Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

BI KỊCH CỦA HẠNH PHÚC GIỮA ĐỜI THƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.43 KB, 28 trang )

I.MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Dạ Ngân là một trong số không nhiều cây bút văn xuôi đến từ miền
Tây Nam Bộ , trưởng thành trong đội ngũ các tác giả xuất hiện sau năm 1975.
Mặc dù được dư luận đặc biệt chú ý kể từ sau truyện ngắn “Con chó và vụ ly
hôn” (1985) khi lần đầu tiên , những chuyện thầm kín khó nói của đời sống vợ
chồng được một nhà văn nữ phơi bày thẳng thắn nhưng sự hiện diện nở rộ của
một loạt tên tuổi nữ sĩ trẻ : Nguyện Thị Thu Huệ , Y Ban , Phan Thị Vàng Anh ,
Lý Lan …..trong thập kỉ 90 sau đó dường như khiến bạn đọc bỏ lại đằng sau cái
tên “Dạ Ngân” . Song , trải qua hơn một phần tư thế kỉ cầm bút suốt trong Nam
ngoài Bắc , người phụ nữ miệt vườn viết văn ấy đã chứng minh được sức bền
trong sáng tạo nghệ thuật khi chị lần lượt cho ra đời cả thảy mêi đầu sách , kịch
bản phim, và mới đây nhất là tiểu thuyết “Miệt vườn xa lắm” , “Gia đình bé
mọn” cùng hàng trăm tản văn , hàng nghìn kì thư “Tư vấn gia đình” với bút
danh Dạ Hương .
Bằng một vốn sống đủ đầy từng trải , bằng chất văn hồn hậu , tinh tế ,
phóng khoáng mà cũng cẩn trọng đến từng chi tiết , những trang viết của Dạ
Ngân thực sự đã tạo được một chỗ đứng vững vàng trong lòng độc giả giữa dòng
chảy ồ ạt của văn chương hiện nay .
1.2 “Gia đình bé mọn” là cuốn tiểu thuyết thứ hai trong văn nghiệp của
Dạ Ngân ( sau “Miệt vườn xa lắm”) và được xem là tác phẩm thành công nhất
của chị cho tới thời điểm này khi vinh dự được nhận liền hai giải thưởng của
Hội Nhà Văn Hà Nội (2005) và Hội Nhà Văn Việt Nam (2006) ; đồng thời mới
đây trở thành cuốn tiểu thuyết đầu tiên ở Việt Nam được nhà xuất bản Curbstone
Press dịch sang tiếng Anh , xuất bản ở Mỹ với sự chuyển ngữ của bà Rosemary
Nguyễn – một trong hai người phụ nữ nói tiếng Việt giỏi nhất nước Mỹ được
mệnh danh là thần đồng ngôn ngữ Việt Nam.
Với những thành công nhất định như trên và con số năm lần tái bản ở Việt
Nam là minh chứng đầy thuyết phục cho sức hấp dẫn mạnh mẽ của tác phẩm đối
1
với công chúng , một lần nữa khẳng định chắc chắn hơn độ chín cũng như sức


bền của ngòi bút Dạ Ngân .
