Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Thực trạng và đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm hàng hoá ở Công ty Thương Mại xuất nhập khẩu Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.34 KB, 56 trang )

[1]
Lời Mở Đầu

Trong giai đoạn hiện nay, cùng với xu thế vận động của thế giới, hội
nhập hợp tác liên minh trên mọi lĩnh vưc: đời sống, kinh tế, xã hội để cùng
phát triển, nền kinh tế Việt Nam đang từng bước “ thay da đổi thịt” dần hoà
nhập vào cộng đồng nền kinh tế thế giới, khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn
nền kinh tế so với các nước xung quanh. Đặc biệt với đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước ta, duy trì cơ chế thị trường, nhằm thúc đẩy tận dụng
tối đa các nguồn lực trong nuớc và ngoài nước để đảm bảo nhu cầu tiêu
dùng, đời sống nhân dân tích luỹ trong nước và xuất khẩu tăng thu nhập
quốc dân kích thích phát triển kinh tế xã hội. Ngay từ khi luật doanh nghiệp
đi vào hoạt động có hiệu lực (tháng 1/2002) đã khẳng định một bước đổi
mới trong hệ thống pháp lý tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh
nghiệp hoạt động, nhằm phát huy sức mạnh nền kinh tế. Từ thực tế cho ta
thấy, số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh ngày càng tăng, bên cạnh
đó việc tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá là vấn đề quyết định sự tồn tại và
phát triển doanh nghiệp. Bởi vậy, để tồn tại và phát triển doanh nghiệp
không những có nhiệm vụ thu mua gia công chế biến, sản xuất sản phẩm mà
phải tổ chức tốt khâu tiêu thụ hàng hoá.
Mục tiêu hàng đầu hiện nay của các doanh nghiệp là theo đuổi lợi
nhuận. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để doanh nghiệp theo đuổi hoạt động
kinh doanh thành công và làm ăn có hiệu quả trong môi trường cạnh tranh
gay gắt, tài nguyên khan hiếm như hiện nay. Điều này phụ thuộc hoàn toàn
vào hoạt động quản lý tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Tiêu
thụ sản phẩm hàng hoá sẽ đảm bảo yêu cầu trong quá trình sản xuất kinh
doanh diễn ra liên tục, nó là tấm gương phản chiếu hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu như doanh nghiệp có một chiến lược
tiêu thụ hàng hoá hợp lý, hàng hoá được tiêu thụ nhiều trên thị trường thì
doanh nghiệp mới có điều kiện để tồn tại và phát triển. Ngược lại, chiến
lược tiêu thụ sản phẩm hàng hoá không đúng đắn, doanh nghiệp không có


[2]
khả năng thu hồi vốn, có thể lâm vào tình trạng khó khăn và từ đó dẫn đến
phá sản .
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động quản lý tiêu thụ đối với
Công ty. Trong quá trình thực tập và nghiên cứu hoạt động sản xuất kinh
doanh của Công ty Thương Mại XNK - Hà Nội em nhận thấy vấn đề quản
lý tiêu thụ là vấn đề bức xúc được toàn thể công ty quan tâm đến. Vì vậy em
đã chọn đề tài báo cáo của mình là : “Thực trạng và đề xuất một số giải
pháp đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm hàng hoá ở Công ty
Thương Mại Xuất nhập khẩu - Hà Nội”. Với mục đích khảo sát thực trạng
công tác quản lý tiêu thụ sản phẩm hàng hoá ở Công ty . Trên cơ sở phân
tích thực trạng đó , em sẽ rút ra những tồn tại khó khăn của Công ty để từ đó
đưa ra một số kiến nghị về phía doanh nghiệp và về phía Nhà nước nhằm
đẩy mạnh công tác quản lý tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của Công ty , góp
phần nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Công ty.
Nội dung của phần báo cáo ngoài phần mở đầu và phần kết luận được
chia thành 3 phần chính sau:
Phần I : Khái quát chung về Công ty Thương Mại XNK - Hà Nội
Phần II : Thực trạng công tác quản lý tiêu thụ sản phẩm hàng hoá tại
Công ty Thương Mại XNK - Hà Nội
Phần III : Một số kiến nghị về công tác quản lý tiêu thụ sản phẩm
hàng hoá tại Công ty Thương Mại XNK - Hà Nội .
Trong quá trình thực hiện chuyên đề quản lý của mình em đã hết sức
cố gắng, mặc dù vậy chuyên đề không thể tránh khỏi những khiếm khuyết
nhất định. Vì vậy em mong được các thầy cô giáo cùng các chú cán bộ nơi
Công ty em thực tập đóng góp ý kiến để bài viết của em hoàn thiện hơn .

Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo phụ trách, cô giáo chủ
nhiệm cùng các Thầy cô giáo trong khoa, các cô chú, anh chị cán bộ trong
Công ty Thương Mại XNK - Hà Nội, nơi em thực tập đã giúp đỡ chỉ bảo em

trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề quản lý này.
[3]
PHẦN I :
ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÔNG TY THƯƠNG MẠI XUẤT NHẬP
KHẨU HÀ NỘI
I . Quá trình hình thành và phát triển của Công ty :
Vào giữa những năm 80, nền kinh tế quan liêu bao cấp đòi hỏi phải
được phát triển và mở rộng để đáp ứng, thoả mản những nhu cầu thiết yếu
đang gia tăng của người dân. Trước tình hình như vậy, cùng với sự ra đời
của nhiều công ty dịch vụ khác. Công ty dịch vụ Hai Bà Trưng đã được
thành lập dựa trên quyết định số 316/QĐ - UB ngày 19 – 05 – 1983 của Nhà
nước . đến ngày 01/05/1985, Công ty dịch vụ Hai Bà Trưng chính thức đi
vào hoạt động, trụ sở được đặt tại 53 Lạc Trung - Hà nội, kinh doanh các
mặt hàng như : đồ dùng gia đình , nông sản thực phẩm và điện tử điện lạnh.
Quá trình hoạt động của Công ty được chia làm 3 giai đoạn:
Sau hơn 15 năm hoạt động để phù hợp với tính chất và nhiệm vụ kinh
doanh, Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng được đổi thành Công ty
Thương Mại XNK - Hà Nội. Công ty có tên giao dịch quốc tế là: HANOI
COMMER CICAL AND IMPORT EXPORT COMPATY.
Tên viết tắt: HACIMEX.
Điện thoại : 04 9434753 – 04 9434746 . fax : 04 9434754.
Trụ sở giao dịch tại 142 – Phố Huế – Hai Bà Trưng – Hà Nội.
Tài khoản : 001000673- 1.
1/ Giai đoạn thứ nhất( từ 1985

1987) :
Công ty hoạt động dựa trên sự cung ứng hàng hoá, vốn của Nhà nước.
Qúa trình hoạt động kinh doanh dựa trên chỉ tiêu, pháp lệnh của Nhà nước.
Việc hạch toán kinh doanh chỉ là xa vời chưa được thực hiện.
2/ Giai đoạn thứ hai (từ 1987


1993) :
Nền kinh tế quan liêu bao cấp bế quan toả cảng đã bộc lộ những mặt
trái của nó, đình trệ sự pháp triển đòi hỏi sự thay đổi của nền kinh tế thị
[4]
trường có sự quản lý của Nhà nước để phù hợp với xu thế của thời đại. Việc
hoạt động dựa trên sự bao tiêu toàn bộ đầu vào của nhà nước không còn
được thực hiện nữa. Công ty phải tự chủ trong hoạt đông kinh doanh của
mình dựa trên nguồn vốn ban đầu được cấp. Hoạt động chính của Công ty
trong thời gian này là mua hàng sản xuất trong nước và bán ra nước ngoài và
bán ra thị trường các sản phẩm: điện tử, điện lạnh, đồ dùng gia đình. Sự
chuyển đổi hoạt động như vậy khiến Công ty gặp nhiều khó khăn, Công ty
không những phải tìm nguồn hàng, thị trường phù hợp mà còn phải cạnh
tranh với các tổ chức kinh tế khác có cùng loại hình hoạt động.
3/ Giai đoạn thứ 3(từ 1993

đến nay ):
Xu thế hội nhập , giao lưu để đón nhận tinh hoa, công nghê hiện đại
giới thiệu nhưng sản phẩm của mình ra bên ngoài sẽ là cơ hội để đất nước
phát triển, tạo sức sống cho nền kinh tế, “ đi tắt , đón đầu” bắt kịp với thế
giới. Cùng với sự chuyển mình của nền kinh tế và được sự tín nhiệm của
Nhà nước năm 1993 theo quyết định cuả Nhà nước, Công ty dịch vụ Hai Bà
Trưng (tên giao dịch HABAMEX CO ). Nhưng phải đến năm 2001 theo
quyêt định số 812/QĐ - UB Công ty mới được mang tên chính thức là Công
ty Thương Mại XNK - Hà Nội ( HACIMEX) .
Sự ra đời của công ty đã góp phần đáp ứng nhu cầu vê hàng hoá tiêu
dùng, nguyên liệu máy móc cho sản xuất trong nước, khai thác mọi tiềm
năng sẵn có , mặt mạnh của quốc gia, vươn mình ra thị trường quốc tế, góp
phần cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước .
Trong hoạt động kinh doanh Công ty chủ động tạo vốn tư nguồn vốn

