Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Tăng cường huy động vốn tại công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Phúc Tiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.58 KB, 95 trang )

LỜI CẢM ƠN
Với nội dung đề tài nghiên cứu: “ Tăng cường huy động vốn tại công ty
Cổ phần Sản xuất và Thương mại Phúc Tiến”, trong bối cảnh từ năm 2009
đến tháng 6 năm 2012, khi nền kinh tế gặp không ít khó khăn đặc biệt là các
doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với nhiều sóng gió trong quá trình khôi
phục và phát triển kinh tế. Theo hướng tiếp cận của đề tài, tác giả đã có thời
gian dài nghiên cứu và trang bị thêm nhiều kiến thức về cách viết, cách nhìn
nhận, đánh giá và giải quyết những vấn đề trong thực trạng huy động vốn của
Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Phúc Tiến.
Để có được những kết quả này, tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy
cô của Viện Ngân Hàng – Tài chính đã giúp tôi có kiến thức vững vàng về
Ngân hàng tài chính cũng như những đóng góp quý báu trong thời gian xây
dựng và hoàn thành luận văn. Tác giả xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn
tận tình với những kiến thức chuyên sâu, định hướng và lập luận sâu sắc của
TS.Đoàn Phương Thảo, đã giúp tôi lĩnh hội, tiếp thu kiến thức và phương
pháp cần thiết trong quá trình nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công nhân
viên Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Phúc Tiến đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Và cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể những người thân: gia
đình, bạn bè, các đồng nghiệp, đã luôn động viên, khích lệ và tạo mọi điều
kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài này cũng như trong suốt
quá trình học tập.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2012
Học viên

Nguyễn Thị Thuỷ
MỤC LỤC
2
DANH MỤC BẢNG


Bảng 2.1 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty.
Trang 36
Bảng 2.2 Nguồn vốn hoạt động 39
Bảng 2.3 Thay đổi vốn điều lệ qua các năm 43
Bảng 2.4 Cơ cấu vốn vay 47
Bảng 2.5 Chi tiết vay ngắn hạn ngân hàng 49
Bảng 2.6 Tỷ trọng tín dụng thương mại trong tổng
nguồn vốn vay
51
Bảng 2.7 Quy mô nguồn vốn vay qua các năm 53
Bảng 2.8 Các chỉ tiêu tài chính chủ yếu 54
Bảng 2.9 Chi phí huy động vốn 56
Bảng 3.1 Nhu cầu vốn giai đoạn 2013-2020 64
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 Cơ cấu nguồn vốn Trang 45
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1 Tổ chức của công ty Trang 32
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Vốn luôn là yếu tố được đặt lên hàng đầu đối với các doanh nghiệp khi
bắt đầu hoạt động sản xuất, kinh doanh. Do vậy, việc lựa chọn hình thức huy
động vốn hiệu quả đóng vai trò quyết định đến thành công của dự án kinh
doanh nói riêng và sự phát triển của doanh nghiệp nói chung.
Trong những năm gần đây, sự khủng hoảng, trì trệ của nền kinh tế thế
giới đã dẫn đến sự suy thoái nghiêm trọng cho nền kinh tế nước ta. Sản xuất
kinh doanh gặp nhiều khó khăn, các Ngân hàng thương mại dưới sự chỉ đạo
của Ngân hàng Nhà nước đã thắt chặt tín dụng, thị trường chứng khoán đi
xuống, các doanh nghiệp khó khăn trong việc huy động vốn hoặc huy động

vốn với chi phí rất cao và không hiệu quả. Vì vậy, không ít các doanh nghiệp
Việt Nam đã phá sản và các doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản ngày
càng gia tăng đáng kể. Trong quãng thời gian này, hơn bao giờ hết, các doanh
nghiệp Việt Nam hiểu được tầm quan trọng của vốn và khó khăn trong việc
huy động vốn và thấy được rằng tăng cường huy động vốn là việc làm thiết
yếu đối với các doanh nghiệp để duy trì và phát triển hoạt động sản xuất kinh
doanh, góp phần ổn định lại nền kinh tế nước nhà. Vậy làm thế nào để huy
động vốn hiệu quả, đảm bảo được cả về quy mô, cơ cấu cũng như chi phí huy
động hợp lý? Đó là câu hỏi cấp bách đặt ra cho các nhà kinh tế, các nhà lãnh
đạo doanh nghiệp hiện nay.
Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Phúc Tiến là doanh nghiệp
nhập khẩu và phân phối chuyên nghiệp các sản phẩm thép. Trong quá trình
hoạt động kinh doanh, cũng như các doanh nghiệp khác, nhu cầu vốn ngày
càng trở nên cấp thiết cho việc mở rộng và phát triển không ngừng của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, việc huy động vốn luôn gặp nhiều khó khăn, doanh
nghiệp không huy động vốn kịp thời, hay việc huy động vốn không hiệu quả
4
dẫn đến hoạt động kinh doanh chậm trễ và tốn kém nhiều chi phí, gây nhiều
tổn thất cho doanh nghiệp.
Hơn nữa, với đặc thù kinh doanh của doanh nghiệp nhập khẩu, sự
chênh lệch về thời gian giữa các khoản phải trả cho việc nhập khẩu và các
khoản thu về đòi hỏi doanh nghiệp luôn phải có nguồn vốn để đáp ứng kịp thời
cho khoảng chênh lệch thời gian này, nhằm thúc đẩy quá trình hoạt động kinh
doanh liên tục và hiệu quả. Cho đến thời điểm này, doanh nghiệp đã thực hiện
một số biện pháp huy động vốn nhưng vẫn chưa đáp ứng được cho nhu cầu
hoạt động kinh doanh, chi phí huy động vốn cao, không hiệu quả, gây gián
đoạn cho quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, việc
nghiên cứu và tìm ra các giải pháp mới nhằm đẩy mạnh huy động vốn tại
doanh nghiệp là việc làm cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Do đó
đề tài: “ Tăng cường huy động vốn tại Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương

mại Phúc Tiến ” được chọn làm đề tài nghiên cứu cho bản luận văn này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học về nguồn vốn và các cách
thức huy động vốn, luận văn hướng đến các mục đích cụ thể như sau:
- Khái quát về vốn của doanh nghiệp, các hình thức huy động vốn của
doanh nghiệp, từ đó phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng huy động
vốn của doanh nghiệp.
- Phân tích thực trạng huy động vốn của Công ty Cổ phần Sản xuất và
Thương mại Phúc Tiến trong thời gian qua với các hình thức huy động vốn
mà công ty đã áp dụng, từ đó khẳng định những kết quả đạt được, những hạn
chế và nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó.
- Đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn cho Công ty Cổ
phần Sản xuất và Thương mại Phúc Tiến, góp phần thúc đẩy sự phát triển
hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động huy động vốn của doanh
nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động huy động vốn của
Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Phúc Tiến trong thời gian từ năm
2009 đến tháng 06 năm 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, cùng với việc vận dụng các phương pháp
luận nghiên cứu khoa học, luận văn chú trọng sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu khoa học cụ thể bao gồm cả định tính và định lượng như:
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, thống kê, tổng hợp, v.v…
Phương pháp thu thập dữ liệu: Luận văn sử dụng cả nguồn dữ liệu thứ
cấp có sẵn và nguồn dữ liệu sơ cấp thông qua điều tra, khảo sát thực tế. Trong
đó, nguồn dữ liệu thứ cấp được thu thập tại công ty bao gồm các số liệu,
thông tin thực tế từ các phòng ban thuộc Công ty cổ phần sản xuất và thương

mại Phúc Tiến. Vận dụng các kiến thức về tài chính thông qua phân tích xử lý
tính toán các chỉ tiêu về tài chính đánh giá hoạt động huy động vốn để đánh
giá hiệu quả huy động vốn. Nguồn dữ liệu sơ cấp: trao đổi phỏng vấn với các
cán bộ phụ trách tài chính công ty để xác định chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp, từ đó xác định nhu cầu vốn và các giải pháp huy động khả thi,
hiệu quả. Đồng thời thăm dò ý kiến, tư vấn của các chuyên gia tài chính có
kinh nghiệm ở các doanh nghiệp khác.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm các chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về huy động vốn của doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Công ty Cổ phần Sản xuất và
Thương mại Phúc Tiến.
6
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Công ty Cổ phần
Sản xuất và Thương mại Phúc Tiến.
6. Ý nghĩa khoa học
Trên phương diện lý luận: Luận văn đưa ra cơ sở lý luận về hoạt động
huy động vốn trong các doanh nghiệp.
Trên phương diện thực tiễn: Luận văn làm rõ thực trạng huy động vốn
tại Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Phúc Tiến, những kết quả đạt
được cũng như những hạn chế cần khắc phục, xác định cơ cấu vốn hợp lý với
đặc thù công ty. Từ đó đưa ra một số giải pháp để tăng cường hoạt động huy
động vốn cho phù hợp và đạt hiệu quả cao, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty, thúc đẩy hoạt động huy động vốn
trong nền kinh tế nói chung và Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại
Phúc Tiến nói riêng.
7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA
DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về vốn và huy động vốn của doanh nghiệp

1.1.1. Khái niệm
Vốn là một yếu tố quan trọng trong mọi nền kinh tế, ở mọi thời đại
khác nhau. Vốn luôn được quan tâm hàng đầu kể từ khi hình thành kế hoạch
sản xuất kinh doanh cho đến khi thực hiện và phát triển hoạt động sản xuất
kinh doanh đó. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh phụ thuộc rất lớn vào
quy mô cũng như cách thức sử dụng vốn. Để vốn thực sự phát huy tác dụng
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, thì trước tiên người sử dụng
vốn phải hiểu được bản chất của vốn để có thể sử dụng chúng một cách hiệu
quả. Chính vì vậy, nghiên cứu về vốn là vấn đề luôn được các nhà kinh tế ở
mọi thời đại quan tâm. Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi nói về vốn của
của một doanh nghiệp:
Theo trường phái tân cổ điển, vốn là một trong các yếu tố đầu vào để
sản xuất kinh doanh như đất đai, lao động, tiền; là các sản phẩm được sản
xuất ra để phục vụ cho sản xuất như máy móc, thiết bị. Như vậy theo quan
điểm này, vốn lại không bao gồm các tài sản tài chính – các giấy tờ có giá có
thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mà vốn được xem dưới góc độ hiện
vật là chủ yếu. Quan điểm này có ưu điểm là đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với
trình độ quản lý thấp nhưng chưa nói lên đặc điểm vận động cũng như vai trò
của vốn trong sản xuất kinh doanh.
Theo quan điểm của Karl Marx cho rằng vốn là một trong ba yếu tố của
sản xuất: đất đai, lao động và vốn, là giá trị đem lại giá trị thặng dư. Quan
điểm này hạn chế ở chỗ cho rằng chỉ có khu vực trực tiếp sản xuất ra của cải
vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư.
8
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện nay thì vốn sản xuất kinh
doanh trong doanh nghiệp hiện nay là một loại quỹ tiền tệ đặc biệt. Vốn là
một loại hoàng hoá nhưng được sử dụng tiếp tục vào quá trình sản xuất kinh
doanh tiếp theo (Kinh tế học, David Begg, Stanley Fischer, Rudiger
Dornbusch). Có hai loại vốn là vốn hiện vật và vốn tài chính. Vốn hiện vật là
dự trữ các loại hàng hoá đã sản xuất ra các loại hàng hoá và dịch vụ khác.

