Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.54 KB, 8 trang )

Đề 9: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở
Việt Nam hiện nay.
Bài làm:
Trong thời đại ngày nay, hội nhập là một xu thế tất yếu của mọi quốc gia trong đó
có Việt Nam ta. Hội nhập kinh tế đồng nghĩa với việc các quốc gia dỡ bỏ những
hàng rào thuế quan giúp lưu thông hàng hóa trở nên thuận lợi hơn. Điều này có ảnh
hưởng trực tiếp đến hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, đặc biệt là thuế nhập
khẩu.
Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 5 năm
2005 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2006. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu và luật hải quan của Việt Nam về cơ bản đã được xây dựng phù hợp với
những qui tắc và định chế của pháp luật kinh tế quốc tế, góp phần quan trọng trong
việc phát triển kinh tế đối ngoại và yêu cầu thu ngân sách nhà nước. Tuy nhiên,
thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu nói riêng, luật thuế xuất khẩu, nhập
khẩu nói chung trong thời gian qua còn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục. Vậy
điều gì là nguyên nhân, mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó đến việc thực thi
pháp luật thuế nhập khẩu như thế nào?
I. Tình hình thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong thời gian qua:
Được sửa đổi bổ sung nhiều lần xuất phát từ thực tiễn nhập khẩu hàng hóa cũng
như những cam kết trong phạm vi toàn cầu, pháp luật thuế nhập khẩu đã có những
đóng góp quan trọng trong trao đổi hàng hóa giữa VN với các quốc gia khác. Nhìn
chung, luật thuế nhập khẩu đã phù hợp với các nguyên tắc và nền tảngpháp lí
chung của các chế định kinh tế quốc tế, góp phần hình thành nền tảng pháp lí quan
trọng, thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại của VN. Luật thuế nhập khẩu đã tạo
nguồn thu quan trọng trong tổng thu ngân sách nhà nước, tác động tích cực trong
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của các
ngành sản xuất trong nước.
Luật thuế nhập khẩu đã phát huy vai trò của mình trong việc bảo hộ một
cách hiệu quả những mặt hàng có thế mạnh sản xuất trong nền sản xuất nội địa như
các sản phẩm từ sản xuất nông nghiệp hay các ngành sản xuất còn non trẻ khác xét
điều kiện trong nước còn chưa thể đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như chất


lượng so với các quốc gia khác trên thế giới như ngành sản xuất ô tô…
Tuy nhiên, luật thuế nhập khẩu cũng còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế trong qúa
trình thực thi. Mức thuế suất thay đổi liên tục dẫn đến khó khăn trong việc áp
dụng. Mức thuế suất hiện nay của VN là 17.8%, cao hơn rất nhiều so với các nước
đang phát triển khác là thành viên của WTO như: Trung Quốc 10.1%, Grudia
6.61% ; Estonia 7.93%...Trong tiến trình hội nhập, biểu thuế suất của VN nhìn
chung còn phản ánh khuynh hướng thực hiện chức năng bảo hộ và thu ngân sách là
chính.
Vấn đề xác định giá trị hải quan trong nhập khẩu hàng hóa theo thông lệ quốc tế
vẫn còn hẹp về phạm vi áp dụng, hiệu quả chưa cao, nhiều trường hợp không tạo ra
sự công bằng, tự do trong thương mại.
Hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ, còn nhiều qui định chồng chéo chưa
thống nhất, gây nhiều khó khăn trong việc áp dụng. Chẳng hạn như: Theo qui định
tại điều 15 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu về thời hạn nộp thuế đã qui định
rõ thời hạn nộp thuế. Tuy nhiên theo điều 28 khoản 1 luật hải quan sửa đổi bổ sung
thì qui định về kiểm tra, đăng kí hồ sơ lại lấy tiêu chuẩn chấp hành tốt pháp luật
hải quan. Ngoài ra không có sự thống nhất giữa qui định của luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu và luật quản lí thuế về tỉ lệ số tiền nộp phạt đối với trường hợp nộp
chậm tiền thuế. Cụ thể theo điều 23 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì tỉ lệ
này là 0.1% còn theo điều 106 luật quản lí thuế là 0.05%.
Một ví dụ khác: một qui định gây nhiều khó khăn trong áp dụng đó là qui định về
thuế suất thông thường không quá 70% thuế suất ưu đãi. Điều này đã gây những
cách hiểu không thống nhất dẫn đến việc áp dụng không chính xác.
Trong thời gian qua, các doanh nghiệp VN chịu rất nhiều thiệt thòi trong các vụ
kiện chống bán phá giá ở nước ngoài và cũng chịu những bất lợi lớn khi các
doanh nghiệp nước ngoài bán phá giá trên thị trường VN. Để đối phó với tình trạng
này, pháp luật về thuế nhập khẩu đã co những qui định về thuế để tự vệ, chống bán
phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử. Mặc dù chúng ta đã có 2 pháp lệnh
về chống trợ cấp và pháp lệnh về chống bán phá giá nhưng những qui định này vẫn
chưa phát huy tác dụng trên thực tế hầu như không được áp dụng. Lí do những văn