bổ xung và vay ngân hàng.Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, Công ty đã cho
phép các cửa hàng chủ động tìm kiếm thị trường và tự ký các hợp đồng đại
lý với bạn hàng. Ngoài ra Công ty cũng chủ động ký các hợp đồng xuất nhập
[5]
khẩu với nước ngoài, thực hiện ký kết các hợp đồng kinh tế do bạn hàng uỷ
thác, tích cực đầu tư với các bên liên doanh khác.
Với đội ngũ cán bộ công nhân viên gồm 106 người có trình độ năng
lực phù hợp với nhiệm vụ của mình, nhiệt tình trong công tác cùng với
những chiến lược kinh doanh có hiệu quả Công ty đã thực hiện và hoàn
thành mục tiêu kế hoạch đề ra và đã trở thành một đơn vị kinh doanh xuất
nhập khẩu có doanh thu và có kim ngạch lớn nhất ở Hà Nội. Điều này có thể
thấy thông qua các chỉ tiêu trích từ báo kết quả kinh doanh trong những năm
gần đây như sau
II . Chức năng, vị trí, nhiệm vụ của công ty trong nền kinh tế:
1. Chức năng :
- Chức năng về mặt quản lý: với đội ngũ cán bộ công nhân viên có
trình độ và ý thức tự giác trong công việc nên công tác quản lý của công ty
thương mại xuất nhập khẩu Hà Nội tương đối chặt chẽ . Chức năng quản lý
của công ty là tập hợp các hoạt động có vai trò điều hành công ty cũng như
việc xác định những mục tiêu mà công ty sẽ đạt tới và những phương hướng,
biện pháp, hành động cụ thể nhằm đưa hoạt động sản xuât kinh doanh của
công ty đi vào nề nếp . Điều này tác động rất lớn đến kết quả hoạt động kinh
doanh của Công ty nhằm đưa lợi nhuận của Công ty ngày càng tăng lên.
- Chức năng của kế toán lưu chuyển hàng nhập khẩu:
Hoạt động lưu chuyển hàng hoá nhập khẩu thương gồm 2 giai đoạn :
mua hàng nhập khẩu từ nước ngoài và bán hàng nhập khẩu ở trong nươc. Do
đó công tác kế toán lưu chuyển hàng nhập khẩu có chức năng : ghi chép,
phản ánh, kiểm tra thường xuyên việc thực hiện các hợp đồng mua bán hàng
hoá, sự biến động của các loại vấn đề thúc đẩy tốc độ lưu chuyển hàng hoá ,
giảm chi phí lưu thông , phát hiện ngăn ngừa những sai phạm trong việc

thực hiện chính sách của nhà nước .
[6]
- Chức năng của bộ máy của Công ty :
Với chức năng lưu trữ , xử lý và cung cấp thông tin kịp thời cho
Ban giám đốc của Công ty về tình hình công tác kế toán nói chung và tình
hình lưu chuyển hàng hoá nhập khẩu nói riêng đã thực hiện khác tốt được
nhiệm vụ của mình, công tác kế toán được thực hiện (tiến hành) đúng tiến độ
và chính xác. Đây là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh
doanh, đóng góp đáng kể vào nhưng thành công của Công ty trong hiện tại
và tương lai
- Chức năng bảo quản sản phẩm hàng hoá nhập khẩu:
Khi Công ty nhập khẩu sản phẩm hàng hoá, sản phẩm hàng hoá của
Công ty được bảo quản hợp lý không có trường hợp nào bị hỏng hay bị biến
dạng khi đem ra tiêu thụ .Đây cũng là là một yếu tố quan trọng làm cho lợi
nhuận của công ty tăng lơn.
- Chức năng quản lý nhân sự : việc quản lý vê nhân sự rât được ban
lãnh đạo của Công ty quan tâm, tạo mọi điều kiện tốt nhất để cán bộ công
nhân viên yên tâm công tác và luôn có chế độ chính sách hợp lý đối với cán
bộ công nhân viên trong công ty.
- Chức năng về tài chính : Công ty có số vốn đầu tư ban đầu không
được lớn kìm hãm sự phát triển phần nào của Công ty. Vì vậy điều cần thiết
là phải huy động vốn nhiều hơn và Nhà nước cần có sự quan tâm hơn để tình
hình tài chính của Công ty tăng nên tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất
của Công ty có hiệu quả cao hơn.
- Chức năng của việc tiêu thụ hàng hoá: Tiêu thụ hàng hoá là quá trình
các doanh nghiệp thực hiện việc chuyển hoá vốn sản xuất kinh doanh của
mình từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền tệ và hình thành kết quả tiêu
thụ. Đây là kết quả cuối cùng của họat động sản xuất kinh doanh .
[7]
Như vậy, tiêu thụ có chức năng thực hiện mục đích của sản xuất và