Vốn tài chính là tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, đất đai không được coi là vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là toàn bộ giá trị ứng ra ban
đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo, tức là không tham gia vào một quá
trình sản xuất riêng biệt mà trong suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ
lúc mới hình thành đến lúc kết thúc.
Tóm lại, có thể hiểu vốn là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá
trình sản xuất kinh doanh tiếp theo của doanh nghiệp nhằm đem lại giá trị
thặng dư.
Huy động vốn là một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động
tài chính của doanh nghiệp. Huy động vốn của doanh nghiệp là hoạt động thu
hút các nguồn vốn từ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp thông qua một số
kênh huy động nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của doanh nghiệp, phục vụ quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các nội dung quan
trọng trong hoạt động huy động vốn mà các doanh nghiệp cần quan tâm khi
tiến hành hoạt động huy động vốn bao gồm: chính sách huy động vốn (trong đó
bao gồm các chính sách về quy mô, cơ cấu, chi phí và kỳ hạn nguồn vốn huy
động), các phương thức huy động vốn (huy động nợ, huy động vốn chủ sở hữu)
và kết quả huy động vốn. Trong quá trình huy động vốn các doanh nghiệp luôn
phải xét đến tính hiệu quả của nó, tính hiệu quả trong huy động vốn được đo
bằng mức độ đáp ứng mục tiêu đề ra của doanh nghiệp về chất lượng, chi phí,
giá trị nguồn vốn huy động trong một khoảng thời gian nhất định.
9
1.1.2. Sự cần thiết tăng cường huy động vốn đối với hoạt động của doanh
nghiệp
Mỗi một doanh nghiệp kể từ lúc bắt đầu thành lập cũng như trong suốt
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh đều đặt ra cho mình những mục tiêu
phát triển nhất định. Để đạt được những mục tiêu đó doanh nghiệp phải đảm
bảo một năng lực tài chính nhất định, trong đó vốn là yếu tố quan trọng hàng
đầu quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, đảm bảo khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, để tiến hành hoạt động, doanh nghiệp phải có vốn và nguồn
vốn. Tuy nhiên, nếu để tự thân vốn và nguồn vốn đó vận động thì bản thân
doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn về vốn. Bởi trong hoạt động sản xuất
kinh doanh có thể xảy ra tình trạng vốn bị ứ đọng ở một khâu nào đó trong
một khoảng thời gian nhất định, doanh nghiệp sẽ không có vốn để tiến hành
khâu tiếp theo. Vì vậy, không bổ sung vốn kịp thời sẽ dẫn đến gián đoạn hoạt
động sản xuất kinh doanh, trong nhiều truờng hợp doanh nghiệp không thể
khắc phục kịp thời thì buộc doanh nghiệp phải ngừng hoạt động. Việc huy
động đủ vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục
từ khâu mua sắm vật tư, sản xuất, cho đến tiêu thụ sản phẩm. Hơn nữa, bản
thân vốn chủ sở hữu được coi là lá chắn cho sự phá sản của doanh nghiệp, cho
dù vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp có lớn đủ sức chi trả cho các hoạt động
kinh doanh và mở rộng đầu tư thì một nhà lãnh đạo khôn ngoan cũng không
bao giờ lựa chọn sử dụng toàn bộ vốn chủ để kinh doanh. Phân tán rủi ro là
việc mà bất kỳ doanh nghiệp nào khi hoạt động đều áp dụng.
Thứ hai, để phát triển, doanh nghiệp phải không ngừng nỗ lực mở rộng
quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh, đa dạng hóa ngành nghề sản xuất kinh
doanh, đầu tư trang thiết bị máy móc, đầu tư công nghệ hiện đại. Những việc
làm này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một nguồn vốn khác nữa ngoài vốn tự
10
có ban đầu. Do vậy, huy động vốn là phương án duy nhất và hiệu quả nhất để
đảm bảo dự án kinh doanh được hoạt động và phát triển. Nếu chỉ sử dụng
nguồn vốn chủ sở hữu ban đầu thì việc kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn,
ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thanh toán nhanh, uy tín của doanh nghiệp,
khả năng phát triển quy mô doanh nghiệp trong tương lai, cũng như khả năng
tiếp cận với các dự án lớn.
Thứ ba, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sự cạnh tranh ngày càng
trở nên gay gắt và khốc liệt. Nếu một doanh nghiệp không có nguồn vốn vững
mạnh thì nguy cơ thất thế trong cạnh tranh ngày càng cao, doanh nghiệp dễ bị
đào thải ra khỏi thị trường. Ngược lại, khi doanh nghiệp có một nguồn vốn

vững mạnh, được bổ sung liên tục theo nhu cầu hoạt động sản xuất kinh
doanh, tạo ra năng suất lao động cao, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản
phẩm, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trưòng. Từ đó, đảm bảo khả năng sinh lời cao cho doanh nghiệp.
Chính vì những lẽ đó, nên tăng cường huy động vốn là việc làm cần thiết và
tất yếu đối với các doanh nghiệp ở mọi thời đại.
Như vậy, có thể thấy, tăng cường huy động vốn là hoạt động có ý nghĩa
quan trọng đối với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thực tiễn nền kinh tế trong những năm qua cũng cho thấy doanh nghiệp nào
có lượng vốn càng lớn thì càng có thế chủ động trong kinh doanh và có thể
thắng được trong cạnh tranh. Ngược lại, doanh nghiệp nào thiếu vốn kinh
doanh, không có chiến lược tài trợ trước mắt cũng như lâu dài thường đánh
mất vai trò của mình trên thị trường, mất bạn hàng thường xuyên ổn định,
không tạo ra sức mạnh và hiệu quả tổng hợp trong kinh doanh.
Tuy nhiên, đối với mỗi doanh nghiệp, để có được lượng vốn mong
muốn không phải là điều đơn giản và trong quá trình xây dựng kế hoạch tài
trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phải cân nhắc
11
xem sẽ huy động vốn từ những nguồn nào, với chi phí tương ứng là bao
nhiêu, để có được cơ cấu vốn hợp lý nhất.
1.2. Các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp
1.2.1. Huy động vốn chủ sở hữu
1.2.1.1. Vốn góp ban đầu của chủ sở hữu
Đây là nguồn vốn được hình thành ban đầu do các chủ sở hữu doanh
nghiệp đóng góp. Các loại hình doanh nghiệp khác nhau thì vốn góp ban đầu
của chủ sở hữu có nguồn gốc khác nhau: Đối với doanh nghiệp nhà nước
(Nhà nước là chủ sở hữu) vốn đầu tư ban đầu là vốn đầu tư của Ngân sách
nhà nước. Đối với doanh nghiệp tư nhân, vốn góp là vốn chủ doanh nghiệp bỏ
ra khi thành lập doanh nghiệp. Đối với công ty TNHH , vốn góp có thể do
một thành viên (Công ty TNHH một thành viên), hoặc do nhiều thành viên

