốn trầm trọng thì vốn nhàn rỗi trong dân cư còn nhiều nhưng không huy
động được. Khi chính sách tài chính tín dụng của Chính phủ và các ngân hàng chưa
thực sự gây được niềm tin đối với những người có vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp
dân cư thì nhiều DNTMNVV đã tiếp xúc trực tiếp với người dân và huy động được
vốn để kinh doanh, hoặc bản thân chính người có tiền đứng ra đầu tư kinh doanh,
thành lập DN. Dưới khía cạnh đó, DNTMNVV có vai trò to lớn trong việc huy
động vốn để phát triển kinh tế.
Thứ ba, giúp nền kinh tế phát triển ổn định và hiệu quả hơn. Trong quá trình
kinh doanh, nhiều DNTMNVV có thể hỗ trợ cho các DN lớn kinh doanh một cách
hiệu quả hơn như làm đại lý và vệ tinh cho các DN lớn, cung cấp những bán thành
phẩm hay nguyên liệu đầu vào cho DN lớn hoặc thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị
trường mà DN lớn khó có thể với tới để phân phối các sản phẩm của DN lớn. Bên
cạnh đó, khi số DNTMNVV tăng lên sẽ kéo theo sự gia tăng nhanh chóng cung cấp
số lượng các sản phẩm và dịch vụ mới trong nền kinh tế. Nhờ hoạt động với quy mô
nhỏ và vừa, các DNTMNVV có ưu thế là chuyển hướng kinh doanh nhanh từ
những mặt hàng này sang các mặt hàng khác, thỏa mãn nhu cầu linh hoạt của dân
cư. Chính sự phát triển đó của các DNTMNVV đã làm tăng tính cạnh tranh, tính
linh hoạt và làm giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế.

Thứ tư, góp phần tăng cường và phát triển các mối quan hệ kinh tế. Các
DNTMNVV hình thành và phát triển kinh doanh trong những ngành nghề khác
nhau luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau và có mối liên kết với các DN lớn.
Nhiều DN nhỏ khi mới ra đời chỉ nhằm mục đích làm vệ tinh cung cấp các sản
phẩm cho các DN lớn. Mối quan hệ giữa DNTMNVV và các DN lớn cũng chính là
nguyên nhân thành công của nền kinh tế Nhật Bản trong nhiều thập kỷ qua. Do đó,
khi các DNTMNVV Việt Nam phát triển sẽ góp phần tăng cường các mối quan hệ
liên kết lẫn nhau giữa các DNTMNVV và giữa các DNTMNVV với các DN lớn.
Nhờ đó mà các rủi ro kinh doanh sẽ được chia sẻ và góp phần tăng hiệu quả kinh tế
xã hội chung.
Thứ năm, tạo cơ sở để hình thành các DN lớn. Kinh nghiệm phát triển kinh tế
ở nhiều nước cho thấy hiện nay phần lớn các công ty và các tập đoàn kinh tế đa
quốc gia đều trưởng thành từ các DNTMNVV. Với cách xem xét đó DNTMNVV
19
chính là nguồn tích lũy ban đầu và là “lồng ấp” cho các DN lớn. Hầu hết các cơ sở
dân doanh ỏ Việt Nam khi mới ra đời do thiếu kinh nghiệm và chưa thật hiểu biết
về thị trường nên họ thường lựa chọn quy mô kinh doanh vừa và nhỏ để bắt đầu sự
nghiệp kinh doanh. Sau một thời gian tích lũy thêm vốn, kinh nghiệm và khẳng định
được vị thế của mình trên thị trường, họ mới tiến hành mở rộng kinh doanh và phát
triển với quy mô lớn hơn. Ngoài ra, DNTMNVV còn là nơi đào tạo tay nghề và trau
dồi kinh nghiệm cho các cán bộ quản lý của các DN lớn vì người lao động thường
có xu hướng chỉ làm trong các DNTMNVV một thời gian, sau khi có đủ kinh
nghiệm và khả năng họ sẽ chuyển sang các DN lớn để làm việc, hưởng thu nhập cao
hơn. Nhờ thế, DN lớn tiết kiệm được nhiều chi phí đào tạo khi tuyển được các nhân
viên có tay nghề từ các DNTMNVV chuyển sang. Như vậy có thể các DNTMNVV
còn là nơi đào tạo lao động cho các DN lớn.
Thứ sáu, tạo việc làm cho người lao động, góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp.
Đặc điểm chung của các DNTMNVV là ít vốn và sử dụng nhiều lao động. Do đó,
DNTMNVV ở tất cả các nước có thể tạo công ăn việc làm cho một số lượng lớn
người lao động. Ở nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển, DNTMNVV