tiêu dùng đưa hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng.Tiêu thụ là khâu
lưu thông hàng hoá là cầu nối trung gian giữa một bên sản xuất phân phối và
một bên là tiêu dùng. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì tiêu thụ còn
có chức năng rộng hơn là quá trình kinh tế bao gồm nhiều khâu từ việc
nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầc khách hàng tổ chức mua hàng hoá
và xuất bán theo yêu cầu cuả khách hàng nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao
nhất .
2/ Vị trí của Công ty Thương Mại XNK - Hà Nội .
Công Ty Thương Mại Xuất Nhập Khẩu Hà Nội là một công ty kinh
doanh xuất nhập khẩu tổng hợp . Dù mới hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập
khẩu trong hơn 10 năm qua – là một khoảng thời gian không dài nhưng công
ty dần khẳng định vị trí của mình trên thị trường.
Là một công ty hoạt động trong một lĩnh vực khá mới mẻ, lại phải đối
mặt với sự cạch tranh quyết liệt không ngừng của cơ chế thị trường, công ty
hiểu rõ được rằng “ Thương trường là chiến trường” và phải nỗ lực bằng
chính sức lực của mình với một quyết tâm cao độ mới có thể năng cao hiệu
quả kinh doanh. Điều này khiến công ty đã phải đạt ra chiến lược kinh doanh
trước mắt và lâu dài cho phù hợp vơí tình hình mới, đồng thời xây dựng một
đội ngũ cán bộ công nhân viên có năng lực nhiệt tình với công việc.
Vì vậy cho đến nay, công ty đã mở rộng mạng lưới tiêu thụ ở nhiều
nơi của Hà Nội và một số tỉnh khác. Mặt hàng của công ty ngày càng đáp
ứng được nhu cầu của khách hàng cả về chủng loại và chất lượng. Bên cạnh
đó, Công ty cũng thiết lập và mở rộng quan hệ với nhiều nhà cung cấp nước
ngoài và tạo được uy tín với bạn hàng.
Là một công ty cung cấp những máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại,
đẩy nhanh quá trình xây dựng vật chất kỹ thuật, thúc đẩy quá trình chuyển từ
[8]
lao động thủ công sang lao động máy móc, từ đó tác động mạnh mẽ đến
công cuộc CNH – HĐH đất nước. Vì vậy Công ty có một vị trí rất quan
trọng và không thể thiếu trong nền kinh té thị trường ở Việt Nam hiện nay.