sáng lập cùng góp (Công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên). Đối với công
ty cổ phần, nguồn vốn này được biểu hiện dưới hình thức vốn cổ phần, vốn
này do những người sáng lập công ty cổ phần phát hành cổ phiếu để huy động
thông qua việc bán những cổ phiếu đó. Đối với doanh nghiệp liên doanh: vốn
đầu tư ban đầu được biểu hiện dưới hình thức vốn liên doanh, vốn này được
hình thành do sự đóng góp giữa các chủ đầu tư hoặc các doanh nghiệp để hình
thành một doanh nghiệp mới. Đối với công ty 100% vốn nước ngoài: các cá
nhân hay tổ chức nước ngoài là chủ sở hữu công ty. Vốn góp ban đầu do chủ
đầu tư nước ngoài bỏ ra.
1.2.1.2. Phát hành cổ phiếu
Phát hành thêm cổ phiếu mới đối với công ty cổ phần là một phương
thức huy động hiệu quả các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế nhằm đáp
ứng nhu cầu mở rộng kinh doanh của công ty cổ phần. Cổ phiếu là chứng
khoán vốn và người nắm giữ cổ phiếu chính là người sở hữu công ty. Cổ
phiếu được công ty phát hành gồm có:
12
Cổ phiếu thường: là giấy xác nhận quyền sở hữu của cổ đông đối với
công ty cổ phần căn cứ vào vốn góp thông qua việc mua cổ phần. Cổ phiếu
thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất. Phần lợi tức mà cổ đông nhận được
từ việc sở hữu loại cổ phiếu này phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công
ty trong từng năm. Các cổ đông có quyền tham gia vào kiểm soát và điều
khiển mọi hoạt động của công ty thông qua việc bỏ phiếu hoặc chỉ định thành
viên ban quản trị. Tuy nhiên, huy động vốn theo phương thức này phải xét
đến nguy cơ bị thôn tính. Do đó, phải xét đến tỷ lệ cổ phần tối thiểu mà mỗi
cổ đông được phép nắm giữ để duy trì tỷ lệ cân đối về sở hữu công ty.
Cổ phiếu ưu đãi: là những cổ phiếu có một số đặc điểm quyền ưu đãi so
với cổ phiếu thường, ví dụ: quyền ưu tiên chia tài sản trong trường hợp doanh
nghiệp giải thể, ưu đãi về thứ tự ưu tiên chi trả cổ tức (trước cổ phiếu thường),
quyền chuyển đổi thành cổ phiếu thường. Do đó, cổ phiếu ưu đãi thường được
phát hành cho các cổ đông truyền thống để tránh nguy cơ thôn tính hay sát

nhập vì chuyển nhượng các cổ phiếu ưu đãi bị giới hạn hơn so với cổ phiếu
thường; phát hành cho các cán bộ nhân viên chủ chốt, gắn bó lâu năm với
công ty để động viên tinh thần làm việc và gắn kết hiệu quả làm việc của họ
với lợi ích chung của công ty. Cổ phiếu ưu đãi thường chiếm một tỷ lệ rất nhỏ
trong tổng lượng cổ phiếu được phát hành.
1.2.1.3. Vốn từ lợi nhuận không chia
Theo phương thức này, doanh nghiệp sẽ trích một phần lợi nhuận thu
được trong năm vào quỹ đầu tư phát triển nhằm mục đích tăng nguồn vốn của
doanh nghiệp. Để huy động vốn theo phương thức này, trước hết doanh
nghiệp phải làm ăn có lãi. Sau đó, doanh nghiệp có thể giảm tỷ lệ trích lập các
quỹ dự phòng, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi hoặc thay đổi chính sách phân
chia lợi nhuận cho các cổ đông (đối với công ty cổ phần). Đây là nguồn vốn
rất chủ động và thuận tiện cho các doanh nghiệp. Do vậy, huy động vốn từ lợi
13
nhuận không chia là một phương thức huy động vốn rất quan trọng đối với
doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc thực hiện có hiệu quả hay không còn phụ thuộc
vào lợi nhuận thu được và hiệu quả của việc tái đầu tư.
1.2.2. Huy động nợ
1.2.2.1. Vốn tín dụng ngân hàng
Doanh nghiệp có thể huy động vốn bằng cách vay ngân hàng hoặc các
tổ chức tín dụng khác để đáp ứng cho nhu cầu vốn trong cả ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn. Theo phương thức này các doanh nghiệp phải đáp ứng được
những yêu cầu nhất định của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác như:
tính hợp pháp của dự án cũng như tư cách pháp nhân của doanh nghiệp, phải
có phương án kinh doanh khả thi, phải là đơn vị hạch toán độc lập và các yêu
cầu về tài sản thế chấp, cầm cố. Đối với ngân hàng đây chính là những điều
kiện để đảm bảo vốn cho vay an toàn và sinh lời.
Trên cơ sở các điều kiện xin vay được thực hiện đầy đủ, ngân hàng sẽ
cấp vốn cho doanh nghiệp dưới các hình thức chủ yếu như sau:
Tín dụng hạn mức: là một hình thức cho vay được thực hiện trên cơ sơ

hợp đồng tín dụng, trong đó doanh nghiệp được phép sử dụng dư nợ trong
một giới hạn và thời hạn nhất định trên tài khoản vãng lai. Chỉ khi nào doanh
nghiệp sử dụng mới được coi là tín dụng cấp phát và mới được tính lãi.
Chiết khấu thương phiếu: là hình thức tín dụng ngắn hạn, trong đó
doanh nghiệp chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đáo hạn cho
ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá thương phiếu trừ đi lãi chiết
khấu và hoa hồng phí. Doanh nghiệp sử dụng hình thức vay vốn này khi có
nhu cầu tiền ngay mà không phải đợi đến ngày đáo hạn của thương phiếu.
Tuy nhiên việc vay có thuận lợi hay không còn phụ thuộc vào chất lượng của
thương phiếu nên phương thức này không phải lúc nào cũng hiệu quả.
Bao thuê: là một dịch vụ do công ty con của các ngân hàng thương mại
14
thực hiện, là nghiệp vụ đi mua lại các yêu cầu chi trả của doanh nghiệp để rồi
sau đó nhận các khoản chi trả của yêu cầu đó. Thông thường các yêu cầu chi
trả ở đây là ngắn hạn. Các công ty mua nợ sẽ chịu trách nhiệm quản lý, theo
dõi, thu hồi và chịu rủi ro về các khoản chi trả của các yêu cầu chi trả đó.
Trên lĩnh vực xuất nhập khẩu, ngân hàng thực hiện tài trợ cho các
doanh nghiệp thông qua các hình thức tín dụng xuất nhập khẩu như: Tài trợ
vốn lưu động để thu mua, chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu theo đúng L/C
quy định, hợp đồng ngoại thương đã ký kết, đơn đặt hàng. Hình thức này
được tiến hành trước khi giao hàng, thông thường được áp dụng trong trường
hợp ngân hàng tài trợ vừa là ngân hàng thanh toán cho L/C xuất. Tài trợ vốn
trong thanh toán hàng xuất khẩu: Nhà xuất khẩu cần tiền có thể thương lượng
bộ chứng từ để chiết khấu hoặc ứng trước tiền tại ngân hàng đã được chỉ định
rõ trong L/C hoặc ở bất kỳ ngân hàng nào. Trường hợp bộ chứng từ không hội
đủ những điều kiện chiết khấu thì nhà xuất khẩu có thể yêu cầu ngân hàng
ứng trước tiền hàng, khoảng 50-60% giá trị hàng xuất. Hình thức tài trợ này
được tiến hành sau khi giao hàng. Hình thức mở L/C thanh toán hàng nhập
khẩu: Trong hình thức này các nhà nhập khẩu phải ký quỹ. Mức kỹ quỹ sẽ do
ngân hàng quyết định trên cơ sở thẩm định các điều kiện về tài chính của