là nơi tạo ra nhiều việc làm nhất. Khi các DNTMNVV phát triển sẽ tạo nhiều cơ hội
tăng việc làm, thu hút lao động và giảm tỉ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế, qua đó
góp phần giải quyết các vấn đề xã hội mang lại lợi ích cho cộng đồng dân cư kể cả
người thất nghiệp, phụ nữ và người tàn tật. Với tính chất kinh doanh nhỏ, chi phí để
tạo ra một chỗ làm việc thấp, các DNTMNVV Việt Nam có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc tạo ra và tăng thêm việc làm cho nền kinh tế, góp phần giảm tỉ lệ
thất nghiệp và ổn định xã hội bằng cách thu hút nhiều lao động với chi phí thấp và
chủ yếu bằng vốn của dân.
Thứ bảy, nâng cao thu nhập của dân cư góp phần xóa đói giảm nghèo, thực
hiện công bằng xã hội. Việt Nam là một nước nông nghiệp, năng suất của một nền
sản xuất xã hội cũng như thu nhập của dân cư thấp. Thu nhập của dân cư nông thôn
chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp thuần nông. Việc phát triển các DNTMNVV ở
thành thị cũng như ở nông thôn là một trong những biện pháp cơ bản góp phần tăng
nhanh thu nhập của các tầng lớp dân cư. Thông qua việc phát triển các
DNTMNVV, lao động ở nông thôn sẽ được thu hút vào các DN nhờ đó mà thu nhập
20
của dân cư được đa dạng hóa và nâng cao. Cuộc sống của người dân nông thôn sẽ
ổn định hơn và mức sống của dân cư sẽ được nâng cao góp phần xóa đói giảm
nghèo, giảm khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và tăng mức độ
công bằng trong nền kinh tế. Hơn nữa, do có tính năng động và linh hoạt, khi các
DNTMNVV phát triển sẽ góp phần giúp phát triển các ngành sản xuất truyền thống
ở địa phương.
Thứ tám, tạo điều kiện phát triển các tài năng kinh doanh. Ngoài các vai trò
như đã nói ở trên, các DNTMNVV còn có vai trò trong việc phát triển các tài năng
kinh doanh. Trong nhiều năm qua, đội ngũ cán bộ kinh doanh đã gắn nhiều với cơ
chế bao cấp, chưa có kinh nghiệm làm việc trong nền kinh tế thị trường. Sự phát
triển của các DNTMNVV có tác dụng đào tạo, chọn lọc và thử thách đội ngũ doanh
nhân. Sự ra đời của các DNTMNVV làm xuất hiện rất nhiều tài năng kinh doạnh,
đó là các doanh nhân thành đạt biết cách làm giàu cho bản thân mình và xã hội.
Bằng sự tôn vinh những doanh nhân giỏi, kinh nghiệm quản lý của họ sẽ được nhân

ra và truyền bá tới nhiều cá nhân trong xã hội dưới nhiều kênh thông tin khác nhau,
qua đó sẽ tạo ra nhiều tài năng mới cho đất nước. Với khía cạnh như vậy,
DNTMNVV có vai trò không nhỏ trong việc đào tạo lớp doanh nhân mới ở Việt
Nam cũng như các nước trên thế giới.
1.1.3.2. Những khó khăn, thách thức do chính sự hạn chế của
DNTMNVV Việt Nam
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay các DNTMNVV chiếm số lượng đáng
kể trong tổng số DN của cả nước, thu hút được rất nhiều lao động của xã hội, có rất
nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển và đa dạng hóa ngành hàng, mặt hàng và thị
trường, nhưng đồng thời cũng có rất nhiều khó khăn và hạn chế khi tham gia nền
kinh tế đang trong quá trình hội nhập hiện nay. Những khó khăn và hạn chế đó cụ
thể như sau:
Một là, DNTMNVV hạn chế về vốn và khả năng tiếp cận với các nguồn tín
dụng. Khác với các DN lớn, những quy định chặt chẽ về việc tiếp cận các nguồn tài
chính cần thiết cho sản xuất kinh doanh thực sự gây khó khăn cho các DNTMNVV.
Các pháp lý tài chính, tín dụng, thường xem các DNTMNVV là nhưng con nợ rủi ro
cao. Hơn nữa giữa các DNTMNVV và các tổ chức tài chính ngân hàng thường
21

×