Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Văn hoá của người Mông trong sự thích ứng với điều kiện môi trường ở Đồng Văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.17 KB, 12 trang )

Website: Email :

Tel : 0918.775.368

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA MÔI TRƯỜNG
---------------

Tiểu luận
SINH THÁI NHÂN VĂN
“Văn hố của người Mơng trong sự thích ứng
với điều kiện mơi trường ở Đồng Văn”

1


Website: Email :

Tel : 0918.775.368

Lời mở đầu
Cộng đồng các dân tộc Việt Nam với 54 dân tộc anh em thuộc nhiều
nhóm ngơn ngữ khác nhau đã tạo nên một bức tranh nhiều mầu sắc về các
dân tộc ở Việt Nam. Mỗi dân tộc đều có một lịch sử, truyền thống và
những bản sắc văn hoá rất riêng biệt, thể hiện qua hình thức canh tác, kiến
trúc nhà ở ăm mặc, dụng cụ sinh hoạt, sản xuất, tín ngưỡng, cưới xin, ma
chay, tổ chức cộng đồng… Những sự khác biệt này khơng chỉ có giữa các
dân tộc mà giữa các nhóm trong cùng một tộc người cũng có nhiều khác
biệt. Bởi vì văn hố ln ln thay đổi và có xu hướng để thích ứng. Điều
này có nghĩa là trong thời gian dài văn hố thay đổi để thích ứng với mơi


trường đặc biệt với một tập hợp hồn cảnh đặc biệt. Khi môi trường sinh vật lý hay mơi trường xã hội thay đổi thì văn hố thay đổi theo những
chiều hướng cho phù hợp hoàn cảnh mới. Thay đổi khi nhanh khi chậm,
khi vay mượ, khi sáng tạo - văn hố ln ln thay đổi. Tơi xin đưa ra
một số điểm đặc trưng trong nền văn hoá của tộc người Mông sinh sống
trên cao nguyên Đồng Văn ở Hà Giang để minh chứng cho tính thích ứng
của văn hố với điều kiện mơi trường.
1. Khái niệm văn hố
- Hiểu văn hố là gì? Là điều rất quan trọng. Bởi vì nói về bản chất
của văn hố là nói về bản chất của con người, khơng có con người thì
khơng có văn hố và ngược lại khơng có văn hố thì cũng khơng có con
người. Lồi người và văn hoá của con người cũng đã tiến triển và trong
quá trình này con người đã tiến triển thành một lồi đặc biệt.
- Theo các nhà Triết học thì “văn hố là tồn bộ những giá trị vật
chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn lịch sử
xã hội và đặc trưng cho trình độ đạt được trong sự phát triển của xã hội”.
- Như vậy văn hố bao gồm khía cạnh phi phật chất của xã hội như
ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị, chuẩn mực, đạo đức và khía cạnh vật chất như
nhà cửa, quần áo, phương tiện…
2


Website: Email :

Tel : 0918.775.368

- Văn hoá là sở hữu chung của một tập đoàn người, những thành
viên của một tập đồn đó đã học được từ hiên nhiên, từ bố mẹ, từ bà con
láng giềng, từ thầy giáo, từ sách vở và từ các thông tin đại chúng… và
suốt cuộc đời họ duy trì và thường xuyên tái tạo nên văn hố này thơng
qua q trình tương tác xã hội. Có hể nói văn hố được sản sinh ra bởi các

