Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

tiểu luận cơ sở văn hóa việt nam phân tích hình tượng cây tre trong thơ văn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.24 KB, 13 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày 2 tháng 4 năm 2013 báo Việt Nam Net (vietnamnet.vn) có bài viết
“Cây tre mới là biểu tượng văn hóa Việt Nam” (1)… Bài viết nêu rõ những thứ cần
bàn luận và do đâu mà cây tre mới là nền văn hóa Việt Nam gồm: Dù có đến hơn
60% số người được hỏi đồng ý với phương án hoa Sen (theo kết quả điều tra dư
luận của Bộ Văn hóa - Thể thao – Du lịch), tuy nhiên ai cũng biết Sen là quốc hoa
của Ấn Độ, việc chọn một loại hoa đã trở thành biểu tượng cho tâm hồn, cốt cách
của một nền văn hóa lớn như vậy dễ bị hiểu là “ăn theo”, “đạo ý tưởng”…
Những phương án khác thì bị chê không vì nhược điểm này thì nhược điểm nọ.
Hoa Mai vàng chỉ phổ biến ở miền Nam, hoa Đào rực rỡ lại ưa cái rét miền Bắc.
Hơn nữa Mai và Đào dù đẹp nhưng đều là những loài cây chỉ khoe sắc được vào
một thời điểm nhất định trong năm.
Tại sao lại không chọn cây tre làm biểu tượng văn hóa Việt? Tre khắc phục
được tất cả những nhược điểm trên, phổ biến ở khắp vùng miền trên cả nước, lại là
bạn đồng hành thủy chung, can đảm của dân tộc từ thuở xa xưa khai hoang, dựng
nước và giữ nước. Tre hóa thân thành thế giới văn hóa tre trúc quây quần thân thiết
với đời người, in hình in bóng đậm đà vào văn hóa, thi ca, nhạc họa, vào sâu xa tâm
thức con người Việt Nam. Thêm nữa, dù tre không phải là một loại hoa nhưng vẫn
có thể là biểu tượng văn hóa Việt Nam giống như lá phong là biểu tượng Canada.
Việt Nam là xứ nhiệt đới gió mùa nên “xanh muôn ngàn cây lá khác nhau”
(Thép Mới). Từ núi cao cực Bắc tới sông nước Cà Mau, mỗi vùng sinh thái đều
tươi xanh những loài thảo mộc, hoa trái đặc trưng. Nhưng thân thương xiết bao, khi
đâu đâu cũng bốn mùa xanh những lũy tre tươi tốt. Từ Bắc chí Nam, trên núi trên
đồi bạt ngàn tre nứa giang vầu… Đồng bằng thì làng quê nào cũng lũy tre bao bọc,
1
bờ đê nào cũng tre xanh chắn sóng và ngăn lũ, nên sông quê "nước gương trong soi
tóc những hàng tre" (Tế Hanh).
Nay giữa Ba Đình, hai hàng tre xanh bình yên mang hồn quê xứ sở muôn đời che
mát giấc ngàn thu Lãnh tụ Hồ Chí Minh - Người tiêu biểu nhất cho giang sơn và
văn hóa Việt Nam.


