Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Phân tích tập thơ “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.52 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
Tiểu luận
Đề tài: Phân tích tập thơ “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh
Giảng viên hướng dẫn : Phạm Thị giang
Sinh viên : Đặng Thị Thu
Lớp : K50- Sư phạm văn
Hà Nội 2008
1
“Hồ Chí Minh - tên Người là cả một niềm thơ” – câu nói ấy của nhà văn
Cu Ba khiến mỗi người Việt Nam chúng ta thêm tự hào bởi Hồ Chí Minh không
chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc mà còn là một nhà thơ lớn đầy bản lĩnh và
giàu lòng nhân ái. Chúng ta không chỉ kính yêu Người vị sự nghiệp cách mạng
mà còn vì sự nghiệp văn chương đồ sộ, lớn lao về tầm vóc, phong phú về thể
loại thể hiện rõ tài năng và phong cách của Người. Trong sự nghiệp văn chương
Người để lại cho chúng ta ngày nay, Thơ là một lĩnh vực nổi bật nhất. Điều đó
thể hiện rất rõ qua tập Nhật ký trong tù của Người. Nhật ký trong tù là tập nhật
ký bằng thơ được chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác khi Người bị giam cầm trong
lao tù dưới chế độ Tưởng Giới Thạch Trung Quốc những năm 1942 – 1943.
Người không chỉ ghi lại những gì đã trải qua mà đằng sau những áng Đường thi
bất hủ đó là tinh thần, là tấm lòng, là bản lĩnh, là phong thái của người chiến sĩ
cộng sản. Chính vì vậy, Nhật ký trong tù đã trở thành tác phẩm lớn có giá trị sâu
sắc về nội dung cũng như nghệ thuật trong nền văn học Việt Nam.
Lỗ Tấn đã từng nói: “Từ trong mỗi mạch nước phun ra đều là nước, từ
trong mạch máu phun ra đều là máu”. Chính vì vậy mà mỗi bài thơ trong tập
“Nhật ký trong tù”, dù chỉ là sản phẩm bất đắc dĩ – “nhân vị tù trung vô sở vi”
nhưng những tác phẩm ấy vẫn mãi là máu thịt tâm hồn Bác còn lưu lại cho
muôn đời.
Cũng về Nhật ký trong tù, nhà thơ Xuân Diệu viết: “càng đọc đi đọc lại,
càng thấy chùm thơ này là một chuỗi ngọc, một tràng hoa duy nhất”.


Và nhà thơ Hoàng Trung Thông :
“Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác, vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình.”
Thơ Bác là một sự kiện văn học lớn trong đời sống văn học không chỉ ở
Việt Nam mà còn cả trên thế giới. Nhưng Bác không coi mình là nghệ sĩ, không
2
nghĩ mình thực sự làm thơ. Khi có người hỏi Bác về tập Nhật ký trong tù, Bác
đã nói : “ Các chú không nhắc thì Bác cũng không nhớ đến nữa. Bác không phải
là người hay thơ, mà thơ của Bác cũng không hay. Mười mấy tháng bị nhốt trong
cái phòng u ám và quạnh hiu, một hình một bóng, không được nói chuyện với ai,
không có việc gì làm. Muốn du lịch thì đi dọc chỉ năm bước, đi ngang chỉ bốn
bước. Để tiêu khiển ngày giờ chỉ có cách nghêu ngao vắn tắt ghi lại sinh hoạt của
người tù, cho khuây khoả thế thôi, phải thơ phú gì đâu...”
“Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây?
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.”
(Mở đầu tập nhật ký)
Thái độ khiêm tốn đó của Hồ Chí Minh cũng bộc lộ ngay trên sáng tác
của Người. Đồng chí Nguyễn Lương Bằng đã nói: “ Tôi không ngờ Bác lại giản
dị quá đến như vậy. Bác độc đáo ở chính chỗ giản dị rất mực của mình. Xét ra,
giản dị là cả một vấn đề bản lĩnh. Bản lĩnh của Bác cao hơn “văn chương” nên
“văn chương” không ràng buộc được.”
Và cứ như thế, bài tiếp bài, có gì nói vậy, chất phác thật thà như chính
cuộc sống: một hiện tượng lạ lùng bên chiếc cùm lao “cùm chân sau trước cũng
tranh nhau”, chuyện “chia nước”, chuyện muỗi rệp, chuyện ghẻ lở, bắt rận, cảnh
đánh bạc trong tù, một tiếng khóc trẻ thơ ở trong ngục... Toàn những bài thơ
“ghi lại sinh hoạt của người tù, cho khuây khoả thế thôi, phải thơ phú gì đâu...”

Nhưng đọc Nhật ký trong tù, chúng ta nhận ra rằng : đó chính là giá trị
độc đáo của Nhật ký trong tù. Thơ tù xưa nay không ít, văn học Việt Nam ra có
cả một truyền thống thơ tù nhưng chúng ta thấy rằng chưa có tác phẩm nào phản
ánh tỉ mỉ bộ mặt của những cái địa ngục trần gian do bọn đế quốc, phong kiến
dựng lên. Mà đó không phải chỉ là một cái nhà tù, đó là cả “một phần bộ mặt xã
hội Trung Quốc cũ khoảng 1942-1943” (Quách Mạt Nhược).
Xưa nay thơ tù thường hướng vào nội tâm hơn là ngoại cảnh “ tầm thường
nhạt nhẽo” trong nhà tù. Không chịu bó buộc mình trong giới hạn của một
3
không gian chật hẹp, nhà thơ đã mượn cảnh trữ tình để bay theo những ước
vọng, tìm đến một triết lý, hay quay về một kỷ niệm của quãng đời đã qua. Cuộc
vượt ngục về tinh thần ấy cũng là một nội dung đặc sắc của Nhật ký trong tù.
Nhật ký trong tù trước hết và căn bản là một tâm hồn cộng sản Việt Nam
vĩ đại. Dù khó khăn, vất vả, dù bị xiềng xích giam cầm nhưng lúc nào người
chiến sĩ vĩ đại ấy cũng toát lên một vẻ kiên cường, bất khuất, một phong thái
ung dung tự tại:
“Kiên trì và nhẫn nại,
Không chịu lùi một phân,
Vật chất tuy đau khổ,
Không nao núng tinh thần.”
(Bốn tháng rồi)
Mặc dù bị gông cùm trong ngục, nhưng cứ chợp mắt đi, con người tự do
đã thấy “ sao vàng năm cành mộng hồn quanh”, một hình ảnh toả sáng rất thú vị.
Sự gắn bó của Bác với lý tưởng cách mạng, với Tổ quốc của mình, đồng
bào mình, với đất trời, hoa cỏ, không ngục tù nào có thể ngăn cấm được:
“ Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao.”
(Nhật ký trong tù)
Nhà tù không thể nào làm nao núng được tinh thần đấu tranh cho dân tộc
của Người, không thể giam hãm ý chí của Người. Bọn đế quốc có thể hành hạ

được thân thể nhưng tinh thần của Bác thì không gì khuất phục nổi:
“Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.”
Là một con người tài giỏi, hiểu biết sâu rộng, Bác luôn biết nắm lấy thời
cơ để giành chiến thắng. Người tù cộng sản ấy đã coi ngục tù như một trường
học lớn, một nơi rèn luyện mình. Bác nhận lấy gian khổ và rèn luyện trong gian
khổ. Chính điều đó là nền tảng tạo dựng thành công:
“Gạo đem vào giã bao đau đớn,
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
4
Sống ở trên đời, người cũng vậy,
Gian nan rèn luyện mới thành công”
(Nghe tiếng dã gạo)
Với tinh thần ấy, Hồ Chí Minh biến tai ương thành môi trường rèn luyện.
Cường bạo của nhà tù càng nén xuống thì khí phách của anh hùng càng vươn
lên. Xiềng xích muốn trói buộc con người và dập tắt mọi thi hứng nhưng không
thể.
Tinh thần của người chiến sĩ cách mạng là thế, nhưng cảnh ngộ đang phải
chịu đựng là cảnh mất tự do. Bác phải chịu cảnh tù đày và đất nước còn trong
vòng nô lệ. Thời gian trong tù là thời gian bị kéo dài. Một ngày ở trong tù thì
bằng “nghìn thu ở ngoài”. Và xót xa hơn. khi thời gian trôi qua uổng phí, Bác
không được trực tiếp tham gia đấu tranh, không trực tiếp hành động. Không gian
trong tù là một không gian tăm tối, chật hẹp, bị bưng bít giữa bốn bức tường
xám lạnh, cắt đứt với mọi sinh hoạt phong phú và sự sống tưng bừng của cuộc
đời và tạo vật ngoài kia. Sinh hoạt trong tù là cảnh sống ngột ngạt thiếu ăn, thiếu
mặc, bệnh tật, đói rét, trói buộc, gông cùm. Thơ Bác là tiếng nói phẫn nộ tố cáo
chế độ nhà tù tàn bạo và rộng ra là cả chế độ xã hội cũ đầy tội lỗi bất công.
Một xã hội thối nát đã đẩy những người dân vô tội, những em bé thơ ngây vào
những kiếp sống khổ sở.
“Tự do thử hỏi đâu là?

Lính canh trỏ lối thẳng ra công đường”
Tiếng nói tố cáo của Người đã vạch mặt cái xã hội Trung Quốc đương
thời - một xã hội nhiều nhà tù, đầy rẫy những bất công, những thế lực đen tối.
Cũng chính từ hiện thực khắc nghiệt đó, Hồ Chí Minh nêu ra quyền sống của
con người trong xã hội ấy.
Giá trị nội dung của tập thơ còn ở chỗ thể hiện tâm trạng. Đối với một
con người vừa phong phú về tâm hồn và đa dạng về tình cảm như Hồ Chí Minh
thì những ngày trong tù là những ngày có oán, có thương, có đau xót, có uất hận,
có u sầu. Nghĩ đến nhiệm vụ còn dang dở của mình, lòng chiến sĩ bừng lên như
lửa cháy:
5
“Hoàn cầu lửa bốc rực trời xanh.
Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận”
Cái u sầu tiếp theo là niềm uất hận, giống như bóng đen của cây đa ngoài
cửa ngục, cứ đêm ngày trùm lên nhà lao, trùm lên thân phận con người:
“Bóng đa đè nặng nhà lao,
Đêm sao lặng ngắt, ngày sao tối sầm!”
(Đến Quế Lâm)
Ưu sầu và uất hận còn nặng nề hơn nữa trong lúc ốm đau:
“Ở tù mắc bệnh càng cay đắng,
Đáng khóc mà ta cứ hát tràn”
(Ốm nặng)
Không khóc mà hát. Tiếng hát đó đã biến nỗi bất hạnh thành niềm tin, từ
đó vang lên tiếng cười kiêu hãnh và khinh bỉ của một người đứng trên cao nhìn
xuống. Tác giả tin tưởng tuyệt đối vào lý tưởng của mình, vào tương lai của
nhân loại. Đêm tàn rồi hửng sáng, đông qua rồi xuân sang, khổ hết thì vui đến...
Với tinh thần ấy, tác giả nhìn mọi sự khổ cực của mình và mọi hành vi của kẻ
địch với một cái nhìn kiên nghị và lạc quan. Bọn cai ngục dùng dây thừng để
trói thì Người coi đó là “tua đai quan võ bằng kim tuyến”. Khi chúng thay dây
thừng bằng xích sắt thì Người lại thấy :

“ Hôm nay xiềng xích thay dây trói
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;
Tuy bị tình nghi là gián điệp
Mà như khách tướng vẻ ung dung ”.
(Đi Nam Ninh)
Bên cạnh đó, thơ Bác còn là niềm khát khao tự do, tự do cho cảnh ngộ
của riêng mình nhưng sâu sắc và tha thiết là tự do cho đất nước, cho quần
chúng nhân dân. “Tự do” – hai tiếng thiêng liêng ấy vẫn là ước mơ và niềm
khát khao của biết bao tiếng nói thơ ca tiến bộ trong quá khứ. Với các chiến sĩ
cách mạng của giai cấp vô sản, tự do là ý chí đấu tranh và cũng là sự nhận thức
quy luật phát triển của xã hội với niềm tin tất thắng.
6
Nhật ký trong tù là tập thơ tràn đầy cảm hứng và khát khao tự do tuy Bác
phải ở vào cảnh mất tự do. Tố Hữu đã từng nhận xét: “Nhiều lần Bác dùng chữ
tự do, tự do của dân tộc, tự do của con người, trước hết là tự do của Tổ quốc”.
Trong tình cảnh bị tù đầy, Người càng thấm thía đến xót xa tình trạng
mất tự do. Mơ ước tự do như nỗi niềm canh cánh bên lòng, làm quên đi cả thời
tiết, quên đi cả thiên nhiên đang thay mùa đổi vụ:
“Thân tù đâu tiết thu sang chửa,
Chỉ nghĩ hôm nao mở cửa tù.”
(Thu cảm)
Mơ ước đến trong giấc mộng đẹp bay lên giải thoát, nhưng lại trớ trêu sao
trước cảnh đời thực:
“Mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới,
Tỉnh ra trong ngục vẫn nằm trơ.”
(Buổi trưa)
Rồi ngay cả trong những đêm không ngủ, Người cũng luôn mong ngóng
bầu trời tự do:
“Năm canh thao thức không nằm,
Thơ tù ta viết hơn trăm bài rồi;

Xong bài gác bút nghỉ ngơi,
Nhòm qua cửa ngục, ngăm trời tự do.”
(Đêm không ngủ)
Trong thơ, Bác nhắc lại nhiều lần đến bầu trời tự do. Trong bầu trời tự do
ấy có một hình ảnh rất hấp dẫn, biểu tượng của vẻ đẹp, của tự do, đó chính là
hình ảnh vầng trăng. Vầng trăng đã trở nên gần gũi, hiện thân của tự do. Nữ thi
sĩ Blaga Đimitơrôva đã có lý khi chị tìm thấy trong thơ Hồ Chí Minh mối liên hệ
giữa ánh trăng và khát vọng tự do. “Những bài thơ của Người viết trong tù chứa
đầy ánh trăng dịu hiền và khát vọng tự do”:
“Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp hôm nay khó hững hờ.
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
7

×