[9]
3/ Nhiệm Vụ Của Công Ty Thương Mại Xuất Nhập Khẩu Hà Nội :
Công ty Thương Mại Xuất Nhập Khẩu Hà Nội là một công ty kinh
doanh xuất nhập khẩu trực tiếp và dịch vụ tổng hợp có tư cách pháp nhân,
tự chủ về nguồn vốn kinh doanh .
Công ty ra đời có nhiệm vụ cung cấp các mặt hàng phục vụ cho nhân dân
thực nội thất, hàng hoá nông sản thực phẩm, hải sản quý, hoá chất, điện tử ,ô
tô, xe hiện xuất nhập khẩu, kinh doanh các loại hàng hoá như : đồ dùng gia
đình trang trí máy…với số lượng lớn, chất lượng cao.
Để nâng cao chất lượng hoạt động, Công ty thương mại xuất nhập
khẩu Hà Nội có bốn cửa hàng trực thuộc Công ty đóng trên địa bàn Hà Nội
thực hiện lưu chuyển hàng hoá nội địa.
Công ty thương mại xuất nhập khẩu Hà Nội có nhiệm vụ xây dựng và
thực hiện các kế hoạch nhiệm vụ của Công ty theo cơ chế hiện hành, khai
thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn do Nhà nước cấp,tự tạo nguồn
vốn tự trang trải về tài chính quản lý sử dụng đúng chế độ và có hiệu quả các
nguồn vốn đó, đồng thời tuân thủ đúng các chế độ chính sách và pháp luật
của nhà nước có liên quan đến các hoạt động kinh doanh của Công ty đã ký
kết.
Mặc dù còn nhiều bỡ ngỡ với loại hình hoạt động mới nhưng được sự
giúp đỡ của các cơ quan chức năng và sự tín nhiệm với nhiều bạn hàng trong
nước, Công ty cũng không gặp nhiều khó khăn . Đặc biệt từ khi Mỹ xoá bỏ
chế độ cấm vận với Việt Nam , Việt Nam là một trong những thành viên của
khối ASEAN ra nhập khối SPEC và trong tương lai sẽ còn nhiều tổ chức
kinh tế khác thì thị trường Việt Nam ngày càng sôi động, lĩnh vực ngoại
thương được mở rộng. Bước phát triển này tác động đến mọi hoạt động
trong nền kinh tế trong đó có Công ty Thương Mại XNK Hà Nội.
[10]
Công ty đã nghiên cứu tìm hiểu thị trường và đưa ra kết quả kinh
doanh phù hợp .Hoạt động XNK chiếm tỷ trọng lơn trong tổng doanh thu

của Công ty Với phương châm duy trì , ổn định và phát triển nội địa, đẩy
mạnh kim ngạch XNK mở rộng thị trường nước ngoài , phát ttriển mối quan
hệ với nhiều nước trên thế giới bằng mọi cách, công ty đã vươn tầm hoạt
động ra khắp nơi ở Hà Nội và tất cả các tỉnh trong cả nước, có thêm được
nhiều khách hàng, đồng thời cũng mở rộng ngành nghề kinh doanh như:
- Kinh doanh hàng điện tử dân dụng (tủ lạnh, điều hoà, máy giặt),
điện lạnh, vải sợi, lương thực thực phẩm.
- Kinh doanh XNK máy móc thiết bị xây dựng (máy công cụ, máy
nén khí, máy xúc), VLXD, xi măng, sắt thép, hoá chất hàng điện máy, xe
máy, các sản phẩm nông sản và đặc sản rừng …
Sự ra đời của công ty đã góp phần đáp ứng những nhu cầu về hàng
hoá tiêu dùng, NVL máy móc cho sản xuất trong nước , mở rộng sự hiểu
biết về sản phẩm nước ngoài. Đồng thời đẩy mạnh sản xuất trong nước, khai
thác mọi tiềm năng sẵn có , mặt mạnh của quốc gia vươn mình ra thị trường
quốc tế góp phần cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Cửa
hàng, tuyển chọn những nhân viên mới có trình độ, năng lực, đào tạo trong
hoạt động kinh doanh Công ty chủ động tạo vốn từ nguồn vốn bổ sung và
vay Ngân hàng. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, Công ty đã cho phép các
cửa hàng chủ động tìm kiếm với thị trường và tự ký các hợp đồng đại lý với
bạn hàng. Ngoài ra, Công ty cũng chủ động ký các hợp đồng XNK với nước
ngoài, thực hiện ký kết các hợp đồng kinh tế do bạn hàng uỷ thác, tích cực
đầu tư với các bên liên doanh khác.
III. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty:
1. Mô hình tổ chức quản lý kinh doanh của Công ty:
[11]
Mô hình quản lý là một yếu tố tối quan trọng, quyết định đến sự thành
bại của bất kỳ tổ chức kinh tế nào. Để quản lý có hiệu quả, Công ty Thương
Mại XNK Hà Nội đã từng bước củng cố tổ chức cơ cấu phòng ban, nâng cao
nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên cũ của Công ty cho phù hợp với công
việc và phục vụ cho kế hoạch lâu dài.

