Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

LÀM THẾ NÀO ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHUYÊN MÔN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.03 KB, 13 trang )

LÀM THẾ NÀO ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CHUYÊN MÔN
Người viết :Trương Văn Lữ -PHT THCS Lương Thế Vinh
I / CƠ SỞ LÍ LUẬN:
1- Đặt vấn đề :
Nhận thức tầm quan trọng của đổi mới phương pháp dạy học
đối với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo lớp công
dân Việt Nam trong xã hội hiện đại . Thực hiện chủ trương đổi
mới phương pháp giảng dạy của ngành , trường THCS Lương
Thế Vinh đang thực hiện chủ trương cải tiến phương pháp dạy
học ở tất cả các môn học.
Tôi cũng xin mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ và hiểu biết của
mình về cách thức nâng cao chất lượng chuyên môn đối với một
đơn vị còn nhiều khó khăn.
Trước đây người ta ít than phiền về “sản phẩm” giáo dục do
số lượng ít nhưng hiện nay việc phát triển ào ạt về qui mô các
loại hình giáo dục và đào tạo thì vấn đề chất lượng giáo dục được
mọi người có tâm huyết về giáo dục đặt ra để xem xét sự yếu
kém của nó.
Trên thực tế từ đơn vị có tỉ lệ tốt nghiệp THCS thấp nhiều
năm , chính vì vậy việc lựa chọn hướng đi, các giải pháp phù hợp
với đặc điểm của đơn vị là suy nghĩ và trăn trở đầu tiên cuả tôi tại
trường :
“Làm thế nào để nâng chất lượng chuyên môn ?”
2- Phạm vi đề tài :
- Trong đề tài này chỉ áp dụng cho đơn vị còn khó khăn về điều
kiện cơ sở vật chất, với đội ngũ giáo viên tương đối ổn định và
đặc biệt khó khăn về trình độ dân trí điạ phương thấp.
- Đề tài xin được phép trình bày các vấn đề sau : Cơ sở lí luận –
Thực trạng vấn đề – Kết hợp với các giải pháp – Bài học kinh
nghiệm và đề xuất.


II / THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP:
1 / Thực trạng vấn đề :
Trường THCS Lương Thế Vinh thuộc phường Hưng Lợi ,
tiếp giáp với phường Hưng Thạnh , quận Cái Răng , đa số là
nông dân , lao động làm thuê , buôn bán nhỏ , tạm trú đông do địa
bàn có nhiều nhà trọ và nhiều khu dân cư mới .Những năm trước
2006 trường có nhiệm vụ phổ cập THCS cho học sinh của địa
bàn Hưng Thạnh .
Tỉ lệ Hs yếu lưu ban và tốt nghiệp của các năm trước 2002
luôn thấp .
Về phía đội ngũ Giáo viên chưa nhận thức đầy đủ về
phương pháp “Lấy học sinh làm trung tâm”.
Việc quan tâm chăm sóc con em của một bộ phận phụ
huynh học sinh chưa đáp ứng với nhu cầu giáo dục ngày càng cao
hiện nay:
- PHHS chưa nắm rõ quan điểm giáo dục hiện nay, thái độ
hợp tác giáo dục HS chưa rõ ràng, chưa thống nhất với nhà
trường. Giáo dục HS ở gia đình mang tính áp đặt, ít để HS thể
hiện quan điểm của mình, sử dụng mệnh lệnh, roi vọt, …và thiếu
làm gương tốt cho HS noi theo.
- Nhu cầu về kinh tế , mưu sinh được quan tâm nhiều hơn nhu cầu học tập “ Lo
cái ăn trước rồi đến cái học”. Bên cạnh tệ nạn xã hội, những thói quen xấu vẫn tồn tại
khá phổ biến và những bất cập khác.
Điều kiện về cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn , còn một
số phòng học chắp vá, thiết kế không đúng quy cách .
Từ những thực trạng nêu trên tôi đã mạnh dạn đưa ra một
một số giải pháp phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đơn vị
theo hướng đi của riêng mình nhằm giúp đơn vị giảm bớt yếu
kém về chất lượng chuyên môn.
2 / Giải pháp giải quyết vấn đề :