295 trang tiểu thuyết xoay quanh cuộc đời , số phận của nữ nhà văn Mỹ
Tiệp- một người con gái miền Tây viết văn , đầy cá tính , có nhan sắc và khát
vọng mãnh liệt trong tình yêu , hạnh phúc . Cuộc chiến tranh chống Mỹ ác liệt
đã dàn xếp hôn nhân của cô với anh chồng Hai Tuyên , một người đàn ông chỉ
khư khư với cương vị Phó Phòng tuyên truyền , có thể thao thao bất tuyệt những
bài giảng về : “ thế nào là nếp sống mới con người mới” nhưng cũng có thể lạnh
lùng tới tàn nhẫn khi bỏ mặc vợ nằm trong phòng sản phụ một mình : “trơ ra
như một con mẹ hoang thai dơ dáy” [ 7;50] . Không thể chịu đựng được người
chồng cằn cỗi , tiểu nhân , biết yêu heo hơn con , thích viết báo cáo để thăng
chức hơn là ngắm nhìn vợ , Tiệp đã quyết tâm từ bỏ vở bọc hào nhoáng về mái
ấm hạnh phúc bề ngoài để tìm tới người mình yêu thực sự . Hành trình gần hai
mươi năm trời khổ ải , có cả niềm vui sướng được sống bên người yêu dấu
nhưng cũng đầy nước mắt chua xót khi phải đối mặt với sự chì chiết của họ tộc ,
sự khinh khi của bạn bè , bão táp của giới chức sắc trong tỉnh …..và nhất là sự
giằng xé đau đớn giữa một bên là tình mẫu tử , một bên là tình yêu đã khiến cho
Tiệp phải sau bao nhiều giành giật và vùng vẫy mới tìm được bến bờ hạnh phúc
trọn vẹn với nhà văn Viết Đính . Mối tình đeo đẳng gần hai mươi năm trời suốt
dọc chiều dài Nam Bắc , những cay đắng tủi nhục , niềm hạnh phúc mong manh
dễ vỡ , những giằng xé ghê gớm trong nội tâm nhân vật khi phải tự đấu tranh , tự
vượt qua nghịch lý lựa chọn giữa một bên là gia đình “chính danh” với một bên
là tình yêu hạnh phúc đích thực đã tạo thành dấu ấn đậm nét và sức hấp dẫn
mãnh liệt cho thiên tiểu thuyết này .
Ngoài ra , tác phẩm với tư cách thể loại là tiểu thuyết cũng ẩn tàng trong
đó những chất liệu hiện thực sống động về bức tranh xã hội thời kì hậu chiến ,
số phận con người dưới sức ép chiến tranh và những ràng buộc trong mối quan
hệ gia tộc – xã hội ...Một khối lượng trang viết tuy chưa được đồ sộ nhưng chứa
đựng nhiều vấn đề phức tạp , nhạy cảm của xã hội Việt Nam thời kì hậu chiến ,
vấn đề số phận cá nhân trong các mối quan hệ , vấn đề hạnh phúc gia đình ,
2

những bi kịch mất mát ….đã khiến “Gia đình bé mọn” thực sự trở thành tác
phẩm đầy thách đố đối với giới phê bình quan sát cũng như độc giả yêu mến văn
học .
1.3 Đề tài “ Bi kịch hạnh phúc của người phụ nữ” trước hết là một nội
dung không hoàn toàn mới mẻ trong văn học , thậm chí đây còn là vấn đề mang
tính truyền thống , được các nhà văn nhà thơ đi sâu khai thác phản ánh vô cùng
phong phú , đa dạng . Tuy nhiên ở mỗi thời điểm lịch sử cụ thể , trên những góc
độ tiếp cận khác nhau , nó lại được nhìn nhận theo từng cách riêng của người
viết . Hơn thế nữa đặt vấn đề này trong toàn bộ tiểu thuyết “ Gia đình bé mọn”
chúng tôi nhận thấy đây là nội dung có tính xuyên suốt cả tác phẩm , bên cạnh
nhiều vấn đề rộng lớn hơn : Bức tranh xã hội Việt Nam thời bao cấp , sự xếp đặt
của chiến tranh đối với số phận con người ….Đồng thời cuộc tình sóng gió bền
bỉ và dai dẳng của nhân vật chính cùng những mâu thuẫn giằng xé đau đớn trong
nội tâm về gia đình , về hạnh phúc , về tình yêu với tất thảy bi kịch đời thường
nhất còn mang dáng dấp của những sự thực sâu kín trong đời tư nhà văn, tạo
thêm sức hấp dẫn riêng đặc biệt cho thiên truyện .