bản chưa qui định cụ thể, một số qui định còn chưa phù hợp và VN vẫn chưa được
các thành viên WTO công nhận là một nước có nền kinh tế thị trường. Do vậy quá
trình áp dụng những qui định này cũng khá khó khăn. Pháp luật hiện hành qui định
về bộ hồ sơ hải quan nhiều hơn so với công ước Kyoto 4 loại đó là: Chứng thư
giám định, bản kê khai chi tiết hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa, tờ khai tri
giá hải quan. Qui định mới về việc không truy thu đối với hàng hóa thuộc diên truy
thu nếu chuyển nhượng lại cho chủ thể được miễn hoặc xét miễn thuế nhập khẩu
để tránh những hiện tượng tiêu cực trong thực tiễn. (Điểm a khoản 1 điều 21 nghị
định 149/2005/NĐ-CP). Qui định này dẫn đến hiện tượng các đối tượng thuộc diện
chịu thuế câu kết với tổ chức cá nhân thuộc diện miễn thuế hoặc xét miễn thuế
hoặc cán bộ hải quan làm hồ sơ gỉa để không bị truy thu thuế. Với sự ra đời của
luật quản lí thuế 2006 đã ghi nhận một cách cụ thể trình tự thu tục về kê khai thuế
nhập khẩu, nộp thuế nhập khẩu, truy thu thuế nhập khẩu, hoàn thuế…Vì vậy những
qui định trong luật thuế nhập khẩu về những thủ tục này trở nên không cần thiết
nữa thậm chí còn gây ra sự chồng chéo, không đồng nhất.
Trên đây là một vài ví dụ về những qui định không thống nhất của pháp luật mà
trên thực tế đã gây ra những cản trở nhất định trong việc áp dụng pháp luật thuế
nhập khẩu.
II. Nhứng yếu tố tác động đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trên
thực tế tại VN:
Có thể thấy việc thực thi luật thuế nhập khẩu trong thực tế chịu tác động của rất
nhiều các yếu tố khác nhau. Trước tiên là sự ảnh hưởng đến việc của các yếu tố
khách quan như tình hình phát triển của nền kinh tế, chính trị quốc tế cũng như
của quốc gia; sự ảnh hưởng của các chính sách kinh tế của quốc gia. Đồng thời
việc thực thi luật có hiệu quả hay không đồng nghĩa với việc phải xây dựng, ban
hành ra một hệ thống pháp luật thuế đáp ứng được các đòi hỏi của thực tế. Điều
này phụ thuộc vào các nhà làm luật, trình độ lập pháp cũng như những cam kết
quốc tế mà VN gia nhập. Trong qua trình thực thi pháp luật thuế nhập khẩu, vai
trò của các cơ quan chức năng thực hiện việc thu thuế cũng như ý thức của
những đối tượng nộp thuế cũng đóng một vai trò quan trọng. Sau đây chúng ta

cùng đi tìm hiểu từng yếu tố tác động đến việc thực thi thuế nhập khẩu cũng
như mức độ ảnh hưởng của chúng.
1. Tình hình kinh tế, chính trị trong nước, quốc tế và các chính sách thương mại của
quốc gia
Tình hình kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế ở một thời kì nhất định là yếu tố
có ảnh hưởng quyết định đến nội dung chính sách thuế xuất nhập khẩu và nội dung
pháp luật thực định về thuế xuất nhập khẩu trong giai đoạn đó. Điều này hoàn toàn
dễ hiểu bởi lẽ suy cho cùng chính sách và pháp luật về thuế xuất nhạp khẩu chỉ là
tấm gương phản chiếu thực trạng tình hình kinh tế và xã hội trong nước và quốc tế
mà thôi. Xuất phát từ nhu cầu đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích chung của từng quốc
gia với lợi ích riêng của từng doanh nghiệp, từng cá nhân và hộ gia đình, chính
sách thuế xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ có thể sẽ được xây dựng và thực hiện
theo hướng thiên về mục tiêu bảo hộ; mục tiêu tăng thu ngân sách hoặc/ và mục
tiêu tự do hóa thương mại.
2. Xu hướng và trào lưu hội nhập kinh tế quốc tế
Xu hướng và trào lưu hội nhập kinh tế quốc tế có ảnh hưởng quan trọng đến nội
dung, chính sách thuế xuất nhập khẩu của quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể. Đối
với Việt Nam, những thay đổi lớn lao và quan trọng trong chính sách thuế xuất
nhập khẩu thực sự đã được khởi động từ năm 1998 (để thực hiện cam kết giảm
thuế theo quy định của AFTA) và gần đây nhất là những thay đổi trong chính sách
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng hóa xuất nhập khẩu đến hoặc từ Hoa
Kỳ, nhằm thực hiện các cam kết giảm thuế theo hiệp định thương mại Việt Nam
Hoa Kỳ. Hầu hết những thay đổi này đều được thể chế hóa thành các quy định của
pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, nhằm đảm bảo tính khả thi và tính
hiện thực cho các chính sách đó trong thực tiễn.
3. Chính sách kinh tế của nhà nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế với pháp
luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của Việt Nam.
Hiện nay, có hai xu hướng: Một là bảo hộ mậu dịch, nâng cao khả năng cạnh tranh
cho các ngành sản xuất trong nước. Xu hướng thứ hai là tự do hóa thương mại. Cắt
giảm tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan của xu hướng tự do hóa

thương mại. Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về hội nhập kinh tế quốc
tế, tích cực hội nhập để hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời đảm bảo tối đa
hóa lợi ích từ các công cụ thuế, tối thiểu hóa các chi phí trong quá trình hội nhập,

×