Bộ máy quản lý của Công ty được tổ chức theo kiểu tham mưu chức
năng. Mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới là mối quan hệ phục tùng. Cấp
dưới có trách nhiệm phục vụ cấp trên, bên cạnh đó còn có nhiệm vụ những
quyết định có liên quan đến hoạt động sản xuất của Công ty. Các phòng ban
quan hệ độc lập với nhau. Từng phòng ban sẽ xây dựng kế hoạch trình lên
Giám đốc trong buổi họp giao ban, kế hoạch được triển khai từ trên xuống.
Công ty có 7 phòng ban và 4 cửa hàng ở các địa điểm khác nhau trên địa
bàn Hà Nội. Cơ cấu bộ máy quản lý và mối quan hệ của các phòng ban được
thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ bộ máy quản lý kinh doanh của Công ty
Giám đốc
Phó giám đốc
Phó giám đốc
Phòng
t ià
vụ
Phòng
XNK1
Phòng
XNK2
Phòng
KHTT
Phòng
kinh
doanh
Phòng
GN

VC
Các

cửa
hàng
Phòng
TCHC
TT
DV
CS
sức
khoẻ
[12]

[13]
2. Chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban :
Giám đốc là người chỉ đạo chung, có thẩm quyền cao nhất, có nhiệm
vụ quoản lý toàn diện trên cơ sở chấp hành đúng đắn chủ trương, chế độ
chính sách của Nhà nước.
Bên cạnh Giám đốc là hai Phó giám đốc cũng chịu trách nhiệm chỉ
đạo các phòng ban do mình quản lý, giúp Giám đốc lắm vững tình hình hoạt
động của Công ty để có kế hoạch và quyết định sau cùng, giải quyết các
công việc được phân công.
Phòng xuất nhập khẩu1( XNK1) và phòng xuất nhập khẩu 2( XNK2),
với chức năng tìm hiểu thị trường, bạn hàng nước ngoài để từ đó ký kết các
hợp đồng XNK trên những kế hoạch đã đề ra, giải quyết các vấn đề liên
quan đến XNK.
Phòng kế hoạch thị trường (KHTT) và phòng kinh doanh 3 (KD3) có
nhiệm vụ nghiên cứu và tìm hiểu thị trường trong nước để có chiến lược
kinh doanh lâu dài, tham mưu cho Ban giám đốc về kế hoạch tiêu thụ, theo
dõi hoạt động của các cửa hàng. Ngoài ra còn thực hiện việc mua và bán
hàng nhập khẩu.
Phòng giao nhận và vận chuyển: có nhiệm vụ quản lý giao nhận và

vận chuyển hàng hoá.
Các cửa hàng: là mạng lưới lưu chuyển hàng hoá trong nứơc của
Công ty, thực hiện việc buôn bán lẻ, là đơn vị hạch toán phụ thuộc. Các
chứng từ liên quan đên hoạt động kinh doanh đêu đươc giửi về Công ty làm
công tác hoạch toán.
Phòng tài vụ : tổ chức hoạch toán toàn bộ hoạt động XNK, kinh doanh
giải quyết các vấn đề tài chính thanh toán , quyêt toán bán hàng , thu tiền,
tiền lương , tiền thưởng , nghĩa vụ với Nhà nước và các vấn đề liên quan đến
[14]
tài chính. đồng thời tham mưu cho Ban giám đốc xây dựng các kế hoạch tài
chính .
Phòng tổ chức hành chính: phụ trách hành chính, đối nội, đối ngoại ,
lưu chữ hồ sơ giấy tờ, thủ tục công văn, tổ chức nhân sự đào tạo. Bên cạnh
đó phòng còn chịu trách nhiệm liên quan đến con người, giải quyết điều
hành nhưng chinh sách về người lao động.
3. Tổ chức bộ máy kế toán ở Công ty Thương Mại XNK - Hà Nội :
Nhiệm vụ chung của phòng kế toán ( phòng tài vụ) là hoạch toán một
cách chính xác đầy đủ và kịp thời những nghiệp vụ kinh tế phát sinh có liên
quan đến Công ty, từ đó phản ánh một cách chính xác chi phí kinh doanh,
doanh thu tiêu thụ và kết quả sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, còn quản lý sử
dụng và bảo toàn vốn được Nhà nước giao, xây dựng kế thu chi tiền mặt,
nộp ngân sách Nhà nước. Kế toán cũng cung cấp các thông tin về quá trình
kinh doanh, quản lý và sử dụng vốn, thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sach cho
Nhà nước, những sổ sách kế toán là những bằng chứng có tính chất pháp lý
cho công tác kiểm tra, thanh tra các hoạt đông kinh doanh của Công ty. Bộ
máy kế toán của Công ty được tổ chức theo hình thức tập chung. Cơ cấu tổ
chức của bộ máy kế toán được thể hiện qua sơ đồ sau:
[15]
Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán của Công ty
Phòng tài vụ của công ty gồm có 7 người mỗi người có một trách