2.1 – Tăng cường về điều kiện cơ sở vật chất phục vụ dạy và
học :
Trường lớp , thư viện thiết bị dạy học trong nhà trường rất
quan trọng trong hoạt động dạy học, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục ở nhiều mặt cho cả thầy và trò. Trong những năm
trước do khó khăn về kinh tế của đất nước nên việc phát triển hệ
thống trường lớp của Phường Hưng Lợi rất chậm. Trường THCS
Lương Thế Vinh hoạt động trong một điều kiện môi trường chưa
thuận lợi. Chẳng hạn trường lớp không đúng qui cách, hàng rào
trường chưa hoàn chỉnh do có sự tranh chấp . Nhà thờ bao bọc
quanh trường,….
Do đó một trong những yếu tố đóng vai trò quyết định nâng
cao chất lượng dạy và học là trang thiết bị CSVC để phục vụ
công tác dạy học. Quá trình dạy học luôn gắn liền với việc sử
dụng thành thạo các phương tiện dạy học. Một thầy giáo giỏi phải
biết tổ chức cho học sinh một môi trường hoạt động để trong đó
có sự tương tác giữa các tri thức sẵn có và phương tiện học tập
thì mới phát sinh tri thức cho người học.
Từ khi về nhận công tác quản lí năm 2002, bản thân nhận
thấy điều kiện cơ sở vật chất ở một số phòng lớp ( dãy phòng học
cũ ) qúa thiếu thốn từ bảng lớp, phòng ốc tối tăm, ẩm thấp ….
Tôi đã mạnh dạn bàn bạc trong Ban giám hiệu đầu tư trang bị
ngay một số vật dụng cơ bản , tối thiểu như : thay 100% đồng
loạt các bảng từ , đóng bục giảng . Quét vôi, tăng cường ánh sáng
lớp học, chống thấm , ngập nước phòng học . Do vậy, tập thể sư
phạm đã một phần nào bớt đi mặc cảm do cơ sở vật chất thiếu
thốn và từ đó họ đã có nhiều nỗ lực trong công tác giảng dạy.
Phát huy nhiều nguồn lực tập trung phục vụ cho công tác dạy
và học. Sử dụng triệt để nguồn kinh phí trong ngân sách và ngoài
ngân sách. Ngoài ra phải kết hợp “nguồn lực “ từ phía PHHS và

địa phương để xây dựng CSVC. Nâng cấp sửa chữa cơ sở vật
chất hàng năm .
2.2 – Bồi dưỡng về nhận thức và chuyên môn cho đội ngũ :
a) Bồi dưỡng về công tác nhận thức cho đội ngũ :
Chất lượng chuyên môn phụ thuộc rất lớn vào tập thể sư
phạm, yếu tố con người đóng vai trò quyết định mà các văn kiện
của Đảng & nhà nước đã nêu rõ trong chỉ thị 40/CT/TW ngày
15/06/2004 của Ban bí thư TW Đảng về việc xây dựng, nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục. Người
thầy cần giỏi về chuyên môn đồng thời lại phải tốt về nhân cách
mới thực hiện hoàn hảo nhiệm vụ của mình, thực sự là những “
Kĩ sư tâm hồn “.
Mặt khác , nhận thức của đội ngũ cũng ảnh hưởng đến chất
lượng giáo dục. Mọi suy nghĩ đều dẫn dắt hành động của chúng
ta, do đó nếu nhận thức đúng thì việc làm đúng là điều tất nhiên.
Vì vậy với một đội ngũ có mặc cảm “ trường không đẹp” , cơ sở
vật chất thiếu thốn , đội ngũ giáo viên đã từng bước xoá bỏ ý
nghĩ này để giúp đơn vị đi lên. Tôi thường xuyên an ủi và luôn
gợi cho đội ngũ thấy được sự phát triển về qui mô trường lớp,
niềm tin về mái trường khang trang đẹp là điều sắp xảy ra.
Bản thân người quản lí cũng luôn không hài lòng về những gì
đạt được , luôn đặt ra những yêu cầu cao hơn cho CB-GV-CNV.
Luôn tìm cách tác động vào đội ngũ như đưa ra nhiều đợt thi đua
theo chủ đề kết hợp với các ngày lễ truyền thống của ngành , phát
động những phong trào hỗ trợ chuyên môn thật phù hợp với điều
kiện của đơn vị . Ví dụ : Trong tuần lễ thi đua thì chào mừng
ngày 20/11 , hàng năm phần chuyên môn đặt cao hơn những mục
khác như mỗi GV đăng ký 2 tiết dạy tốt và dự giờ 4 tiết ; tổ chức
thi đua “ Hai tốt” ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy ,
phong trào đăng ký thi GV dạy giỏi cấp cơ sở , cấp quận và thành

phố đều tham gia đông , hàng năm tăng thêm điều kiện cao để
từng bước nâng chất lượng đội ngũ . Nếu đạt được thành tích về
từng mặt đều được khen thưởng . Nói chung tùy theo tình hình
đội ngũ mà đặt ra yêu cầu cao đối với đội ngũ , nếu đội ngũ “ổn
định còn yếu chuyên môn thì tăng yêu cầu phần chuyên môn và
ngược lại đội ngũ thường xuyên vi phạm kĩ luật thì xoáy vào
phần chính trị tư tưởng & việc thực hiện qui chế chuyên môn,
….Thay đổi hình thức thi đua : kết hợp xét thi đua theo tổ khối
với các phong trào chung của nhà trường .
Trong cách quản lí đối với đội ngũ tri thức cũng lưu ý : Góp ý
xây dựng cho mọi người hơn là ghi nhận những sai sót họ đã làm.
Và đặc biệt hạn chế nêu những khuyết điểm cá nhân không đáng
ra tập thể sư phạm, điều đó dễ gây sự xúc phạm, bất mãn và họ
cảm thấy thiếu sự tôn trọng.
Tóm lại ngoài công tác giáo dục về nhận thức chính trị tư
tưởng, truyền thống dân tộc , … người quản lí phải biết khơi dậy
ở mỗi con người lòng tự trọng , ước muốn phát triển và xác định
hướng đi phù hợp.
b) Bồi dưỡng về công tác chuyên môn :
Qua công tác tại trường , tôi nhận thấy việc xây dựng đơn vị
đi lên là trước hết cần tập trung dồn nổ lực vào công tác chuyên
môn. Tìm ra vấn đề để giải quyết yếu kém về chất lượng giảng
dạy, để từ đó từng bước lấy uy tín với Phụ huynh Học sinh và uy
tín với địa phương, với ngành .
Trước hết phải ổn định công tác nhân sự theo nguyên tắc quản
lí như sắp xếp lớp học, bố trí nhận sự trong các nhóm chuyên
môn phải có trẻ có già & có người có kinh nghiệm lẫn thiếu kinh
nhiệm xen kẻ, phân công đội ngũ phù hợp sở trường và năng lực
của mỗi người. Ví dụ : ưu tiên lớp cuối cấp và đầu cấp học bố trí
giáo viên có năng lực và điều kiện về thời gian để dạy lớp

này.Việc bố trí GV cũng cần phải lưu ý phân công số tiết cho
đồng đều , không để người thừa , kẻ thiếu , dẫn đến tình trạng so
bì , hạn chế chi tiêu ngân sách cho việc tăng thêm giờ , trong khi
ngân sách nhà nước đang còn nhiều khó khăn .
Đặt ra những yêu cầu đối với Giáo viên và Học sinh : Giáo
viên phải thay đổi cách dạy cũ, học sinh phải có kĩ luật thì mới
dạy tốt & học tốt “ thầy ra thầy- trò ra trò”.
Đổi mới phương pháp dạy học nhằm tích cực hóa các họat
động dạy học, khuyến khích giáo viên chủ động, sáng tạo, dạy
học tập trung vào học sinh tạo điều kiện cá thể hóa người học để
phát triển mọi năng lực của học sinh, tổ chức hướng dẫn học sinh
học tập bằng cách tự phát hiện khả năng của mình tự tin và có
niềm vui trong lao động học tập chủ động sáng tạo.
Với những hiểu biết của bản thân về đổi mới phương pháp
giảng dạy tôi đã đặt ra những yêu cầu cho GV khi tổ chức một
tiết dạy :
a / Đối với thầy :
Nghiên cứu kĩ bài và phân tích sư phạm bài dạy cụ thể là:
Soạn kế hoạch lên lớp , xác định trọng tâm kiến thức , kĩ năng
bài học và các hình thức tổ chức hoạt động trong tiết dạy .
Chuẩn bị hệ thống câu hỏi: những nội dung khó , mục đích
giải quyết ở lớp, ở nhà chú ý phát triển kiến thức bồi dưỡng học
sinh giỏi, khá, năng khiếu bộ môn. Dự kiến những sai lầm của
học sinh (nếu có ) và cách khắc phục .
Khai thác nội dung giáo dục tư tưởng tình cảm thẩm mĩ , dân
số , môi trường….
Chuẩn bị phiếu giao việc : Việc dùng phiếu trong tiết dạy hạn
chế bớt bệnh nói nhiều , giảng nhiều , lấn át phần luyện tập của
học sinh , phiếu giao việc là bản thiết kế hành động học tập của
học sinh theo ý định sư phạm của giáo viên trong tiết dạy nhằm

tạo ra sự phối hợp việc làm của thầy và trò theo cùng một nhịp
điệu. Giúp học sinh làm những gì có thể làm được nhờ sự giúp đỡ
của giáo viên, đó là một cách để các em tự làm được những công
việc khó hơn , tự khẳng định mình. Giảm bớt thời gian chép đề.

×