Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Thực trạng và giải pháp cổ phần hoá NHTM Nhà nước Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.02 KB, 65 trang )

Mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang từng
bớc thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập với khu vực và Thế giới. Trong
quá trình hòa với xu hớng phát triển chung của nhân loại ấy, tự do hoá tài chính
nh là một yêu cầu không thể thiếu, một giải pháp quan trọng tạo ra những bớc
tiến lớn cho hội nhập và phát triển.
Trớc yêu cầu tự do hoá tài chính đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, Đảng
và Nhà nớc ta đã có nhiều chủ trơng trong đổi mới để nâng cao hiệu quả kinh
doanh và năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng Việt Nam vốn còn tồn tại
nhiều hạn chế. Đặc biệt, sau khi Nghị quyết TW 9 khoá IX của Đảng về cổ
phần hoá DNNN trong đó có các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Ngân
hàng và chỉ thị số 11/2004/CT-TTG về đổi mới DNNN, chỉ định hai Ngân
hàng : Ngân hàng Ngoại thơng và Ngân hàng Đồng Bằng Sông Cửu Long là hai
Ngân hàng sẽ cổ phần hoá đợc ban ra thì việc cổ phần hoá NHTM Nhà nớc trở
thành một vấn đề mới mẻ, đợc sự quan tâm chú ý hàng đầu của nhiều thành
phần trong và ngoài nớc.
Cho đến nay, việc cổ phần hoá NHTM Nhà nớc đã có những khởi đầu và
đang đợc tích cực triển khai.Tuy nhiên những gì đã đạt đợc vẫn đợc đánh giá là
chậm so với kế hoạch. Và thực tế, quá trình thực hiện vẫn còn nhiều khó khăn
vớng mắc. Bởi vậy, việc tìm ra các giải pháp để thúc đẩy quá trình cổ phần hoá
NHTM Nhà nớc là cần thiết đối với các NHTM Nhà nớc nói riêng và đối với
nền kinh tế nớc ta nói chung. Đây chính là lý do em chọn đề tài Thực trạng và
giải pháp cổ phần hoá NHTM Nhà nớc Việt Nam với mong muốn đợc tìm hiểu
thêm và đóng góp một vài ý kiến nhỏ đối với sự kiện kinh tế đầy tính thời sự
này.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
1
Mục đích nghiên cứu của đề tài là xây dựng hệ thống các quan điểm và
luận cứ khoa học cho việc cổ phần hoá NHTM Nhà nớc từ đó đề ra các giải
pháp cần thiết để thúc đẩy quá trình cổ phần hoá theo đúng tiến độ.


3. Đối tợng, phạm vi và phơng pháp nghiên cứu
Đề tài chọn cổ phần hoá các NHTM Nhà nớc Việt Nam làm đối tợng
nghiên cứu. Phơng pháp nghiên cứu đợc sử dụng là phơng pháp thống kê, tổng
hợp, đối chiếu, so sánh dựa trên cơ sở phơng pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử nhằm làm sáng tỏ thực trạng và thể hiện quan điểm cá nhân
4. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài góp phần chứng minh sự cần thiết cổ phần hoá NHTM Nhà nớc ở
Việt Nam và khẳng định sự đúng đắn trong đờng lối của Đảng và Nhà nớc khi
chọn con đờng cổ phần hoá. Từ việc phân tích thực tế cổ phần hoá NHTM Nhà
nớc đang diễn ra ở Việt Nam diễn biến, thuận lợi và khó khăn đề tài đa ra các
giải pháp cần thiết cho việc giải quyết những vớng mắc hiện tại để thực hiện
tiến hành cổ phần hoá NHTM Nhà nớc .
5. Kết cấu của đề tài
Với những nội dung trên ngoài phần mở đầu và phần kết thúc, kết cấu
của đề tài gồm 3 chơng :
Chơng I : Cổ phần hoá NHTM Nhà nớc
Chơng II : Thực trạng cổ phần hoá NHTM Nhà nớc ở Việt Nam
Chơng III : Giải pháp cần thiết đối với cổ phần hoá NHTM Nhà nớc Việt
Nam.
2
Chơng I
Tổng quan về cổ phần hóa NHTM nhà nớc
1.1 Ngân hàng thơng mại Nhà nớc v vai trò của nó đối với nền kinh
tế.
1.1.1 Khái niệm
Hiện nay, hệ thống NHTM quốc doanh gồm 5 Ngân hàng : Ngân hàng
Ngoại thơng, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Công
thơng, Ngân hàng Đầu t và Phát triển, Ngân hàng nhà đồng bằng sông Cửu
Long. Trong quá trình hình thành và phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam
các NHTM quốc doanh luôn ở vị trí đi đầu, đóng vai trò quyết định .

Xuất phát từ chức năng của Ngân hàng có thể định nghĩa:
Ngân hàng là một loại định chế tài chính mà hoạt động thờng xuyên là
nhận tiền gửi, sử dụng số tiền đó để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh
toán.
NHTM là loại hình Ngân hàng hoạt động vì mục đích lợi nhuận thông
qua các khoản vốn ngắn hạn là chủ yếu.
Từ đó, NHTM Nhà nớc là NHTM do Nhà nớc đầu t vốn, thành lập và tổ
chức quản lý hoạt động kinh doanh, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã
hội của Nh n ớc. Hoạt động của NHTM Nhà nớc chịu sự điều chỉnh của luật
DN, luật DNNN, luật các tổ chức tín dụng.
Các NHTM Nh n ớc chính là các DNNN quy mô lớn về vốn, về lao
động, hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài chính có giá trị gia tăng cao. Và
không giống những loại hình doanh nghiệp khác, sản phẩm của Ngân hàng chủ
yếu là tiền, một loại hàng hoá đặc biệt, đối tợng giao dịch là cộng đồng rộng lớn
nên sự an toàn của hệ thống Ngân hàng đợc đặt lên hàng đầu.
Hoạt động chính của NHTM nhà nớc bao gồm có:
3
Nghiệp vụ tài sản nợ : Phản ánh hoạt động tạo lập nguồn vốn của Ngân
hàng. Nguồn vốn này bắt nguồn từ huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội : Vốn
tiền gửi nh nhận tiền gửi không kì hạn, nhận tiền gửi có kì hạn, tiền gửi tiết
kiệm, vốn đi vay nh phát hành kì phiếu, chứng chỉ tiền gửi, vay của NHNN, các
Ngân hàng và tổ chức tài chính khác Vốn tự có gồm vốn điều lệ, các quỹ dự
trữ đợc trích từ lợi nhuận ròng hàng năm bổ sung vào vốn tự có, và vốn coi nh tự
có (lợi nhuận cha chia,các quỹ khác cha sử dụng)
Nghiệp vụ tài sản có: Phản ánh hoạt động sử dụng vốn của NHTM.Đặc
điểm của hoạt động này là phải an toàn và sinh lời. Nó là các hoạt động cho
vay: chiết khấu thơng phiếu, cho vay ứng trớc, factoring Hoạt động đầu t , dự
trữ ngân quỹ
Ngoài ra, hệ thống NHTM đang ngày càng mở rộng khả năng kinh doanh
của mình bằng cách cung cấp các dịch vụ tiện ích cho khách hàng.

1.1.2 Vai trò của Ngân hàng thơng mại Nhà nớc
Vì là NHTM do Nhà nớc sở hữu nên cũng nh các DNNN, các NHTM
Nhà nớc cũng là công cụ để Nhà nớc thực hiện chức năng kinh tế và chức năng
xã hội của mình. Bởi vậy, bên cạnh các chức năng vốn có của một NHTM nh
chức năng làm thủ quỹ xã hội, chức năng trung gian thanh toán, chức năng
trung gian tín dụng và chức năng tạo tiền, NHTM nhà nớc còn có những chức
năng, vai trò quan trọng khác, khẳng định vị thế chủ đạo và những đóng góp lớn
lao của nó đối với nền kinh tế.
Thứ nhất, NHTM Nhà nớc là công cụ trực tiếp chủ yếu để thực hiện
chính sách tiền tệ của NHNN. Để thực hiện chính sách tiền tệ, NHNN phải sử
dụng các công cụ để điều tiết lợng tiền trong lu thông, nhằm đạt đợc các mục
tiêu của nền kinh tế vĩ mô, đặc biệt là mục tiêu ổn định tiền tệ. Phần lớn các
công cụ cuả chính sách tiền tệ chỉ đợc thực thi có kết quả với sự hợp tác tích cực
và có hiệu quả của các NHTM mà chủ yếu là các NHTM Nhà nớc với u thế hơn
hẳn về thị phần, uy tín. Khi NHNN muốn thực hiện chính sách tiền tệ sẽ phát
tín hiệu tới các NHTM bằng các công cụ nh dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết
4
khấu, Theo đó các Ngân hàng sẽ thay đổi chính sách hoạt động cho phù hợp
mà đi đầu là các NHTM Nhà nớc, sau đó sẽ chuyển tiếp tới toàn hệ thống Ngân
hàng. Cũng thông qua NHTM Nhà nớc, NHNN phát hành thêm tiền vào lu
thông, thực hiện các chính sách tín dụng, chính sách tỷ giá, chính sách lãi suất
của Ngân hàng để điều tiết các hoạt động của nền kinh tế.Vì vậy, hoạt động của
NHTM Nhà nớc có ảnh hởng trực tiếp đến sự tăng trởng, phát triển của nền kinh
tế.
Thứ hai, NHTM Nhà nớc cung ứng vốn cho các dự án đầu t đặc biệt là
những dự án đầu t cần vốn lớn, dài hạn. Với u thế, uy tín hơn hẳn các tổ chức tài
chính khác nh mạng lới chi nhánh rộng, vốn lớn, không bị hạn chế giấy phép
hoạt động, thị phần huy động vốn của NHTM Nhà nớc luôn chiếm hơn 70%
tổng nguồn vốn huy động. Vì nguồn vốn huy động lớn nh thế, các NHTM Nhà
nớc là đơn vị có khả năng lớn nhất trong việc cung ứng vốn cho dự án lớn, cho

những công trình phúc lợi lớn của Nhà nớc nh xây dựng các nhà máy, các
chung c, cầu đờng góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nớc.
Thứ ba, thông qua các chi nhánh, mạng lới rộng khắp của NHTM Nhà n-
ớc, Chính phủ có thể chuyển vốn đến những vùng khó khăn, những đối tợng
chính sách đang cần vốn.Từ đó,tạo khả năng phát triển cho những vùng, những
ngành không có điều kiện thuận lợi, không thu hút đợc đầu t. Có nh thế mới
thực hiện đợc chủ trơng đồng đều trong cả nớc, xoá bỏ khoảng cách giữa nông
thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng, ngời giàu và ngời nghèo.
Việt Nam, hoạt động của NHTM Nhà nớc đã đem đến cho sự nghiệp
xây dựng đất nớc những thành công không thể phủ nhận. Những công trình giao
thông, điện, những công trình trọng điểm quốc gia đợc xây dựng từ phần lớn
nguồn vốn tín dụng của các Ngân hàng đang làm thay đổi diện mạo đất nớc
từng ngày. Năm 2003, vốn đầu t Nhà nớc, trong đó phần lớn là tín dụng của
NHTM Nhà nớc, chiếm tới 56,5% tổng số vốn đầu t toàn xã hội. Không chỉ cấp
tín dụng, các Ngân hàng còn tích cực trong các chơng trình xoá đói giảm nghèo
5
của Nhà nớc. Điển hình là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn.Tại
nhiều vùng nông thôn, miền núi còn nghèo nàn khó khăn, các cán bộ tín dụng
đến cấp vốn và hớng dẫn nông dân làm giàu, thúc đẩy phát triển kinh tế ở các
địa phơng.Các chơng trình cho vay trả chậm nhà ở vùng ngập lũ ở đồng bằng
sông Cửu Long, cho vay nớc sạch và vệ sinh môi trờng, cho vay giải quyết việc
làm học sinh, sinh viên đ ợc thực hiện. Đó là những hoạt động vừa mang tính
kinh tế vừa mang tính xã hội rộng rãi. Theo quyết định số 131/2002/QĐ-TTG
ngày 04/10/2002, Ngân hàng chính sách xã hội đã đợc thành lập để thực hiện
vai trò xã hội của nó là cho vay chính sách, tạo điều kiện để các NHTM Nhà n-
ớc chú trọng vào hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, với hoạt động bản chất là
cấp tín dụng trong điều kiện nền kinh tế nớc ta con cha phát triển ,các NHTM
Nhà nớc vẫn có những đóng góp nhất định đối với các chơng trình xã hội nh
công tác xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Trong vai trò là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN, các
NHTM Nhà nớc cũng đang hợp tác tích cực và có hiệu quả hơn trớc kia. Sự phối
hợp chặt chẽ của các Ngân hàng đã nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ,
góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô từ đó thực hiện các mục tiêu về tăng trởng,
lạm phát mà quốc hội đề ra .
1.2 Những vấn đề cơ bản về cổ phần hoá NHTM nhà nớc
1.2.1 Khái niệm
1.2.1.1 Khái niệm chung
Cổ phần hoá là khái niệm đã có từ hàng trăm năm nay.Có thể hiểu đó là việc
chuyển đổi một doanh nghiệp thành công ty cổ phần tức là những doanh nghiệp
mà vốn điều lệ thuộc sở hữu của nhiều cổ đông, các cổ đông có thể là tổ chức,
cá nhân và không hạn chế số lợng tối đa.
Trong nền kinh tế thị trờng, công ty cổ phần là một mô hình tổ chức kinh tế
phổ biến bởi tính u việt của nó so với một số mô hình doanh nghiệp khác, thể
hiện ở hiệu quả hoạt động, sự năng động , khả năng tự điều tiết, tăng vốn cao,
mối liên hệ hữu cơ, bản chất với thị trờng chứng khoán luôn chứa đựng yếu tố
6
cạnh tranh, thúc đẩy để phát triển. Bởi vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp đợc coi là
con đẻ của nền kinh tế thị trờng, đem lại nhiều thành công lớn trong quá
trình xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của nhiều quốc gia
trên thế giới.
Tại Việt Nam, hình thức cổ phần hoá đợc áp dụng đối với các DNNN và đợc coi
là lối ra phù hợp cho khu vực kinh tế nhà nớc. Chủ trơng cổ phần hoá DNNN đ-
ợc đặt ra khi đất nớc ta bớc vào thời kì đổi mới theo Quyết định số 143/HĐ-BT
ngày 15/10/1990 của hội đồng bộ trởng và thực hiện thí điểm từ năm 1992 theo
quyết định số 202/HĐ-BT ngày 8/6/1992.
Theo luật DNNN, DNNN là doanh nghiệp do nhà nứơc sở hữu toàn bộ vốn điều
lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối. Nh vậy nói đến cổ phần hoá DNNN chính
là nói đến việc biến các DNNN từ có một chủ sở hữu là Nhà nớc thành các
doanh ngiệp có nhiều chủ sở hữu, có nhiều cổ đông. Sở hữu đó có thể bao gồm

cả pháp nhân, cả thể nhân,ngời nớc ngoài hay ngời lao động.
Việc hình thành DNNN ở mỗi nớc trên thế giới là do điều kiện khách
quan của từng nớc chi phối và quyết định. ở Việt Nam , trong nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung, DNNN là một công cụ quan trọng để Nhà nớc quản lý và
điều hành vĩ mô, thực hiện chức năng kinh tế và xã hội. Cũng vì thế, thời kì này,
DNNN đợc Nhà nớc u đãi và có những trợ giúp nhất định. Bớc sang nền kinh tế
thị trờng, các DNNN phải chấp nhận hoà nhập vào thị trờng cạnh tranh gay gắt
với những biến động khôn lờng. Những u đãi trong cơ chế cũ thờng không đợc
tính toán một cách chính xác, sự bao cấp của Nhà nớc cũng có hạn với một số l-
ợng DNNN quá lớn, khiến cho nhiều DNNN làm ăn thua lỗ, ít hiệu quả và trở
thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nớc. Xuất phát từ thực tiễn đó, Đảng và
Nhà nớc đã đa ra chủ trơng đổi mới, sáp nhập, hợp nhất, giải thể và cổ phần hoá
các DNNN . Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần IX nêu rõ: Thực hiện
chủ trơng cổ phần hoá những doang nghiệp mà Nhà nớc không cần nắm giữ
100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động
thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả Thực hiện việc giao bán, khoán
7
cho thuê, các doang nghiệp loại nhỏ mà Nhà nớc không cần nắm giữ. Sáp nhập,
giải thể, phá sản những doanh nghiệp không hiệu quả và không thực hiện đợc
các biện pháp trên [190] .
Sau hơn mời ba năm thực hiện, cổ phần hoá DNNN đã đem lại những kết
quả khả quan, cho they sự chuyển biến tích cực so với trớc khi chuyển đổi sở
hữu doanh nghiệp, thể hiện qua số liệu của một số doanh nghiệp đợc cổ phần
hoá: Vốn điều lệ tăng 50%, doanh thu tăng 60%, lợi nhuận trớc thuế tăng
137%, nộp ngân sách tăng 45%, thu nhập ngời lao động tăng 63%.
1.2.1.2. Khái niệm cổ phần hoá NHTM nhà nớc.
Giống nh cổ phần hoá DNNN, cổ phần hoá NHTM Nhà nớc là quá trình
chuyển hoá cơ cấu sở hữu tài sản và quyền chủ động điều hành hoạt động từ
đơn sở hữu là Nhà nớc sang đa sở hữu. Trong quá trình đó, Nhà nớc chuyển và
góp toàn bộ Cơ nghiệp của NHTM Nhà nớc trớc khi cổ phần hoá vào một

cấu trúc Ngân hàng mới với mục tiêu cần đạt đợc là quy mô vốn lớn hơn, công
nghệ hiện đại hơn, phơng thức quản trị kinh doanh văn minh hơn, chất lợng sản
phẩm đợc dự báo cao hơn, sức cạnh tranh mạnh hơn, lợi nhuận ròng hàng năm
lớn hơn, tổng số thuế nộp cho ngân sách Nhà nớc hàng năm nhiều hơn và do
đó danh tiếng thơng hiệu của Ngân hàng mới đợc duy trì và phát triển ở đẳng
cấp cao hơn. Nh vậy đây chính là quá trình dịch chuyển các nhân tố cũ, đồng
thời tạo sức hút các nhân tố mới trở thành một cấu trúc Ngân hàng mới để cùng
khai thác các tiềm năng thị trờng hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, mặc dù là một DNNN nhng về bản chất NHTM Nhà nớc là
một DNNN đặc biệt vậy nên việc cổ phần hoá NHTM Nhà nớc không thể hoàn
toàn giống với cổ phần hoá DNNN.Việc phân biệt sự khác nhau này có vai trò
quan trọng đối với việc đề ra các giải pháp phù hợp với cổ phần hoá NHTM
Nhà nớc.
Trớc hết, sự khác nhau là vì giá trị tài sản của Ngân hàng rất lớn so với
giá trị doanh nghiệp, lại mang nhiều tính chất riêng biệt nên việc đánh giá tài
8
sản của Ngân hàng khi cổ phần hoá thờng phức tạp, khó khăn hơn đánh giá tài
sản doanh nghiêp. Sự riêng biệt đó thể hiện ở :
Thứ nhất, phần lớn tài sản của Ngân hàng là các khoản tín dụng cho vay.
Các tài sản này không giống tài sản thông thờng của doanh nghiệp vì nó phụ
thuộc rất lớn vào mức độ rủi ro, khả năng thanh khoản, mức sinh lời dự tính. Để
xác định đợc giá trị của chúng phải căn cứ vào các nhân tố đó.
Thứ hai, về phần tài sản bất động sản của ngân hàng, các TMNN đều có
rất nhiều chi nhánh, trụ sở phân bố nhiều nơi trong cả nớc. Thêm vào đó là các
tài sản Ngân hàng thu đợc từ cầm cố, xiết nợ. So với doanh nghiệp, khối lợng tài
sản bất động sản của Ngân hàng lớn hơn rất nhiều vì vậy việc đánh giá giá trị
loại tài sản này của Ngân hàng chắc chắn sẽ không đơn giản hơn trong doanh
nghiệp.
Thứ ba, về giá trị thơng hiệu, tiềm năng phát triển, các NHTM Nhà nớc
đều ra đời, tồn tại và phát triển từ khá lâu, có uy tín lớn, hoạt động có hiệu quả

với lợng khách hàng lớn là giá trị vô hình khổng lồ của các Ngân hàng.
Sự khác nhau thứ hai , là hoạt động Ngân hàng là hoạt động nhạy cảm và
có mối liên hệ mật thiết đôí với nền kinh tế. Bản thân các Ngân hàng cũng có sự
phụ thuộc lớn lẫn nhau chứ không tách riêng nh đối với các DNNN. Chỉ cần sự
biến động trong một Ngân hàng cũng có thể dẫn sự xáo trộn trong hoạt động
của cả hệ thống và của nền kinh tế. Lịch sử đã chứng minh rằng sự thất bại của
10.000 ngân hàng ở Mỹ vào giữa những năm 1930-1933 đã làm cho cuộc khủng
hoảng trầm trọng hơn và dai dẳng hơn. Gần đây cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ Châu á cũng cho thấy nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng không
phảI do áp lực tài trợ cho những thiếu hụt về ngân sách nh cuộc khủng hoảng ở
châu Mỹ La tinh mà chính là do những yếu kém của hệ thống ngân hàng. Điều
này đòi hỏi cổ phần hoá NHTM nhà nớc phải hận trọng hơn nhiều so với cổ
phần hoá doanh nghiệp.
Điều này đòi hỏi cổ phần hoá NHTM Nhà nớc phải thận trọng hơn nhiều
so với cổ phần hoá doanh nghiệp.
9
1.2.2 Sự cần thiết phải cổ phần hoá NHTM nhà nớc
Với những vai trò chức năng của mình hệ thống ngân hàng đóng vai trò
nh mạch máu của nền kinh tế. Ngày nay sự vận động của kinh tế thế giới là
kinh tế hàng hoá với cơ chế thị trờng không chỉ cạnh tranh trong nớc mà cả
quốc tế. Việc Việt Nam thực hiện đổi mới mở cửa đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu
quả hoạt động của DNNN, chuyển DNNN thành doanh nghiệp độc lập tự chủ
trong đó bao gồm cả đổi mới cơ cấu hệ thống NHTM Nhà nớc Việt Nam. Trớc
yêu cầu đó cổ phần hoá đợc xem là biện pháp khả thi nhất đợc ví nh một mô
hình tối u, một sản phẩm văn minh của nền kinh tế thị trờng. Bởi vì cổ phần
hoá sẽ giúp NHTM Nhà nớc giải quyết đợc những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, tăng vốn tự có để đáp ứng yêu cầu về tăng trởng và an toàn
Về năng lực tài chính nói chung các NHTM nhà nớc Việt Nam còn rất
yếu so với nhu cầu thực tiễn. Thiếu vốn tự có đang là một vấn đề bức xúc đối
với NHTM Nhà nớc. Thực tế, trong số vốn tự có hiện nay của các ngân hàng thì

trên 50% là vốn danh nghĩa, tức là đợc hình thành từ trái phiếu đặc biệt của
Chính phủ. Loại trái phiếu này chỉ biến thành vốn mỗi năm có 3% do cách trả
lãi trái phiếu đặc biệt của bộ tài chính và chỉ là giải pháp tình thế.
Để đạt đợc tỉ lệ an toàn vốn quốc tế tối thiểu là 8%, nh dự kiến đến năm
2010, các NHTM quốc doanh cần 117.000 tỷ đồng. Với tình trạng ngân sách
Nhà nớc nh hiện nay (tổng thu ngân sách 150 nghìn tỷ đồng/ năm, lại phải phân
bổ cho nhiều mục tiêu quan trọng khác), thì đây là con số nằm ngoài khả năng
của ngân sách. Mặt khác, yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nớc cần phảI có một lợng vốn lớn. Vì vậy NHTM nhà nớc cần có đủ tiềm
lực tài chính để cho vay đối với nền kinh tế. Bằng con đờng cổ phần hoá, sau cổ
phần hoá, các NHTM Nhà nớc sẽ có khả năng huy động vốn từ dân c, từ thị tr-
ờng chứng khoán và nhà đầu t nớc ngoài, những chủ nhân mới có thể đáp ứng
nhu cầu vốn của Ngân hàng. Nh vậy, cổ phần hoá sẽ giúp ngân sách Nhà nớc
giảm bớt gánh nặng đồng thời tăng cờng năng lực tài chính cho NHTM Nhà nớc
Thứ hai, bứt ra khỏi tín dụng theo chỉ định và rủi ro đạo đức.
10
Khu vực DNNN chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu tín dụng của
NHTM Nhà nớc. Vấn đề đáng nói là mặc dù kinh doanh kém hiệu quả nhng các
DNNN lại đợc hởng các đặc quyền nh vay không thế chấp, vay lãi suất thấp, đ-
ợc nhà nớc bảo lãnh tiền vay Năm 2003, tổng số nợ phải đòi của các DNNN
khoảng 96.000 tỷ đồng trong nợ phải trả (chủ yếu là NHTM Nhà nớc) gấp đôi
số nợ phải đòi. Nhiều DNNN và cơ quan chủ quản đề nghị chính phủ, Thủ tớng
chính phủ can thiệp vào hoạt động tín dụng của NHTM quốc doanh nh cho phép
Ngân hàng cho vay vợt 50% vốn tự có, đồng ý để Ngân hàng miễn thế chấp,
xin giãn nợ, khoanh nợ, xoá nợ làm xấu đi quan hệ tín dụng thơng mại. Cổ
phần hoá sẽ kéo NHTM Nhà nớc ra khỏi vòng luẩn quẩn của tình trạng rủi ro
đạo đức trên .
Mất đi một chỗ dựa lại phải hoạt động trong quy luật khắt khe của thị tr-
ờng đòi hỏi các DNNN cũng phải biết làm cách nào để huy động thêm vốn từ
các nguồn có thể có trong nền kinh tế. Do đó cổ phần hoá không chỉ giúp hệ

thống NHTM nhà nớc hoạt động hiệu quả hơn mà còn giúp hình thành cơ chế,
tạo môi trờng để các DNNN khác hoạt động có hiệu quả hơn.
Thứ ba, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, năng lực quản lý điều hành
Mặc dù có những cải cách đáng kể trong quản trị điều hành, hoạt động của các
NHTM nhà nớc còn bộc lộ những yếu kém về trình độ quản lý và năng lực làm
việc.
Sau cổ phần hoá, tỷ trọng sở hữu sẽ quyết định mức độ tự chủ trong kinh
doanh của Ngân hàng, trong quyết định đầu t và quyết định tín dụng. Theo đó,
năng lực điều hành quản trị của NHTM Nhà nớc sau cổ phần hoá sẽ đợc cải
thiện. Nó thúc đẩy các lãnh đạo Ngân hàng phải làm việc vì lợi ích cổ đông, có
tinh thần trách nhiệm hơn bởi lúc này giám đốc là ngời làm thuê chịu sự giám
sát chặt chẽ trong điều hành hoạt động Ngân hàng. Với sự giám sát của các nhà
đầu t qua việc niêm yết cổ phiếu của Ngân hàng trên thị trờng chứng khoán,
cũng nh tính nhạy cảm của nhà đầu t về tính minh bạch trong hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng, mô hình cổ phần hoá giảm thiểu đợc tình trạng trì
11
trệ,hoạt động kém hiệu quả .Khi quyền lợi riêng gắn với quyền lợi chung thì ng-
ời lao động cũng quan tâm hơn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh, không
ngừng tiết kiệm chi phí đem lại lợi ích cho Ngân hàng nói riêng và cho nền kinh
tế nó chung.
Thứ t, hiện đại hoá công nghệ và phát triển sản phẩm mới.
Vấn đề hiện đại hoá công nghệ tuy đã đợc quan tâm và có nhiều chuyển biến
song phần lớn cũng mới trong giai đoạn thử nghiệm và mới chỉ chủ yếu đợc
thực hiện tại các đô thị.Thông qua công cụ cổ phần hoá, tạo điều kiện cho các
Ngân hàng thu hút nguồn vốn và các nhà đầu t nớc ngoài có kinh nghiệm và
năng lực tài chính tham gia vaò công tác quản lý điều hành thời kỳ hậu cổ phần
hoá. Đây chính là cơ hội để các Ngân hàng đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản
phẩm dịch vụ.
Thứ năm, nâng cao năng lực cạnh tranh
Việc Việt Nam tham gia vào hiệp định Việt Nam - Hoa Kỳ và hội nhập

kinh tế quốc tế, tự do hoá tài chính, khi những rào cản đợc gỡ bỏ dần để tiến tới
một sân chơi bình đẳng, đặt các NHTM Nhà nớc Việt Nam trớc nguy cơ lớn về
sự cạnh tranh gay gắt với các Ngân hàng khác, không chỉ với các Ngân hàng
trong nớc mà còn các Ngân hàng nớc ngoài mà trớc hết ở đây là các Ngân hàng
của Mỹ. Hiện tại thị phần huy động vốn 76% tổng nguồn vốn huy động toàn hệ
thống Ngân hàng đã góp phần tạo nên một nền vốn tơng đối ổn định cho hoạt
động tín dụng của các NHTM Nhà nớc. Nhng liệu khả năng huy động vốn này
của các Ngân hàng có giữ nguyên đợc nh vậy khi hiệp định thơng mại Việt-Mỹ
có hiệu lực vào năm 2010. Khi ấy, đối xử quốc gia đầy đủ, các Ngân hàng Hoa
Kỳ sẽ không bị hạn chế quyền nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ các pháp
nhân, thể nhân Việt Nam. Chắc chắn khi đó, một bộ phận không nhỏ của
NHTM Nhà nớc sẽ trở thành khách hàng của các chi nhánh Ngân hàng Hoa Kỳ
và các Ngân hàng con của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Điều này là dễ hiểu vì các
Ngân hàng Hoa Kỳ có khả năng cung cấp các dịch vụ trên cơ sở nền tảng công
nghệ hiện đại, tiện ích, trình độ kinh nghiệm quản lý sử dụng vốn hiệu quả.
12
Các NHTM quốc doanh sẽ phải chia sẻ thị phần, kéo theo đó là sự suy giảm về
nguồn vốn .
Khi các điều kiện hạn chế đối với chi nhánh và Ngân hàng con của Hoa
Kỳ đợc cởi bỏ dần, lợi thế về thị phần tín dụng của NHTM nhà nớc cũng rất có
thể không còn. Vốn tự có của các NHTM Nhà nớc là nhỏ bé. Thực tế để tài trợ
cho các dự án lớn, các NHTM Nhà nớc thờng phải tiến hành cho vay dới hình
thức hợp vốn. Khi các Ngân hàng Hoa Kỳ hoạt động tại Việt Nam đợc nới lỏng
theo lộ trình, thì khả năng họ giành đợc các dự án khả thi có quy mô lớn của các
Ngân hàng trong nớc là rất rõ. Việc này đồng nghĩa với việc các Ngân hàng
trong nớc sẽ mất khách hàng và khách hàng sẽ gia tăng sử dụng các dịch vụ
khác của Ngân hàng Hoa Kỳ và quan hệ giao dịch với các Ngân hàng trong n-
ớc sẽ giảm đi.
Trong quá trình hội nhập ,đối thủ cạnh tranh của các NHTM Nhà nớc
không chỉ là Ngân hàng Hoa Kỳ mà còn nhiều Ngân hàng nớc ngoài khác.Việc

Việt Nam sắp gia nhập tổ chức thơng mại thế giới (WTO) cũng đòi hỏi việc mở
cửa của lĩnh vực tài chính tiền tệ. Sự lớn mạnh của các Ngân hàng trong nớc
ngoài quốc doanh cũng đang tạo sức ép cạnh tranh với các NHTM Nhà nớc.Để
tồn tại và đứng vững trong môi trờng ấy,cổ phần hoá để chuyển dịch cơ chế
hoạt động, đa dạng hoá sở hữu,bình đẳng trong hoạt động, chuyên môn hoá
nghiệp vụ, đổi mới công nghệ hoạt động, kinh nghiệm quản lý, chất lợng nhân
sự là con đờng duy nhất của các NHTM Nhà nớc Việt Nam, tạo ra sự cạnh tranh
lành mạnh cho các Ngân hàng.
Vì cổ phần hoá là một phơng thức hữu hiệu, giúp các NHTM Nhà nớc có
thể cùng một lúc đạt đợc nhiều mục tiêu trong chiến lợc phát triển nh thế nên có
thể khẳng định cổ phần hoá là cần thiết đối với các NHTM Nhà nớc.
1.3 Kinh nghiệm về cổ phần hoá NHTM nhà nớc trên thế giới.
Cổ phần hoá NHTM nhà nớc đang là một xu thế diễn ra phổ biến trên thế
giới. Trong khoảng 15 năm qua, đã có rất nhiều quốc gia tiến hành cổ phần hoá
các NHTM sở hữu nhà nớc. Đây có thể xem là một trong những điểm mốc đánh
13
dấu sự thay đổi trong nhận thức về vai trò của NHTM nhà nớc đối với quá trình
phát triển kinh tế đất nớc và vai trò của chính phủ trong việc lên kế hoach và
điều tiết sự phát triển đó. Việc tìm hiểu, xem xét về quá trình cổ phần hoá của
một nớc đi trớc, nhất là những nớc có có đặc điểm kinh tế xã hội tơng đồng với
nớc ta, có thể đem lại những bài học kinh nghiệm hữu ích cho việc cổ phần hoá
các NHTM nhà nớc hiện nay.
1.3.1. Cổ phần hoá NHTM nhà nớc tại một số quốc gia.
1.3.1.1. Cổ phần hoá NHTM nhà nớc tại Mexico:
Năm 1991, Chính phủ Mexico bắt đầu thực hiện cổ phần hoá các NHTM
nhà nớc. Tháng 8/1991, ngân hàng đầu tiên thực hiện cổ phần hoá là Banco
Nacional de Mexico (Banamex) với tổng tài sản 4.430 triệu USD, trong đó phần
bán cho các nhà đầu t t nhân là 70.7% (3.132 triệu USD). Ngay sau đó, vào
tháng 10/1991, một ngân hàng khác là Grupo Financiero Bancomer cũng đợc cổ
phần hoá giống Banamex, tức là bán một phần tài sản cho nhà đầu t t nhân.Tổng

giá trị ngân hàng này 2.798 triệu USD với tỷ lệ bán 56%. Tháng 12/1993, Ngân
hàng thứ ba tiến hành cổ phần hoá là Grupo Financiero Serfin. Khác với hai
ngân hàng trớc, ngân hàng này không bán tài sản cho các nhà đầu mà thực hiện
bán cổ phiếu để thu hút thêm vốn đầu t.
Tuy nhiên, đến năm 1994-1995 đã xảy cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ ở Mexico làm cho tỷ giá bị sụp đổ, lãi suất tăng với tốc độ chóng mặt. Để cứu
cho hệ thống ngân hàng trong đó có các ngân hàng vừa tiến hành cổ phần hoá,
Chính phủ Mexico đã phảI chi khoảng 100 tỷ USD (tơng đơng 16%GDP) nhằm
tái cấp vốn và cơ cấu lại bảng cân đối tài sản trớc khi thực hiện bán một số ngân
hàng cho các nhà đầu t nớc ngoài. Theo đánh giá của các chuyên gia thì nguyên
nhân xảy ra cuộc khủng hoảng ở Mexico có một phần bắt nguồn thu từ cổ phần
hoá nên đã quá vội vàng khi thực hiện cổ phần NHTM nhà nớc khi cha đủ điều
kiện vì trớc đó các NHTM nhà nớc ở Mexico đều hoạt động trong tình trạng
thiếu vốn, kém hiệu quả và không tuân theo chuẩn mực quốc tế.
1.3.1.2.Cổ phần hoá NHTM nhà nớc ở Đông Âu.
14
- Cổ phần hoá NHTM nhà nớc ở Cộng hoà Séc:
Cộng hoà Séc bắt đầu cảI cách hệ thống ngân hàng vào đầu những năm
1990. Lúc này, tất cả vốn lu động của các doanh nghiệp nhà nớc đợc tài trợ bởi
các khoản tín dụng ngắn hạn theo hạn mức với lãi suất thấp đợc xem là các
khoản vay khó đòi (TOZ). Với mục tiêu tái cấu trúc các khoản vay này theo các
điều kiện thơng mại, Séc đã thành lập cen- tralized hospital bank với tên gọi là
Konsolidachi Banka (KnB). Tất cả các khoản TOOZ đợc chuyển nhợng cùng
với lợng tơng ứng các khoản tiền gửi doanh nghiệp từ các ngân hàng khác. Tuy
nhiên các khách hàng là các doanh nghiệp nhà nớc vẫn duy trì quan hệ với các
ngân hàng mà đang đợc cung cấp các dịch vụ ngân hàng và các khoản vay mới.
Qua nhiều thời kì, các khoản vay khác lại đợc phân loại nợ xấu và đợc chuyển
từ các ngân hàng lớn nhất cộng hoà Séc cho Knb để xử lý và nhà nớc tái cấp
vốn cho các ngân hàng này. Mặc dù thời điểm cải cách đợc xem là phù hợp, nh-
ng Séc đã thất bại trong việc tái cấu trúc hệ thống tài chính với mục tiêu xây

dựng bốn NHTM quốc doanh lớn thành các trụ cột của hệ thống và tách bạch
các khoản cho vay chỉ định với các điều kiện đãi sang một ngân hàng chuyên
biệt. Nguyên nhân là vì nền tảng cho khu vực ngân hàng định hớng thị trờng
mạnh cha đợc thiết lập. Các ngân hàng lớn vẫn cha có sự độc lập từ Chính phủ.
Nhà nớc vẫn chiếm cổ phần chi phối trong các ngân hàng sau khi chúng đợc cổ
phần hoá. Các ngân hàng không những vẫn giữ lại mối quan hệ với các khách
hàng mà còn nắm giữ cổ phần của các khách hàng này trong quá trình cổ phần
hoá. Điều này đã làm nảy sinh vấn đề mâu thuẫn giữa lợi ích của chủ sở hữu và
chủ nợ. Khi có một cuộc khủng hoảng tiền tệ nhỏ tác động đến, bảng cân đối
của các ngân hàng sẽ bị ảnh hởng. Vấn đề nợ xấu không đợc giải quyết triệt để
do các khoản tín dụng u đãI vẫn đợc tiếp tục. Để giải quyết triệt để vấn đề này,
các ngân hàng lớn của Séc cần một đợt tái cấp vốn đáng kể trớc khi có thể bán
cho các nhà đầu t. Ước tính tổng chi phí của việc tái cấu trúc các ngân hàng
của Séc lên đến 30% GDP. Đây là con số cao nhất trong chơng trình tái cấu trúc
của các nền kinh tế chuyển đổi.
15
- Cổ phần hoá NHTM nhà nớc ở Hungary.
Ngợc lại với cổ phần Séc, Hungary theo đuổi chính sách cổ phần hoá các ngân
hàng quốc doanh bằng việc bán cổ phần chi phối cho các nhà đầu t chiến lợc n-
ớc ngoài càng nhanh càng tốt. Việc bán nh vậy đòi hỏi việc táI cấp vốn của các
ngân hàng phảI tạo ra sự kết nối giữa giá trị ròng hiện tại và những giá trị đặc
lợi thu hút các nhà đầu t nớc ngoài. Hai đợt táI cấp vốn và nhiều đợt táI cấp vốn
bổ sung của các ngân hàng trong nớc tạo cho Hungary có đợc giảI pháp phù
hợp xử lý vấn đề nảy sinh từ tâm lý ỷ lại mà trớc đó gần nh cha đợc đề cập đến.
Đợt táI cấp vốn lần thứ nhất cha đủ tác động mạnh vì các công cụ đợc sử dụng
cha đủ thanh khoản và thu hút về phơng diện tài chính vì các ngân hàng đợc táI
cấp vốn vẫn cung ứng tín dụng và các dịch vụ ngân hàng và các khách hàng
kém hiệu quả. Đợt táI cấp vốn thứ hai sử dụng các công cụ có tính thị trờng là
sự thành công đáng kể vì việc cổ phần hoá thực sự nhắm đến các nhà đầu t t t
nhân và đầu t nớc ngoài. Việc táI cấp vốn kết hợp với chiến lợc cổ phần hoá đa

Hungary trở thành nớc có hệ thống ngân hàng mạnh nhất trong các nền kinh tế
chuyển đổi
- Cổ phần hoá NHTM nhà nớc ở Ba Lan
Là nớc đi đầu trong quá trình cổ phần hoá các DNNN trong đó có các NHTM
nhà nớc với sự giúp đỡ về kỹ thuật và tài chính của WB và nhóm các nớc G7.
Kế hoạch đợc đa ra là hết năm 1996 Ba Lan sẽ cổ phần hoá 7 trong số 9 NHTM
nhà nớc, nhà nớc sẽ nắm giữ 30% cổ phiếu, nhân viên ngân hángẽ nắm giữ
20%, còn lại sẽ đợc bán đấu gía cho nhà đầu t nhỏ và một số đối tác chiến lợc.
Tuy nhiên tỷ lệ này đợc điều chỉnh theo thời gian.
Mục tiêu cổ phần hoá của Ba Lan:
- Duy trì sở hữu của nhà đầu t trong nớc, tránh sự thôn tính của nhà đầu
t nớc ngoài.
- Tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nớc.
- Củng cố phát triển hệ thống ngân hàng nội địa, chuẩn bị cho sự cạnh
tranh với các ngân hàng nớc ngoài
16
Hai ngân hàng đợc cổ phần hoá đầu tiên là hai ngân hàng có chất lợng
quản lý và tình hình tài chính tơng đối tốt.
Thứ nhất là ngân hàng Wiekopolski Bank Kredytowy (WBK) đợc cổ
phần hoá với gía bán trung bình là 6,98USD/ cổ phiếu theo phơng thức thoả
thuận giữa ngời mua vầ nhà nớc. Tháng 6/1993 cổ phiếu ngân hàng này đợc
niêm yết trên thị trờng chứng khoán với giá 19,66USD. Ngân hàng này đợc cổ
phần hoá với sự trợ giúp của WB để thu hút đầu t chiến lợc từ nớc ngoài nhằm
chuyển giao công nghệ vào Ba Lan. Năm 1997, ngân hàng Allied Irish Bank đã
nắm quyền kiểm soát ngân hàng với 60% cổ phiếu.
Ngân hàng thứ hai là BSK, đợc cổ phần hoá vào tháng 12/1993. Nhằm
tránh tình trạng định giá cổ phiếu quá thấp nh ngân hàng trớc nên cổ phiếu lần
này đợc lên kế hoạch bán đấu giá công khai. Tuy nhiên, do có sự thay đổi về
chính phủ sau bầu cử nên quá trình bán đấu giá không thành công, giá cổ phiếu
ngân hàng này đợc định giá là 25USD/cổ phiếu. Trong đó công nhân đợc mua u

đãI với giá 12,5USD/cổ phiếu với 10% cổ phần, nhà nớc giữ 33%, bán cho nhà
đầu t chiến lợc ING của Hà Lan 25,9% còn lại bán cho nhà đầu t trong nớc.
Ngày 25/9/1994 cổ phiếu ngân hàng này đợc niêm yết và giá đợc thị tr-
ờng chấp nhận tại phiên giao dịch đầu tiên là 337,5USD/cổ phiếu. Tháng 7/1996
ING mua thêm 28% cổ phần của nhà nớc và nắm tỷ lệ chi phối là 54%.
Ngân hàng thứ ba là ngân hàng Przemyslowo- Handlowy vào tháng
1/1995. Vì là ngân hàng có chất lợng quản lý, tín dụng thấp so với 2 ngân hàng
trớc nên giá bán của cổ phiếu sau khi đấu giá công khai bằng giá thấp nhất của
chính phủ đa ra ban đầu và nhà nớc nắm giữ 43% cổ phần.
Trớc tình hình đó, năm 1995 chính phủ Ba Lan đã đa ra kế hoạch củng cố
các ngân hàng trớc khi cổ phần hoá rộng hơn để đảm bảo tận thu cho ngân sách
và hạn chế tỷ lệ nắm giữ cổ phần chi phối của nớc ngoài.
Tháng 12/1995, ngân hàng thứ t đợc tiến hành cổ phần hoá là ngân hàng
Gdanski( BG). Kế hoạch đợc thông báo là 33% cổ phiếu bán cho nhà đầu t nớc
17
ngoài theo danh mục đầu t, 33% bán cho nhà đầu t trong nớc, 30% nhà nớc nắm
giữ, còn lại bán cho cán bộ nhân viên ngân hàng.
Cuối năm 1995, nhằm tránh sự chi phối của hệ thống ngân hàng nớc
ngoài, Chính phủ đã công bố kế hoạch củng cố bằng việc sáp nhập tất cả các
NHTM nhà nớc còn lại cùng với ngân hàng BPH thành 2 ngân hàng lớn.
1.3.1.3 Cổ phần hoá NHTM nhà nớc tại Trung Quốc.
Sau hơn 27 năm, thực hiện công cuộc đổi mới và chính sách mở cửa, hệ
thống ngân hàng Trung Quốc đang đứng trớc sức ép cạnh tranh rất lớn bởi các
cam kết gia nhập WTO đầy đủ vào cuối năm 2006. Hiện tại trong khi hội nhập
về thơng mại của Trung Quốc với cộng đồng quốc tế đạt 80% thì hội nhập của
ngành ngân hàng- tài chính tiền tệ chỉ đạt 1%. Do đó vấn đề cải cách hệ thống
ngân hàng mà trớc hết là các ngân hàng thơng mại quốc doanh đang đợc chính
phủ Trung Quốc dành sự quan tâm đặc biệt.
Hệ thống NHTM nhà nớc ở Trung Quốc hiện nay gồm 4 ngân hàng làm
chủ 60% tổng tài sản và khoảng 80% thị phần cho vay với cơ cấu tổ chức mang

tính chất chính sách nặng nề, tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2004 là 21,4%, số vốn điều lệ
nhỏ bé, tỷ lệ an toàn vốn thấp. Do vậy, giảI pháp quan trọng nhất đối với các
NHTM quốc doanh đợc xác định là cổ phần hoá. Nội dung quá trình cổ phần
hoá NHTM nhà nớc ở Trung Quốc bao gồm:
Thực hiện các giải pháp tăng vốn ngân hàng và xử lý nợ xấu.Tháng 8/1998
tỷ lệ nợ xấu của các NHTM quốc doanh là 25,5%/tổng d nợ cho vay. Theo báo
cáo của các ngân hàng đến hết năm 2004 còn 13-14%.
Thành lập 4 công ty quản lý tài sản của 4 NHTM quốc doanh và chuyển
giao nợ xấu cho 4 công ty này là giải pháp đầu tiên của Trung Quốc để xử lý nợ
xấu. Tuy nhiên việc này đợc xe, là không thành công khi hiệu quả xử lý các
khoản nợ tồn đọng thông qua các AMC là quá thấp.
Năm 1998, bộ tài chính đã tiếp thêm 270 tỷ CNY cho các NHTM quốc
doanh nhng cũng không giảI quyết đợc vấn đề. Đồng thời, quỹ an toàn vốn đã
đợc thành lập để năng tỷ lệ an toàn vốn cho 4 NHTM quốc doanh, nhng trong 5
18
năm qua các ngân hàng này cha đáp ứng đợc yêu cầu này. Đợt tiếp thêm vốn và
xoá nợ gần đây nhất trị giá 200 tỷ USD cũng cha giúp 4 NHTM quốc doanh
thoát khỏi gánh nặng nợ khó đòi. Thực tế các khoản nợ khó đòi cũ giảm đi bằng
lợng các khoản nợ mới tăng thêm, nên tổng số nợ xấu của các ngân hàng này
không giảm mà đã đợc che dấu thông qua sự gia tăng khối lợng các khoản cho
vayngoai. Cuối năm 2003, theo thống kê chính thức cho thấy nợ khó đòi
chieems 23% tổng d nợ nhng theo Standard & Poors và Moondys thì tỷ lệ này
lên tới 40%.
Để đạt đợc tỷ lệ an toàn vốn 8%, 4 ngân hàng này phảI cần đến khoảng
500 tỷ CNY. Cuối tháng 12/2003 Trung Quốc đã quyết định sử dụng dự trữ
ngoại tệ quốc gia để tiếp thêm vốn cho các NHTM quốc doanh với số tiền là 45
tỷ USSD, khoảng 1/10 dự trữ ngoại tệ quốc gia cho 2 ngân hàng tốt nhất là ngân
hàng Kiến thiết Trung Quốc và ngân hàng Trung Quốc.Để loại bỏ tâm lý dựa
dẫm của các NHTM quốc doanh, Bộ Tài chính khẳng định rằng việc tiếp vốn
này là một hình thức cho vay, và các ngân hàng sẽ phải trả lãi cho số tiền trên.

Bên cạnh các biện pháp trên, để giúp các NHTM quốc doanh tăng cơ sở
vốn, NHTW Trung Quốc cho biết sẽ cho phép các ngân hàng này phát hành tráI
phiếu thứ cấp và chứng chỉ tiền gửi chuyển nhợng sau khi ban hành các quy
định mới về tài chính cho phép các ngân hàng bán các khoản nợ thứ cấp trên thị
trờng liên ngân hàng trong nớc và thông qua các cơ sở t nhân. Ngày 7/7/2004
vừa qua, ngân hàng Trung Quốc đã phát hành 1,7 tỷ UUSSdD tráI phiếu thứ
cấp trên thị trờng liên ngân hàng có thời hạn 10 năm với coupon hàng nặm là
4,87% nhằm cảI thiện tình hình tài chính. Cả 4 NHTM quốc doanh Trung Quốc
dự định phát hành tổng cộng 36 tỷ USD tráI phiếu thứ cấp nhằm cố đạt đợc tỷ lệ
an toàn vốn 8%.
Về chọn ngân hàng cổ phần hoá, kế hoạch của Trung Quốc sẽ bắt đầu từ
hai ngân hàng tốt nhất là ngân hàng Trung Quốc và ngân hàng kiến thiết Trung
Quốc. Ngân hàng Công thơng Trung Quốc dự kiến cũng đợc cổ phần hoá vào
năm 2007. Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc, ngân hàng đợc đánh giá là yếu
19
kém nhất trong số 4 NHTM quốc doanh Trung Quốc sẽ là ngân hàng cuối cùng
tiến hành cổ phần hoá.
Luật pháp Trung Quốc mới sửa đổi cũng quy định để đợc niêm yết trên thị
trờng chứng khoán, các ngân hàng phảI có ít nhất 5 chủ sở hữu.
Về tìm đối tác chiến lợc đầu t vào NHTM quốc doanh đợc cổ phần hoá th-
ờng đợc lựa chọn các nhà đầu t tài chính của Mỹ. Tuy nhiên, Chính phủ Trung
Quốc cũng quy định giới hạn tỷ lệ cổ phần nhà đầu t nớc ngoài sở hữu trong 1
NHTM của Trung Quốc. Tỷ lệ cổ phần tối đa một nhà đầu t nớc ngoài đợc nắm
giữ trong một ngân hàng của Trung Quốc đợc nâng từ mức 15% lên 20% nhng
tổng tỷ lệ tối đa của tất cả các cổ đông nớc ngoài vẫn giữ ởmức không quá 25%.
Các ngân hàng tự hoạch định kế hoạch, phơng án phát hành cổ phiếu để
tăng vốn. Sau đó thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp, mệnh giá cổ phần hoá,
thực hiện cổ phần hoá và niêm yết cổ phiếu trên thị trờng chứng khoán. Quá
trình cổ phần hoá không tách rời với các hoạt động đẩy mạnh kinh doanh trong
ngân hàng kết hợp với tăng lơng hợp lý cho cán bộ nhân viên ngân hàng, hoàn

thiện các quy chế quản trị điều hành, cơ cấu tổ chức theo các tiêu chuẩn quốc
tế, đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng tiện ích.
Hiện nay, 2 trong 4 NHTM quốc doanh là Ngân hàng Trung Quốc và ngân
hàng kiến thiết Trung Quốc đã xây dựng phơng án và đang bán cổ phần trên thị
trờng chứng khoán nớc ngoài. Ngân hàng Trung Quốc đã hoàn tất tái cơ cấu sở
hữu và cổ phần hoá vào ngày 27/8/2005. Vốn đăng ký của ngân hàng là 186,4
tỷ CNY(22,2 tỷ USD).
1.3.2 Bài học kinh nghiệm
1.3.2.1 Chọn ngân hàng nào để cổ phần hoá.
Theo nghiên cứu của Clarke và Cull (2002) về tiến trình cổ phần hoá các
NHTM nhà nớc ở Achentina thì các ngân hàng thơng mại thờng đợc chọn là các
ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, có số lợng lao động thấp bởi nếu cổ phần
hoá các ngân hàng có nhiều lao động sẽ xảy ra ảnh hởng lớn về chính trị khi
một lợng lớn nhân viên bị sa thảI; các ngân hàng nhỏ thờng đợc tiến hành cổ
20
phần hoá trớc. Tuy nhiên, một nghiên cứu khác của John Bonin và Paul Wachtel
(1999) với các nớc Đông Âu thì các nớc này lại chọn các ngân hàng có chất l-
ợng tốt hơn để cổ phần hoá trớc, trong số các ngân hàng đó thì lại chọn ngân
hàng có quy mô nhỏ hơn. Cổ phần hoá NHTM quốc doanh ở Trung Quốc cũng
lựa chọn ngân hàng tốt nhất để cổ phần hoá.
1.3.2.2 Chọn mục tiêu cổ phần hoá.
Tuỳ theo hoàn cảnh, điều kiện của từng nớc mà chọn ra các mục tiêu cho
quá trình cổ phần hoá. Tránh trờng hợp nh cổ phần hoá NHTM nhà nớc ở Ba
Lan, ảnh hởng bởi sự bất ổn về chính trị, mục tiêu u tiên của chính phủ thay đổi
cộng với việc lựa chọn quá nhiều mục tiêu làm tiến trình cổ phần hoá bị chậm
lại.
1.3.2.3 Chọn phơng thức cổ phần hoá.
Các nớc thờng lựa chọn 1 trong 2 phơng pháp chính sau hoặc hỗn hợp giữa
hai phơng pháp đó để tiến hành cổ phần hoá các NHTM nhà nớc:
Thứ nhất là phơng thức bán tài sản công ty. Theo phơng thức này thì toàn

bộ tài sản công ty sẽ đợc mang ra bán, hoặc là đấu giá hoặc là giá thoả thuận
với đối tác. Có thể đối tác là một doanh nghiệp khác hoặc là nhóm nhà đầu t.
Nhà nớc có thể bán một phần doanh nghiệp hoặc bán tất. Thông thờng tài sản
công ty thờng đợc thực hiện thông qua một cuộc đấu giá công khai. Mexico là
nớc đã tiến hành cổ phần hoá các NHTM nhà nớc chủ yếu theo cách này.
Thứ hai là phơng thức phát hành cổ phiếu ra công chúng. Theo cách này
thì một công ty , ngân hàng sẽ đợc cổ phần hoá bằng cách nhà nớc phát hành cổ
phiếu công ty ra thị trờng cho cá nhân và tổ chức tài chính, hay doanh nghiệp
khác. Đây là cách tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc khá phổ biến và
mang lại hiệu quả kinh tế nhất cho ngân sách nhà nớc.
1.2.3.4 Chuẩn bị cổ phần hoá.
Nhiệm vụ quan trọng nhất để chuẩn bị cho chuẩn bị cổ phần hoá NHTM
nhà nớc là tái cấp vốn và xử lý nợ xấu để nâng cao năng lực tài chính cho các
ngân hàng. Đây là một nhiệm vụ phức tạp, đòi hỏi phải có các giải pháp phù
21
hợp với những bớc cẩn trọng, kịp thời đối phó với các khó khăn nảy sinh. Tránh
trờng hợp sau khi đợc tái cấp vốn các ngân hàng vẫn tiếp tục cung ứng tín dụng
cho các khách hàng kém hiệu quả, các khoản nợ cũ giảm đi bằng nợ xấu phát
sinh.
1.2.3.5 Về cơ cấu sở hữu vốn.
Khi tiến hành cổ phần hoá NHTM nhà nớc, các nhà đầu t đợc xác định
gồm Nhà nớc, nhà đầu t nớc ngoài, cán bộ công nhân viên ngân hàng, các nhà
đầu t trong nớc (các doanh nghiệp, công chúng). Về nắm giữ cổ phần chi phối,
tuỳ theo hoàn cảnh, mục tiêu đặt ra đối với thực hiện cổ phần hoá NHTM nhà
nớc mà lựa chọn ngời nắm cổ phần chi phối của ngân hàng là nhà nớc, nhà đầu
t trong nớc hay là nhà đầu t nớc ngoài. Nếu là nhà nớc nắm giữ cổ phần chi phối
thì phải đảm bảo hoạt động của ngân hàng sau cổ phần hoá tuân theo nguyên
tắc thị trờng, quyền định đoạt, kiểm soát ngân hàng của các cổ đông khác.
Ngoài ra cũng cần xác định tỷ lệ nắm giữ cổ phần phù hợp cho các nhà đầu t
còn lại.

Bên cạnh những bài học cơ bản trên, cổ phần hoá NHTM nhà nớc ở các n-
ớc còn cho thấy cổ phần hoá ngân hàng phải luôn gắn với nâng cao hiệu quả
hoạt động hệ thống ngân hàng, cổ phần hoá dù bằng hình thức nào cũng cần
phải đợc đấu giá công khai trên thị trờng để đảm bảo giá trị ngân hàng.
Nói chung cổ phần hoá NHTM nhà nớc trên thế giới của mỗi một quốc gia
đều có những đặc điểm không giống nhau, có những thành công nhng cũng
không phảI không có những thất bại. Từ thực tiễn xem xét quá trình này của
từng quốc gia, Việt Nam cần đúc rút, tìm ra những bài học kinh nghiệm phù
hợp để áp dụng đối với cổ phần hoá NHTM nhà nớc Việt Nam trong giai đoạn
đầu còn nhiều bỡ ngỡ để đạt đợc mục tiêu cải cách ngân hàng.
22
Chơng II
Thực trạng cổ phần hoá NHTM nhà nớc ở Việt Nam
2.1. Khái quát hoạt động của NHTM Nhà nớc
2.1.1 Những thành tựu đạt đợc
Thế kỉ 21 đánh dấu những sự kiện quan trọng trong hoạt động của ngành
Ngân hàng Việt Nam. Là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân,
ngành Ngân hàng đã tham gia và đóng góp tích cực cho chiến lợc phát triển
kinh tế, xã hội của đất nớc. Bên cạnh đó, ngành đã có những chiến lợc phát triển
phù hợp vợt qua những yếu kém tồn tại, đối phó với mọi thách thức từ môi trờng
bên ngoài, đồng thời biết tận dụng mọi cơ hội để phát triển.
Vẫn giữ vị trí đi đầu trong toàn hệ thống, các NHTM quốc doanh với thị
phần huy động vốn và tín dụng chiếm 70 80%, hoạt động hiệu quả đã đạt đ-
ợc những thành tích đáng mừng, góp phần quan trọng cho tăng trởng, ổn định
kinh tế trong thời kì đổi mới. Những thành tích đó đợc biểu hiện cụ thể qua các
chỉ tiêu:
Về vốn tự có: Là chỉ tiêu cơ bản đánh giá tiềm lực tài chính của NHTM
Nhà nớc. Vốn tự có của Ngân hàng thờng chiếm tỷ trọng nhỏ dới 10% so với tài
sản có nhng vốn tự có có vai trò quan trọng đối với Ngân hàng vì :
Tiềm lực vốn tự có của Ngân hàng quyết định quy mô hoạt động của

Ngân hàng.
Vốn tự có của Ngân hàng quy định năng lực thanh toán và tạo ra uy tín
của Ngân hàng .
Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của Ngân hàng .
Đối với kinh doanh tiền tệ, Ngân hàng có vốn tự có lớn và duy trì đợc vốn
tự có là biểu hiện của một Ngân hàng bền vững.Theo Thoả ớc về Đo lờng vốn
và tiêu chuẩn vốn quốc tế năm 1988 của uỷ ban Basel II, hệ số vốn tự có/ tổng
23
tài sản có điều chỉnh theo mức độ rủi ro (Hệ số CAR=Capital Adeqcy Ratio)
của các Ngân hàng tối thiểu phải là 8%.
ở Việt Nam, vốn tự có của các NHTM Nhà nớc tăng liên tục trong giai
đoạn 2002 2005. Năm 2002 2003, vốn tự có tăng với tỉ lệ tơng ứng là
69% và 42% đạt mức 17018 tỷ đồng vào cuối năm 2003. Sự gia tăng vốn này
chủ yếu bằng hoạt động cấp bổ sung vốn điều lệ của nhà nớc cho các Ngân
hàng. Chỉ tính riêng trong năm 2002 2003, tổng số vốn điều lệ cấp bổ sung
cho 5 NHTM Nhà nớc lên tới 9.346 tỷ, chiếm khoảng 55% vốn tự xử lý nợ và
bổ sung vốn điều lệ cho các NHTM Nhà nớc. Đến cuối năm 2004, tổng số vốn
điều lệ của 5 Ngân hàng này ớc đạt 18.031 tỷ đồng (Bảng 2.1).
Bảng 2.1. Vốn điều lệ và tỉ lệ an toàn vốn của các NHTM Nhà nớc
(tháng 12/2004)
NHTM Nhà nớc
Vốn điều lệ
(Tỷ đồng)
Tỉ lệ an toàn vốn
(%)
Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn
6.095 6,17
Ngân hàng Công thơng
3.265 4,43

Ngân hàng đầu t và phát triển
3.818 5,25
Ngân hàng Ngoại thơng
4.030 5,97
Ngân hàng phát triển nhà đồng
bằng sông Cửu Long
823 5,74
Nguồn : NHNN Việt Nam
Đầu năm 2005, bộ tài chính lại quyết định cấp thêm vốn đợt 4, đợt
cuối cùng cho các Ngân hàng trên. Tính chung trong giai đoạn 2002 - 2005, 5
Ngân hàng trên đã đợc cấp thêm vốn 4 lần với tổng số tiền là 10.921 tỷ đồng. L-
ợng vốn tăng thêm này góp phần cải thiện tình hình tài chính trong các NHTM
Nhà nớc, giảm bớt rủi ro trong hoạt động ngân hàng do thiếu vốn và tăng cờng
sự chủ động trpng việc cho vay những khách hàng có nhu cầu về vốn đầu t lớn.
Do vốn tự có tăng nên tỷ lệ an toàn vốn/ tổng tài sản có của các
Ngân hàng cũng tăng. Cuối năm 2003, tỉ lệ an toàn vốn trung bình là 3%. Đến
24
nay, tỉ lệ này khoảng 5 - 6%, đa các Ngân hàng tiến dần đến tỉ lệ an toàn vốn
quốc tế.
Về xử lý nợ xấu: Nợ xấu, nợ đọng là chỉ tiêu quan trọng nhất quyết
định đến việc làm lành mạnh hoá tình hình tài chính cho các NHTM, là cơ sở để
cơ cấu lại NHTM góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định.
Đầu năm 2002, tỉ lệ nợ quá hạn của NHTM Nhà nớc gần 7%. Nhờ sự chỉ
đạo kiên quyết của Chính phủ, sự chủ động của NHNN trong việc phối hợp với
các cơ quan có liên quan đa ra những giải pháp hữ hiệu để tháo gỡ khó khăn cho
các NHTM Nhà nớc, cộng thêm sự nỗ lực của bản thân các Ngân hàng, hàng
nghìn tỷ đồng nợ đã đợc thu hồi do bán tài sản thế chấp, do thu hồi đợc từ con
nợ chây ỳ, do xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro ,do nhà nứoc cấp thêm vốn
30/9/2004 tình hình xử lý nợ đọng của các Ngân hàng đã rất sáng sủa. Ngân
hàng Ngoại thơng cơ bản xử lý đợc nợ tồn đọng, Ngân hàng Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn xử lý đợc 80% nợ đọng, Ngân hàng đầu t và phát triển xử
lý đợc 70%, Ngân hàng Công thơng thì cha đạt đợc tiến độ đề ra do nợ tồn đọng
quá lớn phát sinh từ các vụ án. Tỷ lệ xấu / Tổng d nợ giảm đáng kể. Năm 2004
bình quân giảm 4-5% so với năm 2003, đợc thể hiện qua bảng.
Bảng 2.2.Tình hình nợ xấu của các NHTM Nhà nớc năm 2003-2004
NHTM Nhà nớc
Tháng 12/2003 Tháng 12/2004
Nợ xấu
(Tỷ đồng)
Tỷ lệ nợ xấu/
Tổng d nợ
(%)
Nợ xấu
(Tỷ đồng)
Tỷ lệ nợ xấu/
Tổng d nợ
(%)
Ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn
3.647,8 3,20 4.053,7 2,89
Ngân hàng Công thơng 6.560,4 10,62 7.245,4 9,25
Ngân hàng đầu t và phát
triển
3.064,8 4,89 4.897,6 7,01
Ngân hàng Ngoại thơng 1.240 3,13 1.450,2 2,79
Ngân hàng phát triển nhà 80,7 1,91 1.11,2 2,23
25

×