nhiệm khác nhau cụ thể như sau:
Kế toán trưởng (kiêm trưởng phòng kế toá tài chính) : là người đứng
đầu bộ máy kế toán có nhiệm vụ chỉ đạo thực hiện công tác kế toán ở Công
ty và làm tham mưu giúp việc cho Giám đốc quản lý kinh tế ở Công ty
Pho phòng kế toán tài chính : là người giúp việc cho Kế toán trưởng
và thực hiện uỷ quyền khi Kế toán trưởng vắng mặt.
Kế toán tổng hợp : có nhiệm vụ tập hợp số liệu vào sổ kế toán tổng
hợp nên báo cáo tài chính và xác định kết quả kinh doanh trong kỳ.
Kế toán trưởng
Phó phòng kế
toán
Kế toán
tiền
mặt,
công
nợ.
Kế toán
TGNH,
các
khoản
vay .
Kế toán
tổng
hợp.
Kế toán
các quỹ,
TSCĐ
v các à
khoản
thu.

Kế toán
hàng hoá
và thủ
quỹ.
[16]
Kế toán công nợ và tiền mặt : có nhiệm vụ kiểm soát và thông báo
thường xuyên tình hình tăng giảm tiền mặt , có mối quan hệ chặt chẽ với các
bộ phận có liên quan đến tiền mặt để đảm bảo chế độ thanh toán kiểm soát
thường xuyên về công nợ đối với khách hàng, với công nhân viên và Nhà
nước.
Kế toán tiền gửi ngân hàng, các khoản vay : thường xuyên theo dõi
tình hình biến động của các khoản tiền gửi của Công ty tại Ngân hàng công
thương, theo dõi tình hình gửi tiền, rút tiền gửi ngân hàng, tình hình trả nợ
cho Ngân hàng và trả nợ cho người vay cho Ngân hàng. Ngoài ra, còn có
chức năng kiểm tra tính phù hợp của từng khoản vay.
Kế toán các quỹ, TSCĐ và doanh thu : phản ánh chính xác việc trích
lập các quỹ của Công ty và theo dõi nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo từng
loại TSCĐ. Bên cạnh đó, còn phải làm nhiệm vụ hoạch toán doanh thu ban
đầu cung cấp thông tin cho bộ phận kế toán tổng hợp để từ đó xác định kết
quả kinh doanh của công ty.
Kế toán hàng hoá và thủ quỹ: là người thực hiện các lệnh thu, chi tiền
mặt. Bộ phận này còn theo dõi từng biến động, tăng giảm các loại hàng hoá
của Công ty.
Hình thức tổ chức hoạt động kế toán ở Công ty là kế toán thủ công
bằng tay. Các bộ phận kế toán có nhiệm vụ thực hiện đúng chức năng của
mình, đến cuối tháng có nhiệm vụ cung cấp thông tin cho bộ phận kế toán
tổng hợp. Việc phối kết giữa các phần hành trong Công ty được thực hiện
khá chặt chẽ và nhịp nhàng.
4. Đặc điểm về lao động của công ty:
a. Về số lượng:

Là một doanh nghiệp thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước có quy mô
đến năm 2002 . Là lao động làm việc trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Công
[17]
ty đã bố trí sử dụng tương đối hợp lý người lao động và với việc tinh giảm
gọn nhẹ bộ máy quản lý, nâng cao bồi dưỡng đào tạo chuyên môn nghiệp vụ
cho cán bộ công nhân viên. Từ năm 2002 đến nay tổng số lao động của
Công ty tăng lên ngày càng nhiều.
Song song với việc tăng đội ngũ lao động thì đời sống của cán bộ
công nhân viên cũng đã có nhiều cải thiện, thu nhập ngày càng tăng chứng
tỏ tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty ngày càng phát triển. Điều này
được thưc hiện qua bảng chi tiết sau :
Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm
2002
Lao động Người 74 82 94 106
Thu nhập
bq/ người
1000đ/
người/
tháng
550 650 750 850
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy tổng số lao động của Công ty ngày
càng tăng. Cụ thể; tổng số của Công ty năm 1999 là 74 người đến năm 2000
là 82 người, tăng 12 người so với năm 1999 tương ứng với +1,108%. Và đến
năm 2002 tổng số lao động của Công ty đã lên đến 106 người tăng 12 người
tương ứng là 1,127% so với năm 2001 .
Nguyên nhân của sự ra tăng lao động ở Công ty là do hoạt động kinh
doanh của Công ty có hiệu quả, do đó Công ty mở rộng kinh doanh đòi hỏi
phải bổ sung thêm lao động.
Mặc dù số lượng lao đông của Công ty tăng lên rất nhiều nhưng điều
đáng chú ý là ta lại thấy lương bình quân tháng của một người trong một