Bên cạnh đó , theo quan sát và quá trình tìm kiếm thu thập tài liệu , chúng
tôi nhận thấy rằng , những tác phẩm viết về bi kịch hạnh phúc đời tư , những
trăn trở về tình yêu , hôn nhân , gia đình mặc dù nhiều về số lượng song chủ yếu
lại được thể hiện dưới hình thức loại thể truyện ngắn , còn đối với tiểu thuyết –
thể loại cùng phương thức tự sự , việc biểu đạt những bi kịch giằng xé về hạnh
phúc gia đình tình yêu của người phụ nữ đòi hỏi ngòi bút của nhà văn vừa phải
sáng tạo nhưng vừa phải thấm đẫm chất trải nghiệm để đủ sức theo đuổi một
đoạn trường bi kịch với bao hệ lụy . Đứng từ góc độ đó để tiếp cận nhà văn và
tác phẩm , chúng tôi tin tưởng rằng : Thông qua việc tìm hiểu bi kịch của người
phụ nữ trong hạnh phúc , tình yêu , hôn nhân chúng ta sẽ có một cái nhìn đầy
đủ , thấu đáo hơn về tâm tự khát vọng thầm kín , chân thực nhất của họ giữa
cuộc sống đời thường cũng như cuộc đấu tranh tự vượt qua chính mình , tự vươn
lên sống đúng với khát khao chính đáng của mình . Qua đây , chúng ta cũng ghi
nhận thêm đóng góp của Dạ Ngân khi đưa ra cách nhìn tiến bộ về vấn đề hôn

3
nhân , tình yêu , gia đình của người phụ nữ trong xã hội còn bủa vây nhiều định
kiến .
2. Lịch sử nghiên cứu
Có thể nói , trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại các tác phẩm viết về
bi kịch hạnh phúc của người phụ nữ trong tình yêu , trong hôn nhân gia đình
chiếm một số lượng không nhỏ . Đặc biệt , kể từ sau công cuộc Đổi Mới
(12/1986) , văn học nghệ thuật cũng thực sự chuyển mình trong xu hướng chung
của văn học đất nước , chứng kiến sự bứt phá ngoạn mục của hàng loạt các cây
bút nữ mà sáng tác của họ đã dám đi sâu khai thác những vấn đề nhạy cảm : Bi
kịch của người phụ nữ , nỗi cô đơn , đau khổ trong tình yêu hạnh phúc gia đình
tan vỡ , những khát vọng thầm kín của bản năng con người …Công chúng yêu
văn học thực sự không khỏi ngạc nhiên trước sự xuất hiện của một Nguyễn Thi
Thu Huệ tinh tế tài hoa mà vô cùng gần gũi khi chị miệt mài đi tìm kiếm hạnh
phúc của con người thực tại trên trang văn đậm chất nữ tính của mình ; hay một
Võ Thị Hảo sắc sảo đến chát chúa mà vẫn đau đáu trong sâu thẳm khi nói về
những mất mát không dễ gì bù đắp của người phụ nữ đến và đi ra từ chiến tranh
trong “ Người sót lại của rừng cười” [17;134] , một Y Ban luôn trăn trở trước
những khát vọng thầm kín về hạnh phúc lứa đôi , về những mong mỏi đầy bản
năng của người phụ nữ khi tình yêu bị đánh cắp trong “ Bức thư gửi mẹ Âu Cơ”
[17;42] ….
Nghiên cứu về vấn đề này ,các nhà phê bình lý luận,các học giả đã chú ý
tìm hiểu và đưa ra nhiều nhận xét đánh giá về phương thức phản ánh sáng tạo
của nhà văn(đặc biệt là các nhà văn nữ )trong quá trình khai thác số phận người
phụ nữ trên nhiều bình diện khác nhau.Trên “Tạp chí Văn học” số 6/1996 đã
đăng tải tường thuật buổi tọa đàm “Phụ nữ và sáng tác văn chương” trong đó tập
trung ý kiến của các nhà nghiên cứu ,phê bình lẫn sáng tác như Văn Tâm,Đặng
Anh Đào,Lê Minh Khuê,Ngô Thế Oanh,Lại Nguyên Ân,Đặng Minh Châu,Phạm
Xuân Nguyên,Vương Trí Nhàn…Ông Vương Trí Nhàn khẳng định rằng: “Phụ
nữ bắt mạch thời nhanh hơn nam giới.Họ luôn gần gũi với cái lỉnh kỉnh dở dang

của đời sống .Mặt khác ,với cái cực đoan sẵn có tốt , dịu dàng , rộng lượng thì
4
không ai bằng mà nhỏ nhen , chấp nhặt , dữ dằn cũng không ai bằng”. Huỳnh
Như Phương trong bài viết : “ Văn chương nữ giới – một cách thể hiện ở đời” đã
khẳng định : “ Qua văn chương , người phụ nữ không muốn để cho nam giới độc
quyền kết luận về ý nghĩa cuộc đời này , độc quyền đau khổ trước những bi kịch
và độc quyền tìm cách ứng phó với bi kịch đó” [ 13;136] . Với “Tuyển văn các
tác giả nữ Việt Nam” , các nhà phê bình đã đưa ra một nhận xét rất chính xác
khi đề cập đến sáng tác của một số cây bút nữ đương đại : “ Trong những tranh
viết của các tác giả nữ đương đại , ta luôn tìm thấy những vang hưởng mạnh mẽ
thời đại chúng ta đang sống . Và cũng trên những trang viết của họ , ta cũng tiếp
cận được một nữ tính phức tạp hơn nhưng đồng thời cũng phong phú hơn những
gì ta vẫn quan niệm trong quá khứ” [12;8] . Rõ ràng , lược khảo qua một số bài
phát biểu trên báo chí , một số chuyên luận như vậy , chúng ta có thể thấy được
vị trí và ý nghĩa quan trọng trong sáng tác của các cây bút nữ hiện đại cũng như
ghi nhận những đóng góp của văn chương nữ quyền giữa dòng chảy văn học .
Thời gian gần đây , một số khóa luận tốt nghiệp và Thạc sĩ khoa học đã công bố
cũng lựa chọn tìm hiểu về đề tài người phụ nữ như :
+ Nhân vật nữ trong truyện ngắn của ba tác giả : Y Ban , Võ Thị Hảo ,
Nguyễn Thị Thu Huệ ( Luận văn Th.S KH , ĐHSPHN , 2003. Nguyễn Thị Hoa)
+ Bi kịch con người thời hiện đại qua truyện ngăn của ba tác giả : Trần
Thị Trường , Võ Thị Hảo , Nguyễn Thị Thu Huệ ( Khóa luận tốt nghiệp ngành
Văn học , ĐHKHXH&NV , 2000 . Trần Thị Hoài Hương )
+ Truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kì Đổi Mới qua bốn tác giả :
Nguyễn Thị Thu Huệ , Y Ban , Phan Thị Vàng Anh , Lý Lan ( Luận văn Th.S
KH , 2004 . Lê Thị Hương Thủy )
Như vậy điểm lại các công trình nghiên cứu , các chuyên luận , tọa đàm
tra đổi văn học nghệ thuật trên báo chí …trong quãng thời gian hơn một thập
niên như trên , mặc dù chưa thực sự có khả năng bao quát toàn diện nhưng bước
đầu chúng tôi nhận thấy : Hầu hết các đề tài khoa học , các cuộc tranh luận trên

diễn đàn , các chuyên luận …hiện mới dừng ở việc khảo sát và tìm hiểu chân
dung người phụ nữ cùng số phận của họ ở mức độ chung khái quát qua một loạt
5
các tác giả nữ cùng thời cũng như chú ý đi sâu vào thể loại truyện ngắn , một thể
loại cùng phương thức tự sự như tiểu thuyết nhưng chỉ nhấn mạnh số phận nhân
vật tại một thời điểm có ý nghĩa quyết định mà không theo suốt chặng đường
trường của nhân vật ấy .
Tác phẩm “ Gia đình bé mọn” của Dạ Ngân xuất hiện trên thi đàn văn
học khoảng hai năm nay bên cạnh rất nhiều dòng văn “ăn khách” như : Tập
truyện “Bóng đè” ( Đỗ Hoàng Diệu ) , “Cánh đồng bất tận” (Nguyễn Ngọc Tư) ,
Tiểu thuyết “Paris 11 tháng 8” ( Thuận ) ….gần hơn nữa là những tiểu thuyết
của một số nhà văn rất trẻ thuộc thế hệ 8X : Nguyễn Thế Hoàng Linh , Nguyễn
Quỳnh Trang …. Mặc dù đi vào khai thác một đề tài có phần xưa cũ nhưng tác
phẩm này vẫn có chỗ đứng vững chắc trong lòng bạn đọc với vị thế riêng không
dễ gì trộn lẫn giữa muôn vàn đầu sách , càng khẳng định chắc hơn sức bền của
ngòi văn đàn chị Dạ Ngân . Tác phẩm mặc dù có những thành công nhất định
như đã nêu trên song việc phê bình nghiên cứu , tìm hiểu “ Gia đình bé mọn”
hiện tại cho tới nay mới chỉ dừng ở các bài điểm sách , những tin vắn về việc in
nối bản tiểu thuyết cùng một số cuộc phỏng vấn và viết chân dung nhà văn . Vì
vậy khi tìm hiểu tác phẩm này , chúng tôi thử đi sâu khai thác một bình diện ,
làm sáng rõ hơn bi kịch xuyên suốt mà Dạ Ngân đặt ra bên cạnh nhiều nội dung
rộng lớn hơn : Bi kịch hạnh phúc của người phụ nữ . Thông qua đó , chúng ta sẽ
có ánh nhìn nhân văn , đồng cảm và đa diện hơn đối với khát vọng thầm kín của
nỗi đau đời thường trong người đàn bà , cuộc đấu tranh vùng quẫy vượt lên và
khẳng định chính mình giữa vòng vây xã hội đang bề bộn ngổn ngang nhiều
thay đổi . Đồng thời với quá trình nhìn nhận , tìm hiểu bi kịch hạnh phúc người
phụ nữ trong một tác phẩm tiểu thuyết như thế này chúng ta có thể ghi nhận thấu
đáo và sắc nét hơn phong cách nghệ thuật trên từng con chữ của nhà văn Dạ
Ngân .
3. Phạm vi nghiên cứu

- Đề tài được triển khai trên hai cấp độ :
1. Bi kịch hạnh phúc của người phụ nữ giữa đời thường
1.1 Bi kịch của những nỗi đau mất mát và sự đổ vỡ niềm tin .
6
1.2 Bi kịch của sự vỡ mộng
2. Bi kịch của sự giằng xé trong nội tâm người phụ nữ
2.1 Bi kịch của nghịch lý lựa chọn giữa tình yêu và tình mẫu tử
2.2. Bi kịch của của nghịch lý lựa chọn giữa khát vọng bản năng và nghĩa
vụ gia đình
- Đối tượng khảo sát chính là tác phẩm “Gia đình bé mọn” gồm 20
chương , chủ yếu đi sâu vào cuộc đời của nhân vật chính Mỹ Tiệp .
4. Phương pháp nghiên cứu
- Khảo sát và phân tích tác phẩm , tìm hiểu ý kiến đánh giá của giới phê
bình chuyên môn , của độc giả và của chính nhà văn xung quanh vấn đề được
nghiên cứu
- Tổng hợp , khai thác hiệu quả những công trình khoa học đã công bố
liên quan tới vấn đề và đưa ra một số quan điểm của bản thân
- Vận dụng linh hoạt các phương pháp nghiên cứu khác nhau để làm sáng
tỏ vấn đề :
+ Phương pháp phê bình tiểu sử và phê bình lịch sử
+ Phương pháp phê bình xã hội học , với các vấn đề quan hệ giữa cá nhân
và cộng đồng , gia đình
+ Phương pháp so sánh đối chiếu khi đánh giá đối chiếu với một số tác
phẩm cùng đề tài
- Thi pháp học : Xem xét hiệu quả các thủ pháp kĩ thuật , yếu tố tự sự :
Độc thoại nội tâm , không gian , thời gian …
5. Cấu trúc đề tài
Ngoài Mở đầu và Kết luận , đề tài gồm 2 phần :
Bi kịch hạnh phúc giữa đời thường của người phụ nữ
Bi kịch của những giằng xé trong nội tâm

Cuối cùng là Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo
7
II.NỘI DUNG
1. BI KỊCH CỦA HẠNH PHÚC GIỮA ĐỜI THƯỜNG
Tác phẩm “Gia đình bé mọn” lấy bối cảnh không gian chính là xã hội Việt
Nam những năm sau 1975 giải phóng hoàn toàn đất nước và nhân dân bước vào
một thời kì bao cấp chật vật , đầy rẫy khó khăn , hà khắc , bủa vây lấy cuộc sống
và tinh thần con người . Hình ảnh những người thân yêu ruột thịt trong gia đình
Mỹ Tiệp từ cô Ràng , chị Hai Hoài , đến chị Mỹ Nghĩa và cô em Mỹ Út đều là
sản phẩm con người của chiến tranh , họ đến và đi ra từ chiến tranh vì vậy số
phận của những người đàn bà này gắn liền với dấu vết khắc nghiệt của chiến
tranh . Chính vì thế , giữa cuộc sống thường nhật hàng ngày khi phải đối mặt với
nghịch cảnh đời thường , những người phụ nữ lập tức vấp phải bi kịch cũng
khốc liệt chẳng kém sự nguy nan của chiến tranh chống Mỹ , đó là bi kịch của
niềm hạnh phúc nhỏ bé giữa đời thường , được chúng tôi đi sâu vào hai nỗi đau
lớn hơn cả : nỗi đau vì những mất mát và đổ vỡ trong tinh thần không dễ gì bù
đắp cùng nỗi đau của sự vỡ mộng đang hàng ngày hàng giờ xâm chiếm tâm hồn
của những người phụ nữ miền Tây miệt vườn trong gia đình Mỹ Tiệp .
1.1. Bi kịch của những nỗi đau mất mát và sự đổ vỡ trong tâm hồn người
phụ nữ .
Mỹ Tiệp , một nhà văn miệt vườn Tây Nam Bộ vốn là con một liệt sĩ Côn
Đảo bị địch thủ tiêu , 14 tuổi đã bỏ nhà đi theo anh trai Năm Trường vào Cứ
kháng chiến . Cuộc sống giữa cảnh chiến tranh giặc giã và bom đạn ngặt nghèo
không chỉ đánh cắp tuổi thanh xuân của người con gái ấy mà còn đẩy cô vào
cảnh huống bi kịch khi cô không được tự mình lựa chọn và thu xếp cuộc hôn
nhân . Chồng cô – Hai Tuyên là một anh tuyên giáo chỉ chăm chăm tiến thân
bằng mọi cách mà coi vợ con không bằng heo cúi trong nhà . Gã đàn ông mà
chiến tranh xếp đặt ấy “ thuộc nhóm máu cá , xa môi trường nước của công sở
một lát là anh không chịu nổi và sự tận tụy tuyệt đối của anh với cương vị Phó
Phòng tuyên truyền của Ban là đáng được thông cảm và đề cao”[7;51] . Hai con

người khốn khổ ấy là nạn nhân của cuộc chiến tranh khốc liệt nên khi Mỹ Tiệp ,
8
lúc đó còn là cô thiếu nữ trinh nguyên đã phải nếm mùi thân xác lần đầu tiên
trong cái công sự ấy với anh thanh niên Hai Tuyên đang dũng cảm kéo cô ra
khỏi làn mưa bom bão đạn : “Tai Tiệp ù đặc , mắt nang long lanh cảm thán vì
Tuyên đã nắm được tóc nàng kéo lên đúng lúc và đã ấn nàng xuống cái công sự
như cái lỗ huyệt này . Nàng cười sằng sặc rồi nàng mếu máo khóc , bỗng nàng
nín bặt vì nghe thấy có hai bàn tay đang áp vào hàng nút áo bung ra tự bao h ,
hai trái ngực nàng đang săn lên , run rẩy bởi đôi bàn tay ngốn ngấu trong thứ
nước màu sữa đục , lạ quá , cảm giác được mơn trớn mà cũng được dầy vò ,
nâng lên hạ xuống trong mặt nước có mùi âm phủ” [7;101] . Nỗi đau thể xác
nguyên sơ ấy giữa không gian bao trùm một màn âm âm như lỗ huyệt chỉ là sự
khởi đầu cho một loạt những bị kịch oái oăm trong đời sống hôn nhân vợ chồng
không có tình yêu mà chính Mỹ Tiệp thậm chí chẳng thể ngờ rằng nó lại đau
đớn , dai dẳng và khốn khổ như vậy . Ngay sau ngày hòa bình lập lại , cuộc hôn
nhân trong chiến tranh ấy của nàng tức khắc đã lên tiếng vì những sự thật mà hồi
ở Cứ nàng vẫn mơ hồ chưa nhận ra ( dù cho khi đó Tiệp đã sinh Thu Thi – con
gái đầu lòng ) : “ Hồi mới cưới , con tim nàng không chịu rung động nó cứ lên
tiếng rằng đây không phải là người đàn ông của đời mình , đây là cuộc xô đẩy
của chiến tranh , của bom đạn giặc giã nước lụt bụi cây sạp xuồng” [7;52] .
Bước chân vào đời sống vợ chồng sau chiến tranh , Mỹ Tiệp càng ngày càng cay
đắng khi phải chung sống dưới một mái nhà với người chồng cằn cỗi , một
người đàn ông suốt đời cung cúc phục vụ công việc trong phác thảo về sự
nghiệp : Phó thì cố mà lên Trưởng , nên anh ta ham mê viết báo cáo để thăng
chức hơn là ngắm nhìn vợ , biết yêu đàn heo và săm sắm với chúng hơn là nựng
con bởi nó mang lại “niềm vui thực tế”[7;72] . Thậm chí người đàn ông này còn
sẵn sàng bỏ mặc vợ sinh nở một mình giữa cơn đau vật vã chỉ để đến công sở
cho kịp giờ làm , ngay cả khai sinh cho đứa con gái đầu lòng cũng sai ngày …nó
đủ giúp cho ta hình dung phác họa về một người cán bộ bao cấp mẫu mực , chỉn
chu nhưng là người chồng vô trách nhiệm đến tàn nhẫn khôn cùng .

Trong những chương đầu tiên của cuốn tiểu thuyết này , nhà văn Dạ Ngân
đã dẫn dắt người đọc từ từ bước chân vào vùng tối kinh hoàng trong bi kịch của
9
người đàn bà mang tên Mỹ Tiệp khi phải chịu đè nén , khổ ải đến xé lòng vì
chung sống với người đàn ông ti tiện , cằn cỗi là chồng nàng . Nhưng Tiệp là
một nhà văn , một người phụ nữ sắc sảo , gan góc đến quyết liệt , chính cô đã
nhìn thấu và gọi tên thẳng thắn nguyên nhân sâu xa của tình trạng bi kịch mà
mình đang hứng chịu : “Tôi với anh bị chiến tranh đưa đẩy tôi thấy không nên
kéo dài cuộc hôn nhân không có tình yêu này” [7;81] . Ý định ly hôn thực ra đã
nhen nhóm trong đầu óc người đàn bà này ngấm ngầm và dai dẳng từ lâu , có
những lúc nàng muốn tung hê tất cả , muốn đạp đổ tất cả vẻ hào nhoáng yên ổn
bề ngoài và muốn một cuộc chiến tranh ngay lập tức , song nhìn hai đứa con thơ
dại , lòng người mẹ ấy lại nén xuống không đành . Thực ra , khi xây dựng chân
dung Mỹ Tiệp , một người phụ nữ đến và đi ra từ chiến tranh , sớm chịu đầy ải
vì chiến tranh đã sắp xếp cho cô một người chồng không vừa vặn , nhà văn Dạ
Ngân đã giúp chúng ta thấy hình mẫu người phụ nữ “xã hội” hơn rất nhiều :
Giữa những thập niên 80-90 mà dám đơn phương ly hôn với người chồng giữa
hàng loạt tư tưởng khe khắt của xã hội còn tồn tại nhiều định , giữa hàng loạt
búa rìu dư luận , giữa vòng vây của gia tộc …, dám nói thẳng nói thật về cuộc
sống vợ chồng hoàn toàn không bắt nguồn từ chân xác rung động của tình yêu
mà chỉ là sự gán ghép của con tạo . Thực ra ngay từ năm 1985 , với truyện ngắn
“Con chó và vụ ly hôn” , Dạ Ngân đã được dư luận đặc biệt chú ý vì lần đầu tiên
chị đã thẳng thắn đến thành thật khi bóc trần những chuyện khó nói trong đời
sống vợ chồng . Tuy nhiên phải đến tiểu thuyết “ Gia đình bé mọn” tác giả mới
thể hiện năng lực của mình khi dũng cảm soi kĩ vào từng góc khuất trong đời
sống của đôi vợ chồng trẻ với những sóng gió và bão táp ngấm ngầm , một bên
là người vợ - Mỹ Tiệp quá thừa sắc sảo , xông pha và can trường còn một bên là
người chồng – Hai Tuyên quá đỗi tiểu nhân , ti tiện và sặc mùi chức quyền . Nỗi
đau của người phụ nữ trong tác phẩm này là nỗi đau mất mát và tổn thương quá
lớn lao khi hạnh phúc gia đình dẫu là giữa đời thường mà vẫn cứ chông chênh ,

thậm trí còn khốc liệt bởi những xung đột cứ ngày càng sâu sắc . Chứng kiến
cuộc cãi vã bùng nổ giữa hai vợ chồng khi Tiệp không còn chịu đựng nổi người
đàn ông ấy : “Tiệp đứng chết trân thấy rõ cuộc chiến tranh này tàn khốc hơn
10
cuộc chiến đã lấy đi tuổi trẻ của nàng và Tuyên” [7;109] . Rõ ràng trong chân
dung Mỹ Tiệp chúng ta thấy một gương mặt hoàn toàn khác lạ về người phụ nữ ,
không còn dấu vết của người đàn bà cam chịu , an phận , tự hứng chịu và dầy vò
nỗi đau đớn tinh thần một mình để giữ cho mái ấm bề ngoài yên ổn như bao
người đàn bà khác trong xã hội ; mà ở đây ta ngạc nhiên khi theo dõi từng bước
trân trong cuộc đời nang , mỗi bước đi là một lần xông xáo , một lần gan góc ,
một lần dũng cảm nói to lên sự thật về mái ấm gia đình đang đổ vỡ , nơi người
phụ nữ làm vợ mà vừa làm chồng , làm mẹ mà vừa làm cha , một mình xoay xỏa
cáng đáng việc lớn việc bé còn anh chồng chỉ mỗi việc nhăm nhe tiến thủ nào
Học viện , nào “nếp sống mới con người mới” . Khi tìm hiểu nỗi đau đớn mất
mát và tổn thương của người phụ nữ trước hạnh phúc bé mọn đời thường ,chúng
tôi nhận thấy rõ nét hơn ảm ảnh của quá khứ chiến tranh vẫn luôn là mối họa
bao trùm lên hạnh phúc mỏng manh , chông chênh của con người ; hơn thế nữa
cuộc hôn nhân không tình yêu của người phụ nữ đặt dưới bàn tay chiến tranh
dàn xếp , chuyện lấy chồng giữa bom đặt ngặt nghèo giữa lằn giới mỏng manh
của sự sống và cái chết càng khiến cho cuộc đời và số phận người phụ nữ thêm
sóng gió , truân chuyên . Sự mất mát , hụt hẫng và tổn thương to lớn trong tâm
hồn con người bước ra từ chiến trương khốc liệt càng in hằn một dấu ấn sâu đậm
, càng xoáy sâu vào bi kịch hạnh phúc của con người giữa đời thường , dù không
còn tiếng bom rơi đạn lạc song vẫn chẳng kém phần dữ dội , bi thương .
Viết về bi kịch của người phụ nữ trong hạnh phúc “Gia đình bé mọn” , Dạ
Ngân đã cho chúng ta thấy sự tổn thương đau đớn trước những đổ vỡ lớn lao
không dễ gì bù đắp mà chiến tranh để lại đâu chỉ giáng xuống đầu Mỹ Tiệp , cô
nhà văn Nam Bộ can trường mà nó còn bủa vây lấy hết thẩy thân phận đàn bà
trong gia tộc nức danh của nàng , từ cô Ràng thủ lĩnh , cô Ràng trời biển- em
ruột của ba đến chị Hai Hoài , Mỹ Nghĩa và cô em Mỹ Út . Nỗi bất hạnh của

những người phụ nữa bất hạnh đi ra từ chiến tranh , nỗi bất hạnh của một gia
đình và mảnh vườn thiếu vắng người đàn ông là những dẫn chứng đau lòng cho
một thời kỳ đất nước hoạn nạn , tang tóc . “Cái dáng cắm cúi chật vật đau khổ”
của Hai Hoài với thâm niên một thập kỉ ở góa , cái sự quả quyết của thủ lĩnh Tư
11

×