doanh nghiệp, tư cách pháp nhân của mặt hàng nhập khẩu, tài sản thế chấp.
Cho vay thanh toán bộ chứng từ nhập: Căn cứ vào các yếu tố như đảm bảo tín
dụng, mức tài trợ, khả năng thu hồi nợ đúng hạn v.v… ngân hàng sẽ quyết
định tỷ lệ tài trợ cho lô hàng nhập để nhà nhập khẩu thanh toán cho nhà xuất
khẩu. Ví dụ như nếu ký quỹ trị giá 20% giá trị lô hàng thì ngân hàng chấp
thuận tài trợ 60%, lúc này nhà nhập khẩu phải đóng thêm 20% giá trị lô hàng.
Ngoài ra, ngân hàng còn cấp vốn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thông
qua các hình thức bảo lãnh và tái bảo lãnh như: bảo lãnh vay vốn bằng cách
phát hành thư bảo lãnh, bảo lãnh bằng cách phát hành L/C trả chậm.
15
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, để tiến hành và duy trì hoạt động
sản xuất kinh doanh, hầu hết các doanh nghiệp đều phải vay vốn ngân hàng.
Việc huy động vốn bằng hình thức này giúp doanh nghiệp tăng khả năng tài
trợ các nhu cầu vốn bổ sung cho việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh
doanh. Hiện nay, các hình thức tài trợ vốn cho doanh nghiệp được các ngân
hàng sử dụng ngày càng phong phú nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp có
đủ vốn cho hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, nguồn vốn vay ngân
hàng có đặc điểm là tương đối nhỏ, thời gian ngắn, thủ tục rườm rà phức tạp,
điều kiện vay chặt chẽ, nên vẫn gây khó khăn cho doanh nghiệp khi muốn vay
vốn. Do đó thông thường khi thiếu vốn các doanh nghiệp thường nghĩ đến
nguồn vốn tự có trước khi nghĩ đến ngân hàng.
1.2.2.2.Vốn tín dụng thương mại
Tín dụng thương mại là một hình thức huy động vốn rất được các
doanh nghiệp ưa dùng bởi tính tiện lợi và linh hoạt trong kinh doanh, đồng
thời nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách
lâu bền. Khác với tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại là nguồn vốn
được xuất phát trên cơ sở hàng hoá. Nghĩa là khi bên bán và bên mua đã thoả
thuận được đầy đủ các điều kiện của hợp đồng mua bán hàng hoá, thì bên bán
chấp nhận cho bên mua trả chậm với những điều kiện nhất định. Chi phí của
việc sử dụng hình thức tín dụng này thể hiện qua lãi vay được tính vào giá

thành sản phẩm hay dịch vụ. Trong mua bán hàng hoá trả chậm, chi phí này
có thể ẩn dưới hình thức nâng giá cao hơn so với bình thường để bao hàm
luôn lãi suất tín dụng trong đó. Quy mô của khoản tín dụng này phụ thuộc vào
thời hạn mua chịu, tình trạng tài chính người bán, tình trạng tài chính người
mua và giảm giá hàng. Chỉ có những doanh nghiệp chứng tỏ được tình hình
tài chính lành mạnh, có khả năng trả nợ mới được hưởng khoản tín dụng
thương mại này.
16
Trong hình thức tín dụng thương mại này có rất nhiều công cụ được sử
dụng như: hóa đơn, thương phiếu, hợp đồng bán hàng. Trong đó, thể hiện rõ
số tiền và thời hạn trả tiền mà người mua phải thực hiện.
1.2.2.3. Phát hành trái phiếu
Trái phiếu công ty là công cụ nợ dài hạn được một doanh nghiệp phát
hành để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế nhằm phục
vụ nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Thời hạn của trái
phiếu công ty được xác định từ ngày phát hành đến ngày thanh toán lại cho
người mua. Khi huy động vốn bằn phương thức này, doanh nghiệp phải chịu
trách nhiệm về số vốn đã được huy động như một khoản nợ và phải trả lãi vay
theo một tỷ lệ nhất định.
Trên thị trường tài chính hiện nay thường lưu hành nhiều loại trái phiếu
khác nhau. Một trong những vấn đề doanh nghiệp cần xem xét trước khi phát
hành là lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của
doanh nghiệp và tình hình trên thị trường tài chính, cũng như cách thức trả lãi,
chi phí trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu đó. Doanh
nghiệp có thể lựa chọn một trong các loại trái phiếu như: Trái phiếu có lãi
suất cố định: là loại trái phiếu phổ biến nhất trong các loại trái phiếu doanh
nghiệp. Lãi suất được ghi ngay trên bề mặt trái phiếu và không thay đổi trong
suốt kỳ hạn của nó. Trái phiếu có lãi suất thả nổi: là loại trái phiếu có lãi suất
biến động theo sự biến động của thị trường vốn. Trong điều kiện nền kinh tế
có mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định thì các doanh

nghiệp có thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này. Tuy nhiên việc
quản lý loại trái phiếu này gặp một số khó khăn do công ty không thể biết
chắc chắn về chi phí lãi vay và phải tốn thời gian cho việc thông báo các lần
điều chỉnh lãi suất. Trái phiếu có thể thu hồi: Với loại trái phiếu này, doanh
nghiệp có thể sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng bằng cách
17
mua lại các trái phiếu đã phát hành vào một thời gian nào đó trước ngày đáo
hạn của trái phiếu, tức là giảm số vốn vay. Trái phiếu có thể chuyển đổi: là
loại trái phiếu có thể chuyển đổi thành một lượng nhất định các cổ phiếu
thường.
Nói chung, huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu công ty có ưu
điểm là tiết kiệm được chi phí đầu tư, kiềm chế lạm phát (do không làm tăng
lượng tiền cung ứng cho lưu thông, chỉ nhằm sử dụng có hiệu quả hơn lưọng
tiền có sẵn trong lưu thông), chủ động khai thác trực tiếp nguồn vốn có sẵn và
tiềm năng của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Tuy nhiên không phải
doanh nghiệp nào cũng có thể phát hành trái phiếu, đặc biệt là đối với các
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, việc huy động vốn bằng cách phát hành trái
phiếu chưa được phổ biến, rộng rãi. Nếu tận dụng được những ưu điểm kể
trên thì đây sẽ là phương thức tối ưu và khả thi cho giải pháp về vốn dài hạn
của từng doanh nghiệp trong nước, đồng thời mang lại nhiều lợi ích cho tổng
thể nền kinh tế.
1.2.2.4. Các hình thức khác
* Huy động vốn qua hình thức tín dụng thuê mua:
Đây là hình thức không trực tiếp cấp vốn cho các doanh nghiệp nhưng
đã gián tiếp trợ giúp doanh nghiệp về mặt tài chính để các doanh nghiệp trang
bị máy móc thiết bị đáp ứng nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh.
Theo hình thức này, người cho thuê (chủ sở hữu tài sản) sẽ chuyển giao
tài sản cho người đi thuê sử dụng trong một thời gian nhất định được ghi
trong hợp đồng. Để đổi lại, người đi thuê phải trả cho chủ sở hữu một khoản
tiền thuê tương xứng với quyền sử dụng. Tín dụng thuê mua là hình thức tài

trợ vốn trung và dài hạn rất mới mẻ đối với nước ta hiện nay, do đó việc
nhanh chóng triển khai các điều kiện về pháp lý, hoàn thiện cơ chế nghiệp vụ
thuê mua, xác lập và mở rộng đối tượng tài sản thuê mua, khách hàng thuê
18
mua v.v…là việc làm cần thiết nhằm tăng cường nguồn tài trợ cho các doanh
nghiệp hiện nay.
* Tận dụng các khoản vốn nhàn rỗi khác:
Doanh nghiệp có thể tận dụng các khoản phải nộp nhà nước như thuế,
phí, lệ phí phải nộp Nhà nước nhưng chưa phải nộp, hoặc trì hoãn chưa nộp,
các khoản phải trả cho các đơn vị nội bộ nhưng chưa trả, các khoản chi phí
trích trước. Tuy nhiên, tỷ trọng của khoản vốn này trong tổng vốn không cao
và hầu hết các khoản nghĩa vụ đối với nhà nước bao giờ doanh nghiệp cũng
có trách nhiệm nộp đầy đủ và đúng hạn, thậm chí còn phải nộp trước khi phát
sinh nghiệp vụ kinh tế. Các nguồn này sẽ đáp ứng được phần nào nhu cầu vốn
của doanh nghiệp, tuy nhiên nó chỉ trong thời gian ngắn và không ổn định.
Hầu hết các doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn này trong tình trạng gặp khó
khăn về khả năng thanh toán hay hoạt động kinh doanh thua lỗ. Hơn nữa, mặc
dù đây là nguồn vốn không có chi phí, nhưng khi tận dụng nó uy tín của
doanh nghiệp sẽ bị giảm sút, tăng sự phụ thuộc vào cơ quan quản lý nhà nước.
Do đó các doanh nghiệp thường chỉ coi nguồn vốn này như một nguồn mang
tính chất bổ sung chứ không phải là một trong những nguồn tài trợ chính.
* Huy động vốn từ nội bộ doanh nghiệp:
Doanh nghiệp có thể tận dụng các khoản phải trả cho cán bộ công nhân
viên trong một thời gian nhất định nào đó. Tuy nguồn vốn này không lớn
nhưng trong nhiều trường hợp nó giúp doanh nghiệp giải quyết được những
nhu cầu vốn có tính chất tạm thời. Ngoài ra doanh nghiệp có thể huy động
vốn từ các khoản tiền nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên công ty, hay mượn
các giá trị tài sản của họ.
1.3. Chính sách huy động vốn của doanh nghiệp
Mỗi một doanh nghiệp huy động vốn đều đặt ra cho mình một chính

sách huy động vốn nhất định. Tùy thuộc vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh,
19
loại hình hoạt động của doanh nghiệp, thời điểm kinh doanh của doanh
nghiệp, mà các doanh nghiệp xây dựng chính sách huy động vốn phù hợp.
Trong đó, bao gồm các chính sách về quy mô nguồn vốn huy động, chính
sách về cơ cấu nguồn vốn huy động, chính sách về chi phí huy động vốn và
chính sách về kỳ hạn của nguồn vốn huy động.
Chính sách về quy mô nguồn vốn huy động: Việc tính toán, xác định
quy mô nguồn vốn huy động là việc làm hết sức quan trọng, có ảnh hưởng
quyết định đến hiệu quả hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp. Quy mô
nguồn vốn huy động được xác định dựa vào nhu cầu hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có kế hoạch mở rộng sản xuất
kinh doanh, doanh nghiệp phải dự tính lượng vốn cần để đầu tư thêm tài sản
cố định như nhà xưởng, máy móc, thiết bị; các yếu tố đầu vào như: nguồn
nguyên liệu, hàng hóa; hay các yếu tố khoa học công nghệ để phục vụ hoạt
động sản xuất kinh doanh. Từ đó doanh nghiệp sẽ xác định được quy mô
nguồn vốn cần huy động. Ngược lại khi doanh nghiệp muốn thu hẹp hoạt
động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ giảm bớt lượng vốn huy động.
Quy mô nguồn vốn huy động cần đảm bảo tính phù hợp, đáp ứng tốt
nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu doanh nghiệp huy động quá
nhiều vốn, sẽ gây nên tình trạng dư thừa vốn, gây lãng phí, ảnh hưởng xấu
đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, lợi nhuận
doanh nghiệp giảm xuống. Ngược lại, nếu doanh nghiệp huy động vốn không
đủ để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, thì sẽ dẫn đến tình trạng thiếu
vốn, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị gián đoạn, ách tắc,
tạo ra nhiều tổn thất cho doanh nghiệp.
Tóm lại, khi huy động vốn, các doanh nghiệp cần tính toán cụ thể và
chính xác lượng vốn cần huy động để đáp ứng vừa đủ cho việc thực hiện hoạt
động sản xuất kinh doanh, tránh dư thừa hay thiếu hụt vốn gây tổn thất cho
doanh nghiệp.

20
Chính sách về cơ cấu nguồn vốn huy động: Cơ cấu nguồn vốn huy
động cho thấy tổng thể các loại nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động được,
quy mô và tỷ trọng từng loại nguồn vốn đó trong toàn bộ nguồn vốn huy động
của doanh nghiệp.
Trong thực tiễn hoạt động, doanh nghiệp phải tìm ra một cơ cấu vốn
phù hợp với tình hình cụ thể tại doanh nghiệp đó để làm cơ sở cho việc huy
động vốn. Cơ cấu vốn mục tiêu của doanh nghiệp là tỷ lệ giữa vốn vay và vốn
chủ sở hữu mà doanh nghiệp muốn duy trì và hướng tới trong quá trình quản
lý và huy động vốn. Cơ cấu vốn mục tiêu mà doanh nghiệp hướng tới chính là
cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp: là cơ cấu vốn làm cân bằng tối đa giữa
rủi ro và lãi suất (chi phí) và bằng cách đó tối đa hóa giá trị của các chủ sở
hữu. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định về cơ cấu vốn bao gồm: rủi ro
kinh doanh, thuế thu nhập của doanh nghiệp, khả năng linh hoạt tài chính và
các quan điểm của nhà quản lý. Theo đó, rủi ro trong kinh doanh là rủi ro cố
hữu trong tài sản của doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp không sử
dụng nợ. Rủi ro kinh doanh càng lớn thì tỷ lệ nợ tối ưu càng thấp. Thuế thu
nhập doanh nghiệp càng cao thì càng hạ thấp chi phí thực tế của nợ. Khả năng
linh hoạt tài chính là khả năng huy động vốn khi những điều kiện thay đổi.
Khi những doanh nghiệp lớn và có nhiều người biết đến trên thị trường thì sẽ
có uy tín trong việc huy động vốn hơn và như vậy có thể duy trì tỷ lệ dư nợ
cao hơn.
Cơ cấu vốn phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm riêng của từng doanh
nghiệp như khả năng phá sản, khả năng sinh lời, chất lượng và cơ cấu tài sản,
cơ hội tăng trưởng của doanh nghiệp. Chẳng hạn, đối với một công ty mới
thành lập và mức độ tiêu thụ sản phẩm chưa ổn định thì sẽ là quá sức nếu vốn
vay chiếm tới 70-80% tổng nguồn vốn. Vì với tỷ lệ nguồn vốn vay cao như
vậy, công ty sẽ phải đối mặt với gánh nặng lãi vay và những rủi ro tài chính
21
tiềm ẩn, (những rủi ro tài chính này tăng theo tỷ lệ nợ), đó chính là nguy cơ

phá sản nếu gánh nặng lãi vay quá lớn. Tuy nhiên, sẽ là một hạn chế nếu một
công ty đang trong giai đoạn tăng trưởng mạnh với các sản phẩm được tiêu
thụ ổn định lại chỉ sử dụng 20-30% vốn vay trên tổng nguồn vốn. Ngoài ra,
đặc điểm ngành nghề cũng cho thấy nhiều sự khác biệt về cơ cấu vốn giữa các
doanh nghiệp, ví dụ như nhóm sử dụng nợ vay nhiều nhất phải kể đến là
ngành vận tải, xây dựng và bất động sản, ngành cao su tự nhiên lại có tỷ lệ nợ
trên vốn thấp. Như vậy, cơ cấu vốn hợp lý đối với mỗi doanh nghiệp khác
nhau là khác nhau, hay nói cách khác, không có một cơ cấu vốn chung cho
mọi doanh nghiệp. Tuỳ vào từng giai đoạn cụ thể, tuỳ theo từng mục tiêu
quản trị hay từng giai đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp
tính toán và xác định một cơ cấu vốn hợp lý cho doanh nghiệp, để tại đó giá
trị doanh nghiệp là lớn nhất, tức chi phí vốn ở mức thấp nhất, và do đó tối đa
được lợi nhuận của doanh nghiệp.
Cơ cấu nguồn vốn huy động phụ thuộc vào cơ cấu mục tiêu mà doanh
nghiệp đề ra. Theo đó, tại một thời điểm nào mà tỷ lệ nợ dưới mức mục tiêu
đề ra thì doanh nghiệp sẽ mở rộng vốn bằng cách vay nợ và ngược lại, nếu tỷ
lệ nợ trên mức mục tiêu đề ra thì doanh nghiệp sẽ mở rộng vốn bằng cách
tăng cường vốn chủ sở hữu để đảm bảo an toàn cho doanh nghiệp.
Tóm lại, các doanh nghiệp cần cân nhắc kỹ lưỡng cơ cấu nguồn vốn
huy động tùy vào đặc điểm, thời điểm hoạt động kinh doanh của mình, đảm
bảo một cơ cấu vốn huy động hợp lý giữa vốn chủ sở hữu và nợ vay sao cho
lợi ích thu được là cao nhất.
Chính sách về chi phí huy động vốn: Chi phí huy động vốn đối với
mỗi nguồn vốn khác nhau là khác nhau nên khi xem xét vấn đề về cơ cấu vốn
người ta thường quan tâm đến một chỉ tiêu nữa là chi phí trung bình của vốn.
Chi phí trung bình của vốn phản ánh chi phí trung bình của tất cả các nguồn
22
tài trợ dài hạn được doanh nghiệp sử dụng. Để xác định được chi phí trung
bình, thông thường sử dụng chỉ tiêu chi phí bình quân gia quyền của vốn
(WACC).

Quy ước: Chi phí của nợ vay: Kd
Chi phí của nợ vay sau thuế: Kd(1-t). Với t là thuế suất thuế thu
nhập doanh nghiệp.
Chi phí của cổ phiếu ưu tiên: Kp
Chi phí lợi nhuận giữ lại: Ks
Chi phí cổ phần thường mới: Ke
Tỷ trọng của mỗi nguồn vốn tương ứng là: Wd, Wp, Ws, We.
WACC = Wd.Kd(1-t) + Wp.Kp + Ws.Ks + We.Ke
Các doanh nghiệp luôn cố gắng để đạt được mức chi phí bình quân gia quyền
của vốn là thấp nhất, để tại đó cơ cấu vốn của doanh nghiệp là cơ cấu vốn tối
ưu.
Trong quá trình huy động vốn, các doanh nghiệp luôn hướng tới mục
tiêu là chi phí vốn huy động ở mức thấp nhất. Chi phí huy động vốn là một
trong những bộ phận cấu thành nên chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Do đó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nếu chi phí huy động vốn cao, thì lợi nhuận của
doanh nghiệp sẽ bị giảm xuống và ngược lại. Việc huy động vốn chủ sở hữu
bằng các hình thức như: tăng vốn góp chủ sở hữu, huy động vốn từ nguồn lợi
nhuận không chia, hoặc việc huy động nợ thông qua tín dụng thương mại sẽ
tiết kiệm rất nhiều chi phí cho doanh nghiệp, chi phí huy động vốn thấp. Khi
doanh nghiệp phát hành trái phiếu để tăng vốn chủ sở hữu, hay huy động nợ
bằng cách phát hành trái phiếu thì sẽ tốn nhiều chi phí cho việc phát hành cổ
phiếu và trái phiếu, như vậy chi phí huy động vốn sẽ cao hơn. Khi doanh
nghiệp vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp phải chi trả lãi tương ứng với
23
khoản vay đó, chi phí trả lãi vay cao hay thấp phụ thuộc vào từng thời điểm
cụ thể của thị trường tài chính, chính sách của Chính phủ. Vì vậy, trong hoạt
động huy động vốn, doanh nghiệp luôn phải tính toán đến chi phí huy động và
lựa chọn phương thức huy động vốn phù hợp sao cho chi phí huy động vốn là
thấp nhất trong điều kiện có thể đảm bảo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp.
Chính sách về kỳ hạn nguồn vốn huy động: Tùy thuộc vào nhu cầu và
định hướng hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp xác định kỳ hạn
phù hợp cho các nguồn vốn huy động. Kỳ hạn của nguồn vốn huy động có thể
là ngắn hạn (dưới 1 năm), trung hạn (từ 1 đến 5 năm), hoặc dài hạn (trên 5
năm). Cụ thể: để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp muốn
đầu tư mua sắm tài sản cố định thì doanh nghiệp sẽ huy động các nguồn vốn
trung và dài hạn, ví dụ như: huy động vốn chủ sở hữu, vay dài hạn ngân hàng,
phát hành trái phiếu. Để đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời, bất
thường phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh như: nhập
nguyên liệu đầu vào, thanh toán các khoản phải trả như nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp, trả lương cán bộ công nhân viên, v.v…thì doanh nghiệp
thường sử dụng các nguồn vốn có tính chất ngắn hạn như: vay ngắn hạn ngân
hàng, tín dụng thương mại, huy động vốn từ nội bộ doanh nghiệp. Việc xác
định kỳ hạn phù hợp cho nguồn vốn huy động sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm
tối đa chi phí huy động vốn, đảm bảo đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động huy động
vốn cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.4. Kết quả huy động vốn của doanh nghiệp
Kết quả huy động vốn được thể hiện ở một số chỉ tiêu cơ bản như: tốc
độ tăng trưởng quy mô nguồn vốn, chi phí huy động vốn và cơ cấu vốn của
doanh nghiệp:
24
Tốc độ tăng trưởng quy mô nguồn vốn: Trong thực tế, các doanh
nghiệp huy động vốn nhằm mục đích mở rộng quy mô nguồn vốn để phục vụ
cho việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Và mỗi
doanh nghiệp đều đặt ra một chỉ tiêu cụ thể về quy mô nguồn vốn huy động
dựa trên sự tính toán về nhu cầu vốn cần bổ sung cho hoạt động sản xuất kinh
doanh. Để đánh giá kết quả huy động vốn, trước tiên người ta thường xem xét
đến chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng quy mô nguồn vốn. Tốc độ tăng trưởng quy

mô nguồn vốn thể hiện sự gia tăng số lượng tổng nguồn vốn của doanh
nghiệp sau khi doanh nghiệp thực hiện hoạt động huy động vốn. Nếu tốc độ
tăng trưởng quy mô nguồn vốn thực tế doanh nghiệp đạt được sau khi huy
động vốn bằng hoặc gần bằng với tốc độ tăng trưởng quy mô nguồn vốn mà
doanh nghiệp đề ra thì chứng tỏ doanh nghiệp huy động vốn thành công, và
ngược lại. Các doanh nghiệp cần tính toán kỹ lưỡng để đề ra chỉ tiêu tốc độ
tăng trưởng quy mô nguồn vốn phù hợp với nhu cầu vốn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh cũng như khả năng của doanh nghiệp, để tránh tình trạng dư
thừa vốn gây lãng phí hoặc thiếu vốn khiến hoạt động sản xuất kinh doanh bị
gián đoạn. Tuy nhiên, không phải bất kỳ doanh nghiệp nào hay tại bất kỳ thời
điểm nào doanh nghiệp cũng huy động đủ vốn theo như chỉ tiêu đã đề ra vì
quy mô nguồn vốn huy động còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau.
Cơ cấu vốn: Cơ cấu vốn là chỉ tiêu quan trọng đánh giá kết quả hoạt
động huy động vốn của doanh nghiệp. Sau khi huy động vốn, cơ cấu vốn
doanh nghiệp có thể là một cơ cấu vốn hợp lý hoặc không hợp lý đối với
doanh nghiệp đó. Tức là doanh nghiệp có thể đảm bảo hoặc không đảm bảo
được tỷ lệ hợp lý giữa vốn vay và vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn. Việc
đánh giá cơ cấu vốn của doanh nghiệp là hợp lý hay không hợp lý phụ thuộc
vào cơ cấu vốn mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra trong từng giai đoạn cụ thể,
hay tùy thuộc vào mục tiêu quản trị của từng doanh nghiệp. Với mỗi doanh
25

×