tháng lại tăng lên rất nhiều. Điều này được thể hiện rất rõ ở trên đó là: lương
bình quân tháng của một người năm 2001 là 750.000đ/ tháng đến năm 2002
là 850.000đ/ tháng tăng 100.000đ/ tháng tương ứng là: 1,133% so với năm
[18]
2001. Điều này chứng tỏ sự bố trí lao động ở Công ty là rất hợp lý. Đây là
một yếu tố quan trọng góp phần vào quá trình hoạt động Công ty.
[19]
b. Về chất lượng:
Là một doanh nghiệp thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước, có quy mô
đến năm 2002 là lao động làm việc trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Công ty
đã bố trí sử dụng lao động hợp lý người lao động và với việc tinh giảm gọn
nhẹ bộ máy quản lý, nâng cao bồi dưỡng đào tạo chuyên môn cho cán bộ
công nhân viên. Bên cạnh đó Công ty đề ra chế độ trách nhiệm vật chất đối
với nhân viên thông qua việc khen thưởng, kỷ luật không ngừng khuyến
khích đội ngũ cán bộ công nhân viên nâng cao trình độ chuyên môn, tay
nghề dể tăng năng xuất lao động từ đó năng suất bình quân của Công ty
ngày càng tăng tạo điều kiện cho Công ty ngày càng phát triển.
Cơ cấu lao động của Công ty Thương Mại XNK Hà Nội
Nội dung Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
* Tổng số lao động 82 94 106
Lao động trực tiếp
Lao động phù trợ( mùa vụ)
Lao động quản lý
64
12
6
72
14
8
80

16
10
* Chuyên môn 82 94 106
Đại học
Cao đẳng, trung cấp
Còn lại
22
40
20
28
44
22
32
50
24
Nguồn : thống kê lao động hàng năm của Công ty.
Qua bảng cơ cấu lao động của Công ty, ta nhận thấy tỷ lệ lao động có
chuyên môn, trình độ đại học chiếm một tỷ lệ khá cao trong tổng số lao động
của Công ty. Cụ thể: năm 2000 tỷ lệ lao động có chuyên môn, trình độ đại
học chiếm 26,82%, năm 2001 chiếm 29,78%, năm 2002 chiếm 30,78%. Hơn
[20]
nữa, tỷ lệ lao động có trình độ đại học, chuyên môn đều tăng đều đặn qua
các năm. Nguyên nhân chính là do đặc điểm kinh doanh trên lĩnh vực
thương mại, XNK, do đó dòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ công nhân viên có
kiến thức nghiệp vụ vững vàng, giỏi, có khả năng kinh doanh giỏi, lôi kéo
được khách hàng và giao tiếp đàm phán tốt.
Tỷ lệ lao động còn lại chủ yếu là lao động trực tiếp tại các đại lý, bến
bãi và các chi nhánh của Công ty. Số lao động có một số trình độ dưới đại
học.
IV. Một số đặc điểm kinh doanh của Công ty Thương Mại XNK Hà

Nội :
1. Đặc điểm về lĩnh vực kinh doanh và mặt hàng kinh doanh:
Công ty XNK Hà Nội chuyên kinh doanh XNK hàng hoá và kinh
doanh lưu chuyển hàng trong nước. Tuy nhiên, hai năm gần đây việc xuất
khẩu hàng ở Công ty không thực hiện nữa do kim ngạch xuất khẩu thấp,
doanh thu từ hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng doanh thu (chỉ
khoảng 20%) .Vì vậy Công ty thực hiện hai công việc:
- Nhập khẩu hàng trong nước và bán trong nước.
- Kinh doanh lưu chuyển hàng nội địa.
Công ty kinh doanh đa dạng hàng hoá các mặt hàng trên cơ sở nghiên
cứu thị trường. Việc bán hàng cũng được thực hiện đa phương thức: bán
buôn, bán lẻ, gửi hàng đi bán. Các phương thức bán hàng cung được thực
hiện đa dạng trên nguyên tắc thận trọng và phù hợp với khả năng thanh toán
của khách hàng vơi mục tiêu chính là đạt được kết quả kinh doanh cao nhất.
Đối tượng kinh doanh hàng nhập khẩu của công ty thường là hàng
điện tử phục vụ tiêu dùng (lò vi sóng, tủ lạnh, điều hoà), