Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

PHÂN TÍCH TÌM HIỂU NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN MÔI TRƯỜNG CỦA CÔNG NGHỆ KHAI THÁC BAUXITE Ở ĐẮK NÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.26 MB, 49 trang )

[1]
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, đi kèm với công cuộc phát triển của đất nước
thì công tác thăm dò, phát hiện cũng như khai thác khoáng sản trở nên
rầm rộ. Nhưng hầu như các hoạt động khai khoáng điều chưa được đánh
giá tác động môi trường một cách đầy đủ. Đem lại nhiều tác động xấu
đến môi trường và con người trong khu vực.
Trong thời gian gần đây, trong dư luận nổi lên với dự án khai thác bauxite
ở Tây Nguyên với chủ đầu tư là Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam
(TKV). Dự án này đã vấp phải nhiều sự phản đối của nhiều nhà khoa học,
cũng như nhiều nhà nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khác do ảnh hưởng
lớn của dự án này đến môi trường.
Bài báo cáo góp phần nhận diện, làm rõ hơn những tác động của hoạt
động khai khoáng tới môi trường tự nhiên cũng như môi trường kinh tế,
văn hóa, xã hội. Đồng thời cũng từ đó đề ra một số biện pháp giảm thiểu
tác động của quá trình hoạt động của dự án, hay trong trường hợp xẩy ra
sự cố.
Trong quá trình hoàn thành báo cáo đã nhận được sự hướng dẫn của thầy
hướng dẫn, tác giả xin chân thành cảm ơn, do hạn chế về thời gian, khả
năng kiểm định độ chính xác của tài liệu nên báo cáo còn nhiều sai sót.
Mong được sự góp ý của Thầy để bài báo cáo hoàn chỉnh hơn.
[2]
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – TÀI
NGUYÊN THIÊN TỈNH ĐẮK NÔNG
1 Đặc điểm tự nhiên:
1.1 Vị trí địa lý:
Tỉnh Đắk Nông nằm ở phía Tây Nam vùng Tây Nguyên, phía Bắc và
Đông Bắc giáp tỉnh Đắk Lắk, phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Lâm
Đồng, phía Nam giáp tỉnh Bình Phước, phía Tây giáp Campuchia với 130
km đường biên giới. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 6.514,38 km2. Dân số
trung bình năm 2005 là 414 nghìn người.


[3]
Hình 1: Bản đồ hành chính tỉnh Đắk Nông
(Nguồn />[4]
Năm 2005, Toàn tỉnh có 6 huyện là Cư Jút, Đắk Mil, Krông Nô, Đắk
Song, Đắk R'Lấp và Đắk GLong và thị xã Gia Nghĩa. Trung tâm tỉnh lỵ là
Gia Nghĩa.
Ngày 22 tháng 11 năm 2006, theo Nghị định 142/2006/NĐ-CP, địa
giới hành chính Tỉnh Đắk Nông được điều chỉnh để thành lập một huyện
mới Tuy Đức.
Nằm ở phía Tây Nam của Tây Nguyên, có quốc lộ 14 nối Đắk Nông với
Đắk Lăk, có quốc lộ 28 nối Đắk Nông với Lâm Đồng, Bình Thuận và
thành phố Hồ Chí Minh. Trong tương lai, khi dự án khai thác và chế biến
bô-xít được triển khai thì tuyến đường sắt Đắk Nông-Chơn Thành-Di An
ra cảng Thị Vải sẽ được xây dựng, mở ra cơ hội lớn cho Đắk Nông đẩy
mạnh khai thác các thế mạnh của tỉnh. Mặt khác, Đắk Nông cùng với các
tỉnh Tây Nguyên khác nằm trong vùng được Nhà nước quan tâm thông
qua các Quyết định 135, Quyết định 168. Yếu tố này tạo cho Đắk Nông
có điều kiện khai thác và vận dụng các chính sách phát triển vào tỉnh.
Vị trí địa lý như trên tạo điều kiện cho Đắk Nông có thể mở rộng giao lưu
với các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và Duyên hải miền
Trung, tăng cường liên kết giữa Đắk Nông với các tỉnh về mở rộng thị
trường các sản phẩm có ưu thế cạnh tranh cao của mỗi nơi.
1.2 Địa hình:
[5]
Địa hình của tỉnh Đắk Nông đa dạng và phong phú, có sự xen kẽ giữa các
địa hình thung lũng, cao nguyên và núi cao. Địa hình có hướng cao dần từ
Đông sang Tây.
Địa hình thung lũng là vùng đất thấp phân bố dọc sông Krông Nô,
Sêrêpôk, thuộc khu vực các huyện Cư Jút, Krông Nô. Điạ hình tương đối
bằng phẳng, có độ dốc từ 0-30, thích hợp với phát triển cây lương thực,

cây công nghiệp ngắn ngày, chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Địa hình cao nguyên chủ yếu ở Đắk Glong, thị xã Gia Nghĩa, Đắk Mil,
Đắk Song, độ cao trung bình trên 800 m, độ dốc trên 150. Đây là khu vực
có đất bazan là chủ yếu, rất thích hợp với phát triển cây công nghiệp lâu
năm, lâm nghiệp và chăn nuôi đại gia súc.
Địa hình núi phân bố trên địa bàn huyện Đắk R'Lấp. Đây là khu vực địa
hình chia cắt mạnh và có độ dốc lớn. Đất bazan chiếm phần lớn diện tích,
thích hợp với phát triển cây công nghiệp dài ngày như cà phê, cao su,
điều, tiêu.
1.3 Khí hậu:
Khí hậu tỉnh Đắk Nông vừa mang tính chất khí hậu cao nguyên nhiệt đới
ẩm, vừa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam khô nóng. Khí hậu có 2
mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến hết
tháng 10, tập trung 90% lượng mưa hàng năm. Mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau, lượng mưa không đáng kể.
[6]
Nhiệt độ trung bình năm 22-230 C, nhiệt độ cao nhất 350 C, tháng nóng
nhất là tháng 4. Nhiệt độ thấp nhất 140C, tháng lạnh nhất vào tháng 12.
Có những năm nhiệt độ bất thường nắng nóng, dễ gây cháy rừng, khô hạn
thiếu nước ảnh hướng tới sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân.
Tổng số giờ nắng trong năm trung bình 2000-2300 giờ. Tổng tích ôn cao
8.0000 rất phù hợp với phát triển các cây trồng nhiệt đới lâu năm.
Lượng mưa trung bình năm từ 2200-2400 mm, lượng mưa cao nhất
3000mm. Tháng mưa nhiều nhất vào tháng 8, 9; mưa ít nhất vào tháng 1,
2. Độ ẩm không khí trung bình 84%. Độ bốc hơi mùa khô 14,6-15,7
mm/ngày, mùa mưa 1,5-1,7 mm/ngày.
Hướng gió thịnh hành mùa mưa là Tây Nam, hướng gió thịnh hành mùa
khô là Đông Bắc, tốc độ gió bình quân 2,4 -5,4 m/s , hầu như không có
bão nên không gây ảnh hưởng đối với các cây trồng dễ gãy, đổ như cà
phê, cao su, tiêu v.v.

1.3 Thủy văn và tiềm năng thủy điện:
a) Thuỷ văn: Đắk Nông có mạng lưới sông suối phân bố tương đối đều
khắp. Đây là điều kiện thuận lợi để khai thác nguồn nước phục vụ sản
xuất nông nghiệp, xây dựng các công trình thủy điện phục vụ các ngành
kinh tế và nhu cầu dân sinh. Các sông chính chảy qua địa phận tỉnh gồm:
Sông Sêrêpôk do hai nhánh sông Krông Nô và Krông Na hợp lưu với
nhau tại thác Buôn Dray (huyện Krông Na). Đoạn chảy qua tỉnh nằm trên
[7]
địa phận huyện Cư Jút. Đoạn này lòng sông tương đối dốc, chảy từ cao
độ 400 m ở hợp lưu xuống cao độ 150 m ở biên giới Cămphuchia. Khi
chảy qua địa bàn tỉnh Đắk Nông, do kiến tạo địa chất phức tạp, lòng sông
trở nên hẹp và dốc nên tạo ra các thác nước lớn hùng vĩ, vừa có cảnh
quan thiên nhiên đẹp, vừa có tiềm năng thủy điện mang lại giá trị kinh tế.
Đó là thác Trinh Nữ, Dray H'Linh, Gia Long, ĐraySap. Các thác này
đang được đưa vào khai thác phục vụ du lịch và phát triển thuỷ điện. Các
suối Đắk Gang, Đắk Nir, Dray H'Linh, Ea Tuor v.v. đổ ra sông Sêsêpôk.
Một số suối chảy ở khu vực phía Đông và phía Bắc huyện Đắk Mil như
suối Đắk Ken, Đắk Lâu, Đắk Sor cũng đều là bắt nguồn của sông
Sêrêpôk.
Sông Krông Nô. Bắt nguồn từ dãy núi cao trên 2000 m phía Đông Nam
tỉnh Đắk Lắc, chảy qua huyện Krông Nô. Sông Krông Nô có ý nghĩa rất
quan trọng đối với sản xuất và đời sống dân cư trong tỉnh. Còn nhiều suối
lớn nhỏ khác phân bố khá đều khắp trên địa bàn huyện Krông Nô, Cư Jút
như suối Đắk Mâm, Đắk Rô, Đắk Rí, Đắk Nang.
Hệ thống suối đầu nguồn sông Đồng Nai. Sông Đồng Nai dòng chảy
chính không chảy qua địa phận Đắk Nông nhưng có nhiều sông suối
thượng nguồn. Đáng kể nhất là:
Suối Đắk Rung bắt nguồn từ khu vực Thuận Hạnh, chảy qua địa bàn Đắk
Nông với chiều dài 90 km. Suối có nước chảy quanh năm, tạo điều kiện
[8]

thuận lợi cho xây dựng các hồ, đập nhỏ phục vụ sản xuất và sinh hoạt dân
cư.
Suối Đắk Nông có lưu lượng trung bình 12,44m3/s, lưu lượng lớn nhất
87,8 m3/s và nhỏ nhất 0,5 m3/s. Môduyn dòng chảy lớn nhất 338
m3/skm2, trung bình 47,9 m3/skm2, nhỏ nhất 1,9 m3/skm2.
Suối Đắk Bukso là ranh giới giữa huyện Đắk Song và Đắk R'Lấp , có
nước quanh năm có khả năng xây dựng nhiều đập dâng.
Suối ĐắkR'Lấp có diện tích lưu vực 55,2 km2, là hệ thống suối đầu
nguồn của thủy điện Thác Mơ.
Suối Đắk R'Tih gồm các suối nhỏ chảy về sông Đồng Nai, đầu nguồn của
thủy điện Trị An.
Ngoài ra còn có các suối bắt nguồn từ phía Tây Nam huyện Đắk Mil đổ
ra sông Đồng Nai.
Trên địa bàn tỉnh còn có nhiều hồ, đập vừa có tác dụng giữ nước vừa là
tiềm năng để phát triển du lịch như Hồ Tây, hồ Trúc, hồ Ea T'Linh, hồ
Đắk Rông v.v.
Mạng lưới sông suối, hồ ao dày đặc đó rất thuận tiện cho việc xây dựng
các công trình thủy lợi, thuỷ điện nhỏ, cung cấp nước cho các ngành kinh
tế và sinh hoạt dân cư.
[9]
Chế độ lũ: Chịu sự chi phối mạnh của sông Krông Nô. Tại Đức Xuyên lũ
lớn thường xảy ra vào tháng 9, 10. Hàng năm dòng sông này thường gây
ngập lũ ở một số vùng thuộc các xã phía nam huyện Krông Nô. Lũ trên
sông Sêrêpôk là tổ hợp lũ của 2 sông Krông Nô và Krông Na, lũ xuất hiện
vào tháng 9 và 10.
b) Tiềm năng thủy điện: Sông suối trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có tiềm
năng thủy điện dồi dào. Hệ thống sông Sêrêpôk có trữ năng kinh tế được
đánh giá khoảng 2,6 tỉ KWh. Hệ thống suối đầu nguồn của các sông
Đồng Nai, Krông Nô, Sêrêpôk có thể xây dựng nhiều công trình thủy
điện lớn với tổng công suất khoảng 1.500 MW như thuỷ điện DrayH'Linh

II đang được xây dựng, thuỷ điện Đức Xuyên 92 MW, thủy điện TuaSrah
85 MW, thuỷ điện Đắk Tih 140 MW, TĐ Đắk NTao, TĐ Đắk Sô v.v. đã
được thoả thuận, đang từng bước kêu gọi đầu tư xây dựng.
Ngoài ra, mạng lưới suối nhỏ trên khắp địa bàn tỉnh có nhiều tiềm năng
phát triển thủy điện nhỏ phục vụ sản xuất và sinh hoạt cho các buôn làng
vùng cao khó khăn trong việc xây dựng điện lưới.
2 Tài nguyên thiên nhiên:
2.1 Tài nguyên rừng:
Diện tích đất lâm nghiệp có rừng là 374.387 ha, độ che phủ toàn tỉnh đạt
57,5%, trong đó chủ yếu là rừng tự nhiên 366.988 ha, chiếm 98%. Rừng
[10]
tự nhiên được phân bố đều khắp các huyện, tập trung chủ yếu ở vùng núi
cao, có tác dụng phòng hộ đầu nguồn, chống xói mòn, bảo vệ môi sinh.
Chia theo mục đích sử dụng: đất có rừng sản xuất (kể cả rừng tự nhiên và
rừng trồng) có 213.785 ha, chiếm 57,1% diện tích đất lâm nghiệp, phân
bố ở hầu hết các huyện trong tỉnh; đất có rừng phòng hộ 132.341 ha,
chiếm 35,3%, chủ yếu tập trung ở các huyện Đắk R'Lấp, Đắk Glong, Đắk
Mil, Đắk Song; đất có rừng đặc dụng 24.850 ha, tập trung chủ yếu ở Đắk
Glong, Krông Nô, đây là khu rừng được sử dụng vào mục đích bảo tồn
sinh thái, khai thác du lịch. Rừng trồng chủ yếu tập trung ở vùng các
vùng gò đồi và núi thấp, khu vực gần dân cư.
Rừng tự nhiên ở Đắk Nông có nhiều hệ động vật và thực vật phong phú
và đa dạng. Rừng phát triển tốt, những khu rừng nguyên sinh có nhiều
loại gỗ quí và cây đặc sản vừa có giá trị kinh tế, vừa có giá trị khoa học.
Trong rừng còn nhiều động vật quí hiếm như voi, gấu, hổ v.v. được ghi
trong sách đỏ của nước ta và sách đỏ thế giới; có nhiều loại dược liệu quí
là nguồn nguyên liệu dồi dào để chế thuốc chữa bệnh trong y học dân tộc.
Đặc biệt, khu bảo tồn thiên nhiên Nam Nung, Tà Đùng có những khu
rừng nguyên sinh với nhiều cảnh quan, thác nước đẹp tạo nên quần thể du
lịch hấp dẫn.

2.2 Tài nguyên đất:
[11]
Theo báo cáo số liệu kiểm kê đất năm 2005 của Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Đắk Nông đến ngày 01/01/2005, tổng diện tích đất tự nhiên
toàn tỉnh có 651.331 ha. Trong đó:
− Đất nông nghiệp. Có diện tích là 224.850 ha, chiếm 34,5% tổng diện
tích tự nhiên. Trong đó đất trồng cây công nghiệp lâu năm chiếm phần
lớn diện tích. Đất cây hàng năm chủ yếu là đất trồng lúa, ngô và cây
công nghiệp ngắn ngày, ngoài ra diện tích đất nương rẫy còn khá lớn.
− Đất lâm nghiệp có rừng. Tổng diện tích là 374.387 ha, trong đó rừng
tự nhiên là 366.988 ha, đất rừng trồng 7.357 ha, chiếm tỉ lệ không
đáng kể 2,9%. Tỉ lệ che phủ rừng toàn tỉnh là 57,5%.
− Đất chuyên dùng. Diện tích 7.113 ha, chiếm 1,1% tổng diện tích tự
nhiên.
− Đất khu dân cư. Diện tích 9.942 ha chiếm 1,5%.
− Đất chưa sử dụng. Diện tích đến 01/01/2005 còn 35.039 ha, chiếm
5,4% diện tích tự nhiên, trong đó đất sông suối và núi đá không có cây
rừng là 11.276 ha. Còn lại khoảng 23.763 ha đất bằng, đất đồi núi và
mặt nước chưa sử dụng, trong đó chủ yếu là đất đồi núi có 21.000 ha,
diện tích đất bằng chưa sử dụng còn rất hạn hẹp. Do đó có thể đưa đất
chưa sử dụng vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, cần đầu tư thêm
cho thuỷ lợi, cải tạo và san lấp mặt bằng và hạ tầng giao thông v.v.
2.3 Tài nguyên nước:
[12]
Nguồn nước mặt do nguồn nước mưa cung cấp, tương đối dồi dào, thuận
lợi cho sản xuất và sinh hoạt dân cư trên địa bàn toàn tỉnh. Tuy nhiên do
chịu ảnh hưởng của khí hậu cao nguyên, lại nằm ở phía Tây, cuối dãy
Trường Sơn nên vào mùa khô mưa ít, nắng nóng kéo dài làm khô hạn,
nhiều lúc thiếu nước gây ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất nông nghiệp
và sinh hoạt của dân cư.

Nguồn nước ngầm, phân bố ở hầu khắp cao nguyên bazan và các địa bàn
trong tỉnh, có trữ lượng lớn ở độ sâu 40-90m. Đây là nguồn cung cấp
nước bổ sung cho sản xuất và sinh hoạt vào mùa khô, được sử dụng phổ
biến cho sinh hoạt, làm kinh tế vườn, kinh tế trang trại. Tuy nhiên trên
một số địa bàn núi cao thuộc các huyện Đắk R'Lấp, Đắk Glong và thị xã
Gia Nghĩa nguồn nước ngầm hạn chế. Nước ngầm được khai thác chủ
yếu thông qua các giếng khoan, giếng đào, nhưng do nguồn nước nằm ở
tầng sâu nên muốn khai thác cần có đầu tư lớn và phải có nguồn năng
lượng.
2.4 Tài nguyên khoáng sản:
Theo số liệu điều tra sơ bộ cho thấy trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có một số
loại khoáng sản, đáng kể là:
Bô xít. Phân bố ở thị xã Gia Nghĩa, các huyện Đắk GLong, Đắk R'Lấp,
Đắk Song nhưng tập trung chủ yếu ở thị xã Gia Nghĩa và huyện Đắk
GLong. Trữ lượng dự đoán 5,4 tỉ tấn, trữ lượng thăm dò 2,6 tỉ tấn, hàm
[13]
lượng Al
2
O
3
từ 35-40%. Trên bề mặt của mỏ quặng có lớp đất bazan tốt,
hiện có rừng hoặc cây công nghiệp dài ngày. Khó khăn cho việc khai thác
hiện nay là chưa có đường giao thông, thiếu năng lượng, nguồn nước để
rửa quặng và vốn đầu tư.
Khoáng sản quí hiếm. Khu vực xã Trường Xuân huyện Đắk Song là nơi
có nguồn tài nguyên đặc biệt quí hiếm là vàng, đá quí ngọc bích, saphia
trắng. Ngoài ra còn có volfram, thiếc, antimon trên địa bàn thị xã Gia
Nghĩa, huyện Đắk GLong, Cư Jút.
Ngoài ra còn có các tài nguyên khá phong phú là nguyên liệu cho sản
xuất vật liệu xây dựng như đất sét phân bố rải rác trên địa bàn một số

huyện, có thể khai thác công nghiệp, sản xuất gạch, ngói phục vụ nhu cầu
xây dựng các công trình kinh tế-xã hội cũng như xây dựng dân dụng cho
khu vực dân cư trên địa bàn tỉnh. Sét cao lanh làm gốm sứ cao cấp phân
bố tập trung ở huyện Đắk Glong thị xã Gia Nghĩa; puzơlan làm nguyên
liệu cho xi măng, gạch ceramic; đá bazan bọt làm nguyên liệu sản xuất
gạch ốp lát cách âm, cách nhiệt, sợi chịu nhiệt v.v.
Nguồn nước khoáng có ở Đắk Mil được khoan thăm dò tháng 6/1983 sâu
180 m khả năng khai thác rất lớn, khoảng 570 m3/ngàyđêm và khí C02
đồng hành khoảng 9,62 tấn/ngàyđêm. Hiện tại chỉ mới khai thác khí C02.
2.5 Tài nguyên du lịch:
[14]
Trên địa bàn tỉnh có nhiều thắng cảnh thiên nhiên đẹp như các khu rừng
nguyên sinh, các thác nước và các hồ chứa nước tự nhiên và nhân tạo.
Các thác nước đẹp, hùng vĩ, còn nguyên sơ nằm giữa rừng già như thác
Trinh Nữ, thác Dray H'Linh, Dray Sáp, thác Diệu Thanh, thác Gấu, thác
Chuông, thác Diệu Thanh, thác Gấu, thác Ngầm (trong lòng núi), thác
Liêng Nung, Đắk GLung v.v. Những khu du lịch sinh thái và dã ngoại
trong vùng nằm giữa khu bảo tồn thiên nhiên Nam Nung (25.000 ha), Tà
Đùng (28.000 ha) và thảo nguyên nhỏ trảng Ba Cây rộng trên 3 km2 phục
vụ du lịch thể thao, cưỡi ngựa, sắn bắn, cắm trại.
Các buôn làng đồng bào dân tộc ít người với những nét sinh hoạt văn hóa
truyền thống độc đáo như hội cồng chiêng, uống rượu cần, lễ hội ăn
trâu là những tiềm năng cho phát triển du lịch văn hóa, nhân văn. Đặc
biệt là dân tộc M'Nông có truyền thống văn hóa độc đáo, giàu bản sắc dân
tộc, có các sử thi, các lễ hội. Đây là yếu tố có thể khai thác phát triển du
lịch.
Những tiềm năng du lịch trên cho phép đẩy mạnh phát triển du lịch với
các loại hình đa dạng như: du lịch sinh thái tham quan thác nước, suối,
hồ, đập, vườn, rừng; du lịch vui chơi giải trí: leo núi, sắn bắn, đua ngựa;
du lịch văn hóa: tham gia các lễ hội của các đồng bào dân tộc, lễ hội cồng

chiêng, lễ hội ăn trâu, v.v.
[15]
Những tiềm năng trên là điều kiện để hình thành các cụm du lịch, tour du
lịch của tỉnh nếu được gắn kết với các tuyến du lịch phía Nam của tỉnh
Đắk Lắk, Bình Thuận, Lâm Đồng, Tp. Hồ Chí Minh sẽ tạo nên hành trình
du lịch hấp dẫn đối với du khách.
[16]
CHƯƠNG II : TỔNG QUAN VỀ BAUXITE VIỆT NAM, KHOÁNG
SẢN BAUXITE Ở ĐẮK NÔNG VÀ CÔNG NGHỆ KHAI THÁC
1. Tổng quan về bauxite Việt Nam:
1.1. Thành phần:
Bauxit là một loại đá, hoặc giống đất, mà yếu tố cấu thành chính là oxyt
nhôm. Nó được đặt theo tên gọi làng Les Baux-de-Provence ở miền nam
Pháp, tại đây nó được nhà địa chất học là Pierre Berthier phát hiện ra lần
đầu tiên năm 1821.
Bauxit là quặng quan trọng của nhôm. Nó không phải là tên của một
khoáng vật mà là một tập hợp của 3 khoáng vật có tính chất khác nhau.
Tên khoáng
vật
Công thức Tinh hệ
Độ
cứng
Tỉ
trọng
Hàm lượng
Hidracgilit
(Gipsit)
Al(OH)
3
Một xiên

2.5 –
3.5
2.43
64.7%Al
2
O
3
– 35.3%
H
2
O
Bomit AlO(OH) Trực thoi 3.5 – 4 3.019
Là một dạng của
Diaspo
Diaspo HAlO
2
Trực thoi 6 – 7
3.3 –
3.5
85% Al
2
O
3
– 15% H
2
O
1.2. Đặc điểm:
− Hình dạng:tập hợp bauxit thường có dạng khối đặc xít, dạng kết
hạch, dạng trứng cá, hạt đậu, dạng đất,
[17]

Hình 2: Bauxite trứng cá Hình 3: Bauxite đặc xít Hình 4: Bauxite dạng
đất
− Màu sắc: rất đa dạng, tuỳ theo thành phần chiếm ưu thế mà bauxit
có nhiều màu khác nhau: màu xám (giàu vật chất hữu cơ), màu đỏ
nâu(giàu Fe
2
O
3
) , màu lục (giàu FeO).
− Kiến trúc: đặc trưng là kiến trúc vi tinh và ẩn tinh.
Ngoài 3 khoáng vật chính thì trong quặng còn có sự hiện diện của những
khoáng vật khác như: Hematite ( Fe
2
O
3
), Magnetite (Fe
3
O
4
), Goethite
(FeOOH), ilmenite(FeTiO
3
), Anatase(TiO
2
),
Kaolinite(Al
2
O
3
.2SiO

2
.2H
2
O), Quartz(SiO
2
).
1.3. Nguồn gốc và sự phân bố trên lãnh thổ Việt Nam:
Bauxit được thành tạo trong quá trình ngoại sinh. Theo nguồn gốc được
chia thành 2 kiểu:
− Nguồn gốc phong hóa laterit:(tập trung chủ yếu ở miền Nam)
được hình thành do quá trình laterit hóa các đá magma và biến
chất, sản phẩm phong hóa nằm tại chỗ phủ ngay lên đá mẹ. Ở Tây
Nguyên Bauxite Laterit đượ thành tạo do quá trình phong hóa nhiệt
[18]
đới ẩm trên các thành tạo basalt. Được phân bố ở một số nơi như:
Đắk Nông, Đắk Lắk, Bảo Lộc (Lâm Đồng) hai vùng này có trữ
lượng lớn nhất trong cả nước.
− Nguồn gốc trầm tích:( tập trung chủ yếu ở miền Bắc) do sự bào
mòn, hòa tan vận chuyển các dung dịch keo alumin đến lắng đong
trong môi trường thích hợp đển tạo thành bauxite. Bauxite trầm
tích ở miền Bắc lắng đọng trên mặt bào mòn của đá vôi tuổi Pecmi
muộn kéo dài từ Đồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang) đến Hà Quảng,
Trùng Khánh, Trà Lĩnh, Nguyên Bình (Cao Bằng) và kéo xuống
các huyện Cao Lộc, Văn Lãng, Chi Lăng, Hữu Lũng (Lạng Sơn).
Ngoài ra còn gặp ở Quỳ Châu – Quỳ Hợp (Nghệ An), Lỗ Sơn (Kim
Môn – Hải Dương).
2. Khoáng sản bauxite ở Đắk Nông và công nghệ khai thác:
2.1. Khoáng sản bauxit ở Đắk Nông:
2.1.1. Đặc điểm bauxite Đắk Nông:
Thành phần vật chất:

Gồm các mảnh, tảng, kết hạch, kết vón là những vật liệu cứng, nửa cứng
nằm trong sét mềm bở rời.
Tuy ranh giới của các dạng quặng khác nhau không chuyển tiếp một cách
rõ ràng nhưng căn cứ vào hình thái của các vật chất cứng, có thể chia thân
quặng ra thành những dạng quặng khác nhau:
[19]
− Bauxite dạng kết tảng: thường nằm phần trên cùng của thân quặng,
ở trung tâm phần cao của các đồi sót, và phần rìa chúng bị tác dụng
của quá trình phát triển sườn và nước mưa thấm từ trên xuống nên
nứt nẻ nhiều và đôi khi bị phủ bởi một lớp mỏng quặng deluvi.
Diện phân bố của dạng quặng kết tảng phụ thuộc vào mức độ tồn
tại của bề mặt đỉnh đồi sót. Quặng dạng kết tảng thường có màu
nâu, nâu đen, phớt vàng.
− Bauxite dạng xỉ, dạng giả mảnh: dạng quặng này thường phân bố
bên dưới dạng quặng kết tảng, ở những nơi dạng quặng kết tảng bị
phá hủy, bào mòn, chúng thường nằm lộ trên bề mặt, hay bị phủ
bởi một lớp mỏng quặng có nguồn gốc deluvi. Thành phần các
mảnh có kích thước thay đổi từ 40 đến 50 cm nằm trong sét, bề mặt
các mảnh sần sùi, chứa nhiều hốc rỗng, các mảnh có màu nâu đỏ,
nâu vàng, phớt xám đôi khi là màu trắng xám.
− Bauxite dạng giả cầu: đây là dạng quặng có vị trí phân bố và tỉ lệ
rất không đồng đều trong thân quặng, ở trung tâm thân quặng, phần
cao của các đồi sót, dạng quặng này thường phân bố dưới quặng
dạng xỉ, mảnh nhưng đôi khi chúng nằm trên mặt. Thành phần vật
chất của bauxite dạng giả cầu là những vật chất giữ được hình dạng
của những khối bazan bị bóc vỏ hóa tròn.
− Bauxite dạng kết vón: dạng quặng này chiếm phần đáy của thân
quặng. Thành phần vật chất của dạng quặng này gồm những vật
[20]
chất cứng méo mó tha hình, đôi khi có dạng ống nằm trong sét,

kích thước biến đổi từ vài mm đến 3cm, quặng này thường có màu
xám, xám trắng, cấu tạo lỗ hổng nhỏ, hạt mịn.
− Dạng quặng cuội tảng có nguồn gốc deluvi: dạng quặng này phân
bố trên bề mặt của thân quặng, ở các sườn bào mòn tích tụ với một
số lượng đáng kể, chúng thường có bề dày trung bình từ 1m đến
2m. Thành phần vật chất của dạng quặng deluvi bao gồm các vật
liệu cứng của các dạng quặng khác, với hạt độ rất không đồng nhất
từ 3cm đến 40cm nằm trong lớp đất trồng tơi xốp, hầu hết các
mảnh hạt đều có mức độ mài tròn nhất định.
Thành phần hóa học:
Kết quả phân tích các mẫu silicat lấy trong thân quặng trong vùng Đắk
Nông cho thấy các oxyt tạo quặng có hàm lượng như sau:
SiO
2
: 0,60 – 13,36% Al
2
O
3
: 30 – 53,34%
Fe
2
O
3
: 12,72 – 32,07% TiO
2
: 1,99 – 4,90%
CaO: 0,06 – 0,59% MgO: 0,04 – 0,30%
MnO: 0,04 – 0,15% SO
3
: 0,03 – 0,18%

H
2
O: 0,27 – 3,26% CO
2
: 0,02 – 0,08%
P
2
O
5
: 0,04 – 0,37% Na
2
O: 0,12 – 0,50%
K
2
O: 0,25 – 0,32%
Trong đó các oxit tạo quặng cơ bản là: Al
2
O
3
, SiO
2
, Fe
2
O
3
.
Thành phần khoáng vật:
[21]
Khoáng vật chính: gipxit, gơtit, kaolinit, ilmenit và một ít khoáng vật :
hematit, hydragillit, rutil, thạch anh.

Bauxit ở Đắk Nông có thành phần chủ yếu la Gipxite nhưng cũng có 1
lượng lớn Bơmit hiện diện, vì thế dễ tinh chế, nhưng chất lượng không
cao.
2.1.2. Trữ lượng:
Ước tính khoảng 2,5 tỉ tấn chiếm 35% trữ lượng của cả nước.
Các thân quặng bauxit phát triển ở phần trên của vỏ phong hóa bazan N
2
-
Q
1
.
Diện tích thay đổi từ 1 - 40 km
2
− bề dày thay đổi từ 1- 8km, dày nhất đến 13km.
− bề rộng thay đổi từ 0,2 – 1km.
2.2. Công nghệ khai thác:
Ở nước ta, do yêu cầu trong công nghệ khai thác quặng bauxite nhằm
mục đích tạo ra sản phẩm cuối cùng chỉ là alumina nên thườg trải qua 02
giai đoạn, mỗi giai đoạn có một quy trình khác nhau sản phẩm của quá
trình đầu tiên sẽ là nguyên liệu cho quá trình tiếp theo. Hai quá trình đó
lần lược được mô tả sơ lược như sau:
2.2.1. Quá trình khai khoáng:
a. Giai đoạn khai khoáng:
[22]
Do quặng Bauxite với đặc tính nằm phủ ngay trên tầng mặt nên ta không
cần phải bốc tầng phủ. Quặng bauxite có thể được lấy ra khỏi thân quặng
bằng một số biện pháp rất đơn giản như sau:
− Dùng các xe ủi để tập trung quặng tại một vị trí nào đó để thuận
lợi múc, xúc, vận chuyển.
− Các phương tiện thường được sử dụng: xe cạp, xe cẩu, xà ben.

Nhưng vấn đề được đặt ra là quặng Bauxite thường không nằm ở những
vị trí thuận tiện cho việc chuyên chở mà nó có thể nằm ở nhiều vị trí khác
nhau với nhiều dạng địa hình như: thoai thoải, nhấp nhô, gồ ghề. Muốn
khai thác quặng Bauxite thì đòi hỏi phải thiết lập được hệ thống giao
thông tốt để phục vụ cho quá trình chuyên chở quặng Bauxite từ mỏ đến
nơi rửa, luyện.
Hình 5 – 6: Xe ben, xe cạp là phương tiện thường dùng trong khai thác
bauxite
b. Giai đoạn rửa quặng:
[23]
Quặng Bauxite thô có lẫn rất nhiều loại tạp chất: bùn, sét, chất hữu cơ,…
Vì vậy nó cần được làm sạch để giảm bớt chi phí cũng như công sức cho
các giai tiếp theo.
Quá trình khai khoáng
Xe múc lấy bauxite ra
khỏi thân quặng
Xe ben chuyên dụng
Vận chuyển
Quá trình rửa quặng
Nghiền quặng
Rửa quặngSàn, lọc quặng
Máy nghiền
Hệ thống
turbin bờn
nước
Nước
Nước bùn đỏ, các hạt nhỏ hơn 1(mm)
Chiếm 60% quặng thô đưa vào
Hạt có kích thước 1 – 3 (mm)
Chiếm 40% quặng thô đưa vào

Nước
Tiếp tục đi vào giai
đoạn tuyển quặng tinh
Sơ đồ 1: Quy trình khai khoáng quặng bauxite thô
[24]
Bauxite được đưa vào hệ thống máy nghiền với mục đích nhằm phá vỡ
những khối kết hạch còn sót lại. Sau đó, chúng được đưa đến hệ thống
rửa bằng nước. Như vậy, đối với một khu vực muốn khai thác Bauxite thì
nhân tố bắt buộc phải có là hệ thống nước và thủy điện.
Hoạt động rửa quặng được thực hiện bởi máy động cơ chạy bằng hơi
nước hay điện làm quay tua-bin. Bauxite dạng bở rời được bố trí vào hệ
thống rửa là các lưới lọc có kích thước từ 1- 3 mm. Tua-bin quay tạo ra
dòng nước sẽ rửa sạch khoáng, chỉ giữ lại trên lưới những hạt có kích cỡ
1 – 3 mm. Còn những thành phần có kích thước nhỏ hơn sẽ được tách ra
cùng với dòng nước ra ngoài. Tạp chầt đó thường là bùn sét có lẫn oxyt
sắt tạo màu đỏ nên còn gọi là bùn đỏ. Lượng thu được trong quá trình rửa
quặng này chiếm khoảng 40% còn 60% là bùn đỏ.
2.2.2. Quá trình tuyển quặng tinh:
1. Quá trình hoà tan làm sạch quặng:
Quặng bauxit sau khi đã rửa bớt một phần tạp chất (tại nơi khai thác)
bằng các phương pháp đơn giản vẫn còn lẫn tạp chất. do đó, nó phải được
làm sạch bằng một số biện pháp khác. Vì thế tiến trình hoà tan cần phải
được tiến hành, việc thực hiện hoà tan quặng phải được thực hiện ở nhiệt
độ cao. Nguyên tắc để có thể hoà tan các khoáng là cần phải dựa vào tính
chất tự nhiên của khoáng sản đó. Tuỳ theo thành phần khoáng vật chứa
trong bauxit thuộc loại nào và loại nào chiếm ưu thế mà ta dùng nhiệt để
hoà tan hoàn toàn chúng.
 Gipsit:
[25]
Al

2
O
3
.3H
2
O + 2NaOH → 2NaAlO
2
+ 4H
2
O ( 135 – 1500
0
)
 Bomit:
Al
2
O
3
.H
2
O + 2NaOH → 2NaAlO
2
+ 2H
2
O ( 205 – 2450
0
)
 Diaspo:
Al
2
O

3
.H
2
O + 2NaOH → 2NaAlO
2
+ 2H
2
O ( t
0
cao, P cao )
Trong Bauxite ngoài các khoáng vật chính chứa Al
2
O
3
thì nó còn chứa
nhiều thành phần tạp chất khác như: oxit sắt, SiO
2
. Để loại bỏ các thành
phần tạp chất này, quặng cần được xử lí với NaOH. Tiến trình làm sạch
quặng diễn ra dễ dàng nhờ một đặc tính đặc biệt của Al
2
O
3
( một oxit
lưỡng tính: vừa có tính acid, vừa có tính bazơ). Khi dung dịch NaOH vào
nó có thể hoà tan Al
2
O
3
thành dung dịch chứa Al

3+
, trong khi các oxit
khác không tan sẽ được lọc ra ngoài.
Quá trình tách hoàn toàn từ Bauxite chứa diaspore đòi hỏi NaOH phải
đậm đặc, nhiệt độ và áp suất phải cao. Dựa vào đăc điểm nhiệt độ mà ta
có thể xác định được hàm lượng gibbsite chứa trong quặng là nhiều hơn
hay ít hơn so với boehmite và diaspore.
2. Quá trình tách lọc quặng:
Cùng như trong giai đoạn hòa tan khoáng vật, giai đoạn lọc cũng xử dụng
một lượng nước khá lớn. Giai đoạn tách phải trải qua nhiều công đoạn
bởi hỗn hợp vẫn còn chứa nhiều tạp chất. Đồng thời, quá trình lọc – tách
quặng kéo dài như vậy cũng góp một phần hòa tan các thành phần còn lại.
Quá trình tuyển quặng tinh
Quá trình hòa tan làm sạch quặng
NaOH đậm đặc, t
o
C cao
Quặng sau sàn có kích thước
1 – 3 (mm)
Dung dịch chưa Al
3+
và các
chất không tan
Hòa tan quặng
Quá trình tách lọc quặng
Hệ thống lọc bằng phiễu kế
tiếp nhau
Dung dịch chứa Al
3+
Các chất không tan (Bùn

đỏ), NaOH thừa
Hệ thống lọc bằng áp suấtHệ thống lọc bằng áp suất
Dung dịch chứa Al
3+
NaAlO
2
Nước
Tácg Na Nâng pH
Al
2
O
3
kết tủa
Quá trình điện phân
Nung khô
Dung dịch muối nóng chảy cryolite
(Na
3
AlF
6
)
Dòng điện 170000A
Al hoặc hợp kim theo yêu cầuChất thải cathode
Sơ đồ 2: Quy trình tuyển quặng bauxite tinh

×