2
NỘI DUNG.
2.1. Khái niệm biểu tượng văn hóa.
Biểu tượng văn hóa là bất cứ cái gì mang một ý nghĩa cụ thể được thành viên
của một nền văn hóa nhận biết. Như vậy, những âm thanh, đồ vật, hình ảnh, hoạt
động của con người và cả những kí tự trong bài viết này đều là biểu tượng văn hóa .
Biểu tượng văn hóa biến đổi theo thời gian và cũng khác nhau, thậm chí trái
ngược nhau trong những nền văn hóa khác nhau. Ví dụ như gật đầu ở Việt Nam
được hiểu là đồng ý nhưng ở Bungari nó lại có ý nghĩa là không.
Con người tạo ra thế giới biểu tượng, đến lượt nói thế giới biểu tượng lại nói
lên chính cuộc sống của con người bằng ngôn ngữ riêng mà con người cần khám
3
phá, thấu hiểu. Biểu tượng văn hóa có thể là một dòng sông, một loài cây, một
ngọn núi…những hiện tượng tự nhiên đã được nhân bản hóa, cũng có thể là một
cây cầu, một tượng đài, một góc phố, một con người cụ thể tiêu biểu cho một đất
nước, một dân tộc, một làng quê, một thành phố. Ví dụ như: Khi nhắc đến núi Phú
Sĩ ta nghĩ ngay đến đất nước Nhật Bản, nhắc đến tháp Epphen ta biết đó là nước
Pháp, nhắc đến hoa Tuylip ta nghĩ đến Hà Lan… Chính những sự vật đó được gọi
là biểu tượng văn hóa của các nước đã nêu. Một đất nước, một vùng đất càng có bề
dày lịch sử thì hệ biểu tượng càng đa dang và hàm chứa nhiều ẩn số. Đất nước Việt
Nam chúng ta cũng không chỉ có một mà nhiều biểu tượng văn hóa như: Văm Miếu
Quốc Tử Giám, Hoa sen, áo dài, nón lá…
2.2. Cây tre trong đời sống nhân dân Việt Nam.
Từ ngàn xưa đến nay, cây tre luôn là biểu tượng đặc sắc của dân tộc Việt
Nam. Cây tre đi vào tiềm thức của dân tộc ta qua hình ảnh oai hùng Thánh Gióng
nhổ tre đánh giặc và trong suốt quá trình lịch sử đất nước mấy nghìn năm cho đến
nay nó vẫn là loài cây gắn bó nhất với người dân Việt Nam. Ở Việt Nam, tre mọc
rất nhiều và đều khắp. Ngoài thôn, xóm, làng, xã… còn mọc tập trung thành rừng
từ Bắc vào Nam. Tre gồm trên 40 loài và 15 giống khác nhau như: Hoa, bương, Lồ
ô, Gia, Vầu, mỡ, nứa, tàu, mạnh tông, tầm vông, trinh giang, le, trúc, là ngà… Tre

có đời sống gần 10 năm, cây tre cao nhất gần 35m, thấp nhất chừng vài tấc. Thân
tre to nhất đến 25cm, có từ 30- 50 đốt và dài nhất là 1m (Cây lồ ô). Tre là loại cây
sống quần tụ từng nhóm, từng đầm và chết nguyên bụi. Không như hầu hết các loại
cây chỉ đứng riêng lẻ một mình, Tre luôn mọc thành bụi, có gốc liền gốc, rễ đan rễ,
thể hiện tính quần tụ, đoàn kết, là một sức mạnh khó thể hủy diệt hay phá vỡ được.
Ngoài ý nghĩa răn dạy con người không phải ngẫu nhiên mà có. Câu chuyện một
người bé dễ dàng từng chiếc đũa tre, song không thể bẻ cả bó được, đó là một ví dụ
cụ thể cho tính quần tụ đoàn kết của cây tre. Thân Tre thẳng mà không bị gãy đó là
4
do thớ tre dẻo và thân tre mềm dễ lượn theo chiều gió. Với đặc tính: phối hợp
cương - nhu để đón gió thuận theo gió vừa đủ rồi lại ngạo nghễ vườn lên giữ lại
hình dáng cũ và chỉ có loài tre chịu chết cả bụi chứ không bao giờ chịu gãy ngang
thân. Đặc điểm này khiến ta liên tưởng đến những con người Việt Nam cũng vươn
lên trong khổ đau nhưng không bao giờ biết cúi mình trước người khác, cứng rắn,
mạnh mẽ mà cũng mềm dẻo, khéo léo vô cùng. Một đặc tính khác hầu như không
có ở bất kể loài nào: Đó là vào một thời điểm đặc biệt nào đó, quần thể tre hầu như
tự lão hóa bằng cách đồng loạt trổ bông rồi tự hủy diệt đồng loạt để chuẩn bị cho ra
một thế hệ tre mới. Về điểm này ta không có ý khảo sát đến hoan cảnh sinh thái và
các mặt khoa học khác liên quan thì sẽ thấy một “đức tính” hi sinh cao cả của loài
tre, nó cũng giống như con người Việt ta vậy.
2.2.1. Cây tre trong đời sống vật chất con người Việt Nam.
Tre là một loài cây dễ kiếm và dễ sử dụng, lại có hiệu quả cao. Những ứng
dụng của nó trong cuôc sống hàng ngày đã được chứng minh bằng một thước đo
của lịch sử đó là thời gian. Với đặc điểm là một loài cây rất dễ trồng, lớn nhanh, nó
có thể sống ở vùng nhiệt đới cận nhiệt và phục vụ nhiều lợi ích của con người.
Trong xây dựng: Dùng để làm nhà, lợp mái… Trong công nghiệp: dùng để sản xuất
giấy, chất đốt diesel có thẻ lấy từ cây tre. Trong nông nghiệp: dùng để làm các
dụng cụ lao động như: đòn gánh, quang, xảo, rổ, rá… giúp ổn định đất trồng và bón
phân cho đất. Trong y học: lá tre dùng chữa một số bệnh như: bệnh ngứa, chảy
máu, hen suyễn… Trong thực phẩm: búp non của cây tre là măng có thể ăn được.

Trong âm nhạc: cây tre dùng để làm ra các nhạc cụ âm nhạc như: Đàn Tơ-rưng,
sáo, đàn gió… Trong thủ công - mĩ nghệ: cây tre dùng để làm ra các sản phẩm
trang trí nhà cửa rất đẹp, và tiện dụng như: khung tranh ảnh, bát, đĩa, khay, bàn,
ghế, giường, tủ… Tất cả những lợi ích trên của cây tre đã được nhân dân ta tận
5
dụng từ bao đời, nó có mặt ở hầu khắp các lĩnh vực đời sống, vật chất cho thấy sự
gắn bó và vai trò quan trọng của cây tre với người dân Việt Nam.
Cây tre gắn liền với cuộc đời của làng, của nước:
Mùa mưa lũ, tre là phên dậu, là tấm chắn, là bờ đê thiên nhiên khổng lồ cùng người
chống bão.
Cây tre gắn liền với cuộc đời của mỗi con người chúng ta. Con người từ khi sinh ra,
lớn lên, trưởng thành, không lúc nào là thiếu hình bóng của tre, sản phẩm từ tre:
Tre giúp người từ những công việc lớn lao như dựng nhà, dựng cửa, đến mọi công
việc bình dị hàng ngày với những rổ tre, rá tre, tăm tre,…
Từ những chiếc chõng tre, nôi tre, giường tre, bao thế hệ con người Việt Nam đã
lớn lên.
Rất nhiều người VN (cách đây không phải là đã lâu) lớn lên nhờ những đôi đũa tre
mộc mạc trong các bữa ăn đạm bạc mà đầm ấm tình người; họ lớn lên nhờ những
chiếc đòn gánh tre của bà, của mẹ nhẫn nại, tảo tần hai sương một nắng làm lụng
nuôi con nuôi cháu.
Ngoài ra còn có rất nhiều công dụng khác của tre mà ta khó có thể kể hết ra:
6
Đòn ghánh Bàn ghế làm từ tre
Đàn Tơ-rưng
Măng tre
7
Đàn Tơ-Rưng Măng tre
2.2.2. Cây tre trong đời sống tinh thần của người Việt.
8
Từ xa xưa, cùng với cây đa, bến nước, mái đình, tre đã trở thành đặc trưng,

thành điểm nhấn của làng quê, đất nước Việt Nam. Ngay cả trong xã hội hiện đại
ngày nay chúng ta cũng không thể phủ nhận mỗi khi quá căng thẳng với cuôc sống
thường nhật, khi tóc đã ngả hai màu sương khói, khi bên kia bia đá thời gian đã gõ
nhịp không đều vẫn có một chốn bình yên để chúng ta tìm về. Tre là tín hiệu đầu
tiên để con người nhận ra làng mình. Khắp các đường quê, ngõ quê đều âu yếm mát
rượi bóng tre. Đó là quê hương với lũy tre làng từng vươn những cánh tay dài. Vẫy
chào người ra đi và đón chào người trở lại. Tôi nghe người ta nói hình như đằng
sau lũy tre làng cuôc sống bình dị và thật hơn thì phải!? Tại sao khi nói đến “làng”
người ta luôn kèm theo “lũy tre” mà không phải một cụm từ nào khác? Bởi cây tre
là tâm hồn người Việt, cây tre là loài cây gần gũi nhất với người dân Việt nói chung
và gắn bó mật thiết với “văn hóa làng” nói riêng. Có lẽ chưa bao giờ ta nghe nói
đến “làng mà không nhắc đến “lũy tre”. Tre như cánh tay, cặp mắt của làng đón
bình minh buổi sớm, tiến mặt trời lúc hoàng hôn và tự tình với trăng và sao trời
buổi tối. Những làng Việt cổ ngày xưa luôn có những lũy tre dài bao quanh như
bức tường thành vững chắc bảo vệ, mọi sự xâm lăng. Nó sẽ chẳng là gì so với
những vũ khí hiện đại của đế quốc thời hiện đại khi vào trận tuyến nhưng nó vẫn là
bức tường thành bảo vệ mọi sự xâm lăng văn hóa. Từ thuở hồng hoang của dân tộc,
tre đã cùng người anh hùng làng Gióng đánh đuổi giặc Ân đem lại thái bình cho đất
nước. Đất lâm nguy binh biến, những luỹ tre làm thành chiến hào chống giặc.
Thánh Gióng cầm tre đánh giặc
9
lại thái bình cho đất nước. Đất
lâm nguy binh biến, những luỹ tre
làm thành chiến hào chống giặc.
Thánh Gióng
cầm tre đánh giặc
Luỹ tre, gậy tre,… đã góp phần
làm nên chiên thắng vẻ vang cho
dân tộc:
Trong 2 cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tre cùng

con người xung phong ra trận. Tre mở đường, tre kéo pháo, tre làm bàn chông
xuyên thủng quân thù
Luỹ tre, gậy tre, chông tre,… đã làm
thành những vũ khí thô sơ song đầy sức
mạnh chống lại xe tăng, đại bác, súng đạn
quân thù, góp sức lớn lao làm nên những
chiến thắng lẫy lừng, vang dội của quân
và dân đất Việt.
Chông tre đánh
giặc
Thế nhưng dù có tìm mọi cách để xâm lăng văn hóa thì đằng sau những lũy tre
làng ấy bọn chúng vẫn không thể bắt dân ta thay đổi. Tất cả những gì được bao bọc
bởi lũy tre làng đều được dân ta gìn giữ thành những nét bản sắc riêng mà chỉ dân
tộc Việt Nam mới có. Mọi sự xâm lăng văn hóa khi bắt gặp “lũy tre làng” đều bị
chặn lại, dễ bây giờ chúng ta vẫn còn có những ngôi làng điển hình, làng cổ, làng
nghề truyền cho thế hệ sau. Cũng chính những câu ca, điệu hát, lời thơ dân gian đã
được lưu giữ và phát triển đằng sau lũy tre làng ấy. Điều đó giải thích tại sao ngày
10
xưa người dân Việt Nam mù chữ nhưng để lại những giá trị văn chương đồ sộ đến
vậy. Từ những cụ già tóc bạc đến những thanh niên thuở trước, có ai biết chữ đâu
mà ai cũng thuộc truyện Kiều của Nguyễn Du. Đó là một điều kì diệu mà lũy tre
làng đã làm được. Trong thế giới nghệ thuật, cây tre đã trở thành quá quen thuộc, là
biểu tượng hình mẫu của nhiều tác phẩm. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà tôi
thấy hình ảnh cây tre được in lên trong bìa của cuốn “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của
Giáo sư Trần Quốc Vượng. Trong văn chương bình dân, cây tre là hình ảnh thân
thương bất khả phân li, gợi lên bổn phận và trách nhiệm gánh vác gia đình, non
nước của một người làm trai. “Ba đời, bảy họ nhà tre Hễ cất lấy gánh, nó đè lên
vai” Hay để nói lên lòng thương con vô bờ bến của tình mẫu tử thiêng liêng. “Vì
dầu cầu ván đóng đinh.Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi. Khó đi mẹ dắt con đi. Con
đi trường học, mẹ đi trường đời” Hình như những tác phẩm viết về cây tre đều là

những tác phẩm bất tử. Ta chẳng thể quên bài thơ của Nguyễn Duy. “Tre xanh,
xanh tự bao giờ? Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh.Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi! Ở đâu tre cũng xanh tươi. Cho dù đất sỏi, đá vôi
bạc màu”(2). Hay bài thơ “Viếng Lăng Bác” của Viễn Phương cũng viêt: “Con ở
miền Nam ra thăm Lăng Bác, Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát, Ôi hàng tre
xanh xanh Việt Nam, Bão táp mưa xa đứng thẳng hàng”(3). Theo quan niệm của
người phương Đông, Tre, trúc tượng trưng cho mẫu người quân tử: cứng mà mềm
mại, đổ mà không gãy, lòng rỗng không biểu trưng cho tinh thần và khí độ an nhiên
tự tại, không mê đắm quyền lợi, vật chất. Tre, trúc biểu lộ tính cách cảu dân tộc
Việt, một dân tộc có tiết tháo phẩm hạnh và kiêu hùng, ngoan cường.
Cây tre còn gắn với đời sống văn hoá, đời sống tinh thần của người dân Việt:
Cây tre, rặng tre, luỹ tre đã cùng lời ru của bà, của mẹ nuôi dưỡng bao tâm hồn thơ
trẻ bên cánh võng ầu ơ
Cây tre đã đi vào thơ, ca, nhạc, hoạ. Có biết bao câu ca, điệu hát, câu chuyện nói về
tre. (Thân tre cứng cáp, dẻo dai. Người VN có câu: “Tre dẫu cháy, đốt ngay vẫn
11
thẳng”. Tre, trúc tượng trưng cho khí tiết con người thẳng ngay, bất khuất. Nhìn
cây tre, con người suy ngẫm, triết lý: “Tre già măng mọc”, “Tre non dẽ uốn”, “Lạt
mềm buộc chặt”,…)
Trong ngày tết Nguyên đán không thể thiếu những
sợi lạt tre, lạt giang để gói những chiếc bánh chưng
xanh mang hồn dân tộc.
Cây tre còn gắn với tuổi thơ, làm say lòng bao đứa
trẻ bởi tiếng sáo tre, sáo trúc vi vút lưng trời.
Lạt tre gói bánh chưng
Tre còn giúp con người thổ tình cảm, sẻ chia tâm sự tâm tình:
“Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ là đan sàng nên chăng?
Đan sàng thiếp cũng xin vâng
Tre non đủ lá nên chăng hỡi chàng?”

“Lạt này gói bánh chưng xanh
Cho mai lấy trúc, cho anh lấy nàng”
Măng non là búp măng non– Hình ảnh măng non được lấy làm biểu trưng trên phù
hiệu của thiếu nhi Việt Nam – biểu trưng cho thế hệ mầm non, tương lai của đất
nước.
2.2.3. Sự biến đổi của biểu tượng cây tre từ quá khứ đến hiện tại.
Cây tre đã đi và văn hóa Việt Nam như một hình ảnh bình dị mà đầy sức
sống, dẻo dai chống chịu thiên tai, gió bão và giặc ngoại xâm. Thế nhưng những
năm gần đây, có một thực tế đáng buồn là loại cây đa dạng, thiết thực trong mọi
mặt đến nay đá bị coi nhẹ, bị chặt phá, bị thoái hóa bởi nhiều nguyên nhân khác
nhau. Có mặt ở nhiều nước châu Á như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên,
Phi líp pin, Inđônêxia . Từ xa xưa cây tre cũng gắn bó với nhân dân Việt Nam từ
12
nghìn năm rồi. Hình ảnh làng quê Việt Nam từ xưa gắn liền với lũy tre làng -
những bụi tre gai ken dày chắn gió bão thiên tai và che chắn cho mỗi làng Việt
trước trộm đạo, giặc cướp và kẻ xâm lược - thiên tai. Không thể kể hết tính đặc
dụng của tre . Người dân Việt Nam làm nhà cửa (kèo, lanh tô, xa phên liếp, vách
tường …) và vô số vật dụng: cái cần câu, vó cất tôm, cất tép, cái đó, bè mảng, cái
cầu ao, cầu bắc qua mương, kênh. Đồ gia dụng: bàn chế, giường chõng, vật sụng
sinh hoạt: đòn gánh, đôi quanh để gánh mọi thứ ra đồng rồi về nhà, làm trạn bát,
khung cửu, quay sợi, rổ, rá, dần, sàng, rế đựng nồi, gáo múc nước, chào đời, quạt
nan, đôi đũa, cái tăm… nhiều thứ vật dụng làm bằng tre. Ngày nay vật dụng của
nhà nông, vũ khí thời xưa có phần có phần cán, phần tay cầm làm bằng một loại
cây nào đó thuộc họ tre. Vây gậy tầm vông thời đánh Pháp xâm lược đã trở thành
chứng tích đi vào lịch sử. Cây Nêu dựng lên trước cửa nhà vào dịp năm mới thời
xưa để trừ ma quỷ, cái ống đựng bút và quản bút lông của các nhà Nho mà những
năm gần đây về nơi thôn dã ta còn thấy, đến những cánh diều mà hôm nay tre con
còn chơi… tất cả đều làm từ tre. Vật dụng ngày càng có vẻ thuận tiện hơn, có vẻ
đẹp đẽ hơn đã đẩy chúng ta xa rời thứ cây nhiều lợi ích như thế. Thậm chí có một
thời ấu trĩ người ta đã chặt đi những bụi tre gai quanh làng với những lý do là

chúng làm đất bạc màu. Những rặng tre rợp bóng ở đường làng, nghiêng xuống bờ
ao không còn mấy nữa. Nhiều người quên mất rằng bao đời tổ tiên người Việt khai
phá đồng bằng Bắc bộ được như ngày hôm nay là do đắp đe chống lụt trị thủy,
những triền đê được giữ vững trước nước lụt, bão tố ngoài phần công sức của
người Việt xưa bao đời bồi đắp thì còn có phần công sức của những bụi tre có tác
dụng giữ đất, chống xói lở. Nhưng xem ra chỉ có ở Việt Nam là cây tre và các loại
trẽ vẫn bị bỏ quên. Hiện nay, khoảng hơn 1000 loài thuộc họ tre đã được trồng ở
nhiều nơi trên thế giới nhất là những nơi có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt. Các
nước phát triển ngày càng coi trọng cây tre và ưa thích các sản phẩm chế biến từ
tre. Ở các nước Đông Á - nơi được coi là cây hương của cây tre đang có xu hướng
13
quay trở lại sử dụng các vật liệu có nhiều đặc tính quí báu này trong mọi mặt của
đời sống. Một ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm từ tre đã ra đời và phát
triển mạnh ở một số nước châu Á, điển hình là Trung Quốc, Triều Tiên, Thái Lan.
Đã có một thời, tre và một số cây thuộc họ tre đã được chúng ta sử dụng chế biến
xuất khẩu, khi thị trường truyền thống với hàng mây tre Việt Nam là Liên Xô và
các nước Đông Âu không còn, ngành thủ công mỹ nghệ mây tre lạc hậu và công
nghệ của ta đã suy sụp. Sau một số năm, khi các dặng tre làng trở nên hiếm thì tre
nứa chỉ được sử dụng chủ yếu làm nguyên liệu giấy và sử dụng với nhu cầu nhỏ ở
thôn quê, chỉ một số loại tre. trúc được trồng làm cây cảnh, được coi là có giá trị
kinh tế. Gần đây cây tre được quan tâm trở lại còn việc nghiên cứu cải tạo giống
tre, trúc không biết bao giờ mới được tiến hành. Phong trào trồng cây ở một số địa
phương gần đây là một tín hiệu đáng mứng. Cây tre - loại cây mà có thời gần gũi
với người Việt Nam cũng như cây lúa hy vọng sẽ tìm lại được vị thế xứng đáng của
nó.
3. KẾT LUẬN
Trở lại vấn đề tranh luận ở phần mở đầu, để thay cho lời kết luận, tôi xin kể một
câu chuyện mà tôi đã được nghe. Năm 1985, khi người dân Việt Nam di cư sang
Đức nhiều, một nhà văn Đức đã viết một tác phẩm với nội dung như sau: có một
người Đức sang Việt Nam du lịch, khi về mang theo một mảnh thân tre, anh ta để

dựa ở chậu cảnh. Một thời gian sau, từ mảnh thân tre đó đã nảy rễ bám đất và sinh
sống, phát triển thành một cây tre khỏe mạnh. Từ cây tre nhanh chóng phát triển
thành cả bụi tre lớn và rễ của nó đã làm bật cả ngôi nhà của anh người Đức. Dần
dần, từng lũy tre đua nhau mọc lên khiến cả nước Đức phải lo lắng. Từ đó đặt ra
14
yêu cầu nước Đức phải nhanh chóng tiêu diệt những cây tre Việt Nam. Câu chuyện
trên có ý nghĩa gì: Ngoài ý nghĩa chính của nó theo ý đồ của tác giả là bêu xấu
người dân Việt Nam và mong muốn tiêu diệt nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt
Nam thì còn có một ý nghĩa khác. Tại sao một nhà văn Đức lại chọn hình ảnh cây
tre làm hình tượng thay cho người dân Việt Nam? Có lẽ chỉ có thể giải thích một lí
do rằng: cây tre - biểu tượng văn hóa Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1): Hà Phương, Cây tre mới là biểu tượng văn hóa Việt, VietNamNet,
/>viet.html, 03/12/2014
(2): Nguyễn Duy, Cát Trắng, Nxb Quân đội nhân dân, 1973
(3): Viễn Phương, Như mây mùa xuân, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1978
15

×