quá trình tương tác xã hội, văn hố là một hệ thống tượng trưng, phải học
mới có được và văn hố được chia sẻ.
2. Đơi nét về lịch sử của người Mông
- Người Mông là một dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Dân tộc này có
một truyền thống văn hố độc đáo có bề dầy lịch sử hàng nghìn năm trước
đây và trên 300 năm sau khi từ Trung Quốc sang định cư ở hầu hết các
tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
- Theo một số tài liệu sử sách cho rằng, người Mông xuất hiện sớm
nhất ở lưu vực sơng Hồng Hà- Trung Quốc. Song, trong q trình lịch
sử, do nhiều ngun nhân, người Mơng phải di cư xuống phía Nam rồi trở
thành con cháu của một trong những dân tộc bản địa cổ đại Nam Trung
Quốc. Bao gồm các vùng Hồ Động Đình, Hồ Nam, Tứ Xuyên, Quý Châu,
Cân Na, Quảng Đông, Quảng Tây- Trung Quốc. Ở vùng này người Mơng
đã từng có thời kỳ lập nên quốc gia“Tam Miêu” riêng. Nhưng ở đây cũng
chẳng được bao lâu họ lại thiên di cư xuống phía Nam vào Việt Nam và
các nước vùng Đơng Nam Á. Người Mông di cư vào Việt Nam với 3 thời
kỳ đông nhất.
+ Thời kỳ đầu tiên cách đây trên 300 năm, họ từ Quý Châu (Trung
Quốc) di cư sang Đồng Văn (Hà Giang- Việt Nam).
+ Đợt di cư lần hai cách đân gần 300 năm. Lần này người Mông vào
Việt Nam qua hai con đường: Một là vào huyện Đồng Văn- Hà Giang; Hai
là theo đường Simakai- Bắc Hà- Lào Cai.
+ Thời kỳ di cư lần thứ ba cách đây khoảng trên 200 năm và cũng là
thời kỳ người Mông ở Trung Quốc di cư sang Việt Nam đông hơn cả.
3


Website: Email :

Tel : 0918.775.368


Những năm về sau Người Mông vẫn rải rác di cư sang Việt Nam
cho đến khi hồ bình lập lại ở nước ta (1954).
Ngày nay với số dân cư trú ở Việt Nam gầm 800 nghìn người, riêng
Hà Giang trên 190 nghìn người. Những khu vực tập trung đông người
Mông nhất là Đồng Văn, Mèo Mạc, Quản Bạ (Hà Giang), Bắc Hà, Sapa,
Mường Khương (Lào Cai). Mù Căng Chải (Yên Bái), Phong Thổ, Tuần
Giáo (Lai Châu).
3. Đơi nét về văn hố của người Mơng trong sự thích nghi với
điều kiện mơi trường
* Điều kiện môi trường tự nhiên ở Hà Giang.
- Hà Giang là một tỉnh miền núi biên giới cực Bắc của tổ quốc, có vị
trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Phía Bắc và Tây có đường biên giới
giáp với nước Cộng hồ nhân dân Trung Hoa dài 274km, phía Đơng giáp
tỉnh Cao bằng, phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Tây và Tây Nam
giáp tỉnh Lào Cai và Yên Bái.
- Địa hình: Hà Giang có diện tích tự nhiên là 7.884,37km 2 , nằm
trong khu vực địa bàn vùng núi cao phía Bắc lãnh thổ Việt Nam. Hà
Giang là một quần thể núi non hùng vĩ, địa hình hiểm trở, có độ cao trung
bình từ 800m đến 1.200m so với mực nước biển. Đây là vùng tập trung
nhiều ngọn núi cao. Theo thống kê mới đây, trên dải đất Hà Giang rộng
chưa tới 8.000km 2 mà có tới 49 ngọn núi cao từ 500m- 2500m (10 ngọn
cao 500- 1.000m, 24 ngọn cao 1000- 1500m, 10 ngọn cao 1.500m- 2000m
và 5 ngọn cao từ 2.000- 2.500m). Tuy vậy, địa hình Hà Giang về cơ bản,
có thể phân thành 3 vùng sau:
+ Vùng cao phía Bắc cịn gọi là Ca ngun Đồng Văn, gồm các
huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Mạc với 90% diện tích là núi
đá vơi, đặc trưng cho địa hình Karst ở đây có những dải núi đá tai mèo sắc
nhọn, nhiều khe núi sâu và hẹp, nhiều vách núi dựng đứng.


4


Website: Email :

Tel : 0918.775.368

+ Vùng cao phía Tây gồm các huyện Hồng Su Phì, Xín Mầm là
một phần của cao nguyên Bắc Hà, thường được gọi là vịm nâng sơng
chảy, có độ cao từ 1000m đến trên 2000m.
+ Vùng núi thấp bao gồm đạ bàn các huyện, thị còn lại, kéo dài từ
Bắc Mê, thị xã Hà Giang, qua Vị Xuyên đến Bắc Quang.
- Thuỷ văn: Các sông lớn ở Hà Giang thuộc hệ thống sông Hồng, ở
đây có mật độ sơng- suối tương đối dầy. Hầu hết các sơng có độ nơng, sâu
khơng đều, độ dốc lớn, nhiều ghềnh thác, ít thuận lợi cho giao thơng thuỷ,
bao gồm: Sơng Lơ, sơng Chảy, sơng Gâm. Ngồi ra, trên địa bàn tỉnh Hà
Giang cịn có các sống ngắn và nhỏ hơn sông, Nho Quế, sông Miện, sông
Bạc, sông Chừng, nhiều khe suối lớn, nhỏ cung cấp nguồn nước phục vụ
cho sản xuất và đời sống dân cư.
- Khí hậu: Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa và là miền núi cao,
khí hậu Hà Giang về cơ bản mang đặc điểm của vùng núi Việt Bắc
-Hoàng Liên Sơn, song cũng có những đặc điểm riêng, mát và lạnh hơn
các tỉnh Đông Bắc, nhưng ấm hơn các tỉnh miền Tây Bắc…
- Nhiệt độ trung bình cả năm khoảng 21,6 0 C- 23,9 0 C, biên nhiệt độ
trong năm có sự dao động trên 10 0 C và trong ngày từ 6- 7 0 C. Mùa nóng
nhiệt độ cao tuyệt dối lên đến 40 0 C (tháng 6, 7); Ngược lại mùa lạnh nhiệt
độ thấp tuyệt đối 2,2 0 C (tháng 1).
+ Chế độ mưa ở Hà Giang khá phong phú, tồn tỉnh đạt bình qn
lượng mưa hàng năm 2.300- 2.400mm. Dao động lượng mưa giữa các
vùng, các năm và các tháng trong năm khá lớn.

+ Độ ẩm bình quân hàng năm ở Hà Giang đạt 85% và sự dao động
cũng khơng lớn.
+ Hà Giang là tỉnh có nhiều mây (lượng mây trung bình khoảng 7,
5/10, cuối mùa đơng lên tới 8- 9/10) và ương đối ít nắng (cả năm có 1.427
giờ nắng, tháng nhiều là 181 giờ, tháng ít chỉ có 74 giờ).

5


Website: Email :

Tel : 0918.775.368

+ Thổ nhưỡng: Thổ nhưỡng của Hà Giang rất phong phú với 9 nhóm
đất chính, trong đó, nhóm đất xám chiếm diện tích lớn nhất là 584.418ha,
chiếm 74,8% diện tích tự nhiên.
- Các nhà khoa học đã xác định và phân chia các khu vực thổ
nhưỡng chính của Hà Giang như sau:
+ Khu vịm nâng sơng chảy, lớp thổ nhưỡng hình thành trên nền 2
nhóm đá chính là mắcma axit và đá biến chất, phần lớn là đất mùn màu
vàng đỏ.
+ Khu Quản Bạ- Bắc Mê, lớp thổ nhưỡng hình thành trên nền 3
nhóm đá chính là trầm tích đá hạt mịn bị biến chất tướng đá lục hoặc lục
yếu, tiếp đến là đá vôi hoặc sét vôi và đá lục nguyên hạt vừa và mịn. Lớp
phủ thổ nhưỡng ở đây đa phần là nhóm đất mùn mầu vàng đỏ và mùn xám
xẫm.
+ Khu vực Đồng Văn- Mèo Vạc, lớp thổ nhưỡng hìh thành trên nền
đá vơi bị phân hố mạnh, địa hình Karst. Phần lớn lớp phủ thổ nhưỡng ở
đây là loại đất đỏ xám hoặc vàng sãm, với thảm thực vật chủ yếu là các
loại cây thấp, mật độ thưa.

+ Khu vực Tây Bắc Vĩnh Tuy, lớp phủ thổ nhưỡng ở đây chủ yếu là
nhóm đất mầu xám xấm hơi đen.
+ Rừng: Diện tích rừng của Hà Giang thuộc vào loại lớn, theo số
liệu thống kê năm 2001, diện tích đất lâm nghiệp của Hà Giang là 334.
101ha. Hiện nay, rừng tự nhiên của Hà Giang chỉ có khoảng 262.957ha
chiếm 92,4% diện tích rừng tồn tỉnh. Độ che phủ đạt 39,21%.
* Chúng ta có thể khái quát lại một số đặc điểm điều kiện môi
trường riêng biệt trên cao nguyên Đồng Văn- địa bàn sinh sống của người
Mông như sau:
- Đây là vùng núi cao, với 90% diện tích là núi đá vơi, đặc trưng
cho địa hình Karts, ở đây có nhiều dải núi tai mèo sắc nhọn, nhiều khe núi
sâu và hẹp, nhiều vách núi dựng đứng.
- Độ dốc rất lớn gây nên sự xói mịn mạnh.
6


Website: Email :

Tel : 0918.775.368

- Phần lớn lớp phủ thổ nhưỡng là loại đất đỏ xám hoặc vàng sẫm.
- Thảm thực vật chủ yếu là các loại cây thấp, mật độ thưa.
- Có rất ít đất canh tác.
- Khi hậu khô, lạnh, rất khắc nghiệt, nhiệt độ thấp tuỵet đối là 2,2 0 C
(tháng 1).
- Nhiều mây và tương đối ít nắng.
- Thiếu nước cho sản xuất và sinh hoạt, đặc biệt vào mùa khơ.
- Có ít loại cây trồng, vật ni thích nghi được với điều kiện khắc
nghiệt ở nơi đây.
- Địa hình hiểm trở gây khó khăn cho việc giao lưu với các vùng

khác.
*Sự thích nghi của văn hố người Mơng ở điều kiện mơi trường.
+ Canh tác:
Người Mông sinh sống trên núi cao, với điều kiện rất khắc nghiệt,
nguồn sống chính của họ là nương rẫy, tuy cũng có một số nơi làm ruộng
nước nhưng không nhiều. Trên cao nguyên Đồng Văn này nương canh tác
chính của họ là canh tác trên nương đá, hay còn gọi là thổ canh hốc đá.
Dây là một loại hình canh tác rất độc đáo mà người Mơng sáng tạo ra
trong sự thích ứng với điều kiện mơi trường đặc biệt trên cao nguyên đá.
Trình độ canh tác trên nương đá của người Mông rất phát triển, thể hiện
qua mộ tập đoàn giống cây trồng rất phù hợp với điều kiện môi trường,
qua lịch mùa vụ, qua kĩ thuật canh tác, dụng cụ canh tác… chúng ta sẽ
thấy điều này rõ hơn qua những ví dụ sau đây:
- Cây ngơ là cây lương thực chính của đồng bào, ngồi ra cịn có các
cây lương thực khác như: Lúa, khoai, sắn, dong giềng, tam giác mạch, đậu
tương, đậu răng ngựa… Nương được cày ải từ trước Tết và bừa nhiều lần,
tết xong bà con tiến hành gieo cấy. Xen giữa các hốc ngô thường là các
loại đậu: Cô ve, đậu vàng, đậu đũa, đậu nho nhe, bí, dưa các loại… Khi
cây ngơ được 2, 3 lá, đậu, bí, dưa đã vươn ngọn cũng là lúc cần vun ngô
lần thứ nhất. Đất vun lúc này, chỉ để ủ ấm cho thân cây. Một tháng sau,
7


Website: Email :

Tel : 0918.775.368

khi cây ngô sắp trổ cờ, cây đậu gần ra hoa cũng là lúc người ta vun ngô
lần thứ 2 và là lần cuối cùng (Lúa được trồng theo hốc hoặc quãng, được
xen với bí, dưa, các loại rau xanh). Do đó, sau khi thu hoạch ngơ (lúa),

người ta cịn thu hoạch được khơng ít rau đậu các loại bổ xung thêm cho
bữa ăn nhiều chất dinh dưỡng.
+ Chọn ngô giống bao giờ người ta cũng chọn bắp ngô dài, mẩy
đều, chỉ lấy những hạt thẳng hàng giữa bắp. Giống ngô thường là giống
dài ngày (6 tháng), phù hợp với nhịp điệu thời tiết. Khi ngơ chín, bắp ngơ
cụp xuống, lớp bẹ ngồi như là những chiếc áo che cho những chiếc áo
che cho những hạt ngô ở trong tránh khỏi mưa ướt, sương gió, cơn trùng
phá hoại. Và người Mơng cứ để ngơ trên nương đến khi nào cày thì ra bẻ
mang về. Đây là một hình thức bảo quản tự nhiên, nhưng rất hiệu quả. Khi
chúng ta đưa những giống ngô ngắn ngày năng suât cao lên vùng này sẽ
không thực sự phù hợp bởi vì. Chu kì sinh trưởng và phát triển của cây
không phù hợp với nhịp thời tiết. Hơn nữa khi chín, loại ngơ này khơng
có khả năng tự bảo quản nư trên, nếu để trên nương sẽ bị hỏng hết, nếu
thu hoạch đem về nhà cũng rất khó bảo quản.
+ Nương canh tác thường không phải là dải đất liền mà là những
miếng nhỏ, lẫn rất nhiều những tảng dá to nhỏ trên bề mặt. Đây thường là
những chỗ mà đất được tích tụ lại, do người dân bật từng hịn đá tạo nên,
người Mơng thường dùng đá xếp xung quanh những vạt nương, hốc đá
nhỏ để chống mất đất do xói mịn. Việc canh tác trên những vạt nương,
hốc đá này rất khó khăn. Để thích ứng với điều kiện này người Mông đã
sáng tạo ra các công cụ lao động hết sức đặc biệt: Như chiếc cày thì ngắn,
lưỡi cày to bản, diệp cày rộng, cong, dóng cày khum khúm bằng gỗ cá cày
gồm nhiều nấc (từ 2 - 4 nấc ) để có thể điều chỉnh tuỳ theo loại đất. Chiếc
bừa có răng kép để bừa đất và vơ cỏ. Cuốc của người Mông rất đa năng,
có lưỡi mỏng và to bản, hình tam giác, cong ở phần đuôi để tra cán, nhọn
hai đầu để dễ dàng lách vào từng kẽ đá cào đất vun ngô.
8


Website: Email :


Tel : 0918.775.368

Con dao quắm là một trong những dụng cụ lao động gắn bó mật
thiết với cuộc sống hàng ngày của người Mông. Con dao quắm được rèn
rất công phu trước khi đánh người ta lấy mảnh thép kẹp giữa các mảnh sắt
hoặc sắt vụn rồi mới cho vào lò nung để rèn dao; Rèn sao cho sắt hai bên
và thep ở giữa dính liền với nhau như một để khi mài sắc đem chặt cây
mới không bị mẻ hoặc tách rời ra.
+ Ở những hốc đá nhỏ (đôi khi chỉ bằng bàn tay), mỗi hốc được
gieo vài hạt ngô (thường là 3 hạt), để phịng trường hợp hạt ngơ khơng
mọc, hoặc bị cơn trùng ăn mất, vừa để khi lớn lên các cây ngô, có thể dựa
vào nhau chống gió và tận dụng hết mức diện tích đất.
+ Việc trồng xen canh đã trở thành tập qn, khơng chỉ để tận dụng,
có thêm thực phẩm mà cịn cải tạo đất, do đất thường khơng giầu dinh
dưỡng và cây xen canh thường là cây họ đậu- lồi có khả năng cố định
nitơ để cải tạo đất.
+ Ngoài ra, tận dụng khe núi, lèn đá, người ta trồng thêm khoai,
dong giềng, sắn làm thức ăn cho gia súc, gia cầm.
+ Bên cạnh đó người Mơng cịn trồng được nhiều cây dược liệu có
giá trị như: Đỗ trọng, tam thất, huyền sâm, xuyên khung… và nhiều loại
cây ăn quả: Mận tím, đào, lê, táo…
+ Những cây trồng thường phải chịu được điều kiện khắc nghiệt
sống được trên đất ít dinh dưỡng, khơng cần bón phân nhiều…
+ Chăn nuôi:
Ở vùng người Mông chăn nuôi khá phát triển. Người Mơng thường
ni bị, ngựa, dê, lợn, gà… do khí hậu lạnh, canh tác chủ yếu ở nương đá
nên bà còn ít ni trâu. Bị được ni nhiều, bị của người Mơng là giống
bị to, khoẻ dùng để kéo cày và giết thịt.
- Người Mơng cịn ni ngựa, ngựa khơng những dùng để cưới, thồ

hàng mà còn dùng làm cảnh. Người Mông là những người đua ngựa rất
tài, và dong ngựa cũng rất giỏi. Vì sống trên vùng núi cao hiểm trở, ngựa
là phương tiện đi lại và thồ hàng rất tốt. Tuy nhiên, nuôi ngựa khá tốn
9


Website: Email :

Tel : 0918.775.368

kém và kỳ công vì ngồi cỏ, ngựa cần có thêm tinh bột như gạo, ngơ,
đâu… nên ít nhà ni được.
- Ngược lại, dê và lợn là lồi ăn tạp, ít bệnh, sinh để nhanh chóng,
thích chạy nhảy rất phù hợp với điều kiện vùng cao núi đá, nên được bà
con nuôi nhiều.
+ Kiến trúc ngơi nhà truyền thống.
- Địa hình cư trú của người Mông đã ảnh hưởng sâu sắc đến kiến
trúc nhà ở của dân tộc này. Nhà của người Mông tương đối thống nhất
theo một khuôn mẫu, dù to thay nhỏ, đều phải có 3 gian 2 cửa, một cửa
chính một cửa phụ và tối thiểu là hai cửa sổ. Có thể có một hoặc 2 trái
nhà nhưng đều khơng liên quan trực tiếp đến 3 gian nhà chính. Trong 3
gian nhà chính của người Mơng được sắp xếp như sau: gian bên trái dùng
để đặt bếp lò nấu nướng và buồng ngủ của vợ chồng gia chủ. Gian bên
phải dùng để đặt bếp sưởi và giường khách. Gian giữa thường rộng hơn 2
gian bên, đây là gian để bàn thờ tổ tiên và cũng là nơi tiếp khách, ăn uống
của gia đình. Hai gian trái thường để ngăn bằng vách hoặc trình tường để
đặt cối xay ngơ, giã gạo, hoặc kê thêm giường ngủ…
- Nhà của người Mông bao giờ cũng có sàn gác để cất giữ đồ đạc,
lương thực, thực phẩm. Ngô, lúa, đậu khi thu hoạch về được cất lên gác,
dưới tác dụng của khói bếp nên hạn chế được sâu mọt, ẩm ướt. Bởi vì

vùng này ít năng, nhiều sương mù nên không thuận tiện cho việc phơi,
phóng như những vùng khác.
- Để đối phó với gió rét và cái giá lạnh của vùng núi cao người
Mông có thể dùng đá xếp thành hàng rào xung quanh một nhà hoặc 2, 3
nhà có quan hệ anh em nội tộc với nhau, làm thành từng khu riêng biệt.
Người Mông cĩmg làm nhà dựa lưng vào núi kiêng làm quay lưng ra khe,
vực sâu… Nhà của người Mông được trình bằng đất với độ dầy 0,450,50m và được lợp ngói hay tranh là phù hợp nhất, vừa giữ ấm về mùa
đơng lại mát mẻ về mùa hè có thể chống được kẻ gian, thú dữ.
+ Trang phục cổ truyền.
10


Website: Email :

Tel : 0918.775.368

Dân tộc Mơng có nhiều mnhóm như Mơng trắng, Mơng đen, Mơng
hoa… Trang phục của các nhóm này mn hình, mn vẻ, nhất là bộ
trang phục của nữ giới. Tuy vậy, vẫn có những điểm chung nhất định như:
Một bộ trang phục nữ bao giờ cũng gồm khăn đội đầu, áo, váy, thắt lưng,
tạp dề đằng trước và sau váy, xà cạp, đồ trang sức… Chất liệu chính của
các trang phục này hầu hết là vải lanh. Vải lanh được làm ra từ vỏ của cây
Lanh, đây là một cây được sự ưu ái đặc biệt của người phụ nữ Mông. Họ
dành những vạt đất tốt nhất để trồng Lanh. Mỗi thiễu nữ từ 16- 17 tuổi
đến các cụ già đều có đám lanh riêng của mình, vải lanh rất bền. Bộ nữ
phục của người Mông rất giàu mầu sắc làm bừng lên sức sống của con
người nơi núi rừng hoang vắng. Ngoài ra, bộ trang phục truyền thống của
người Mơng cịn giàu cả âm điệu bởi tiếng roe của đồ trang sức bằng bạc
(vịng cổ, vịng tay, hoa tai, nhẫn, xà tích…). Với sự phối hợp hài hoà và
rất sống động. Quả thực bộ nữ phục của người Mông bừng sáng lên với

những sắc màu rực rỡ.

MỤC LỤC

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI.............................................................................................................................1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN.................................................................................................1
KHOA MÔI TRƯỜNG..............................................................................................................................................1

11


Website: Email :

Tel : 0918.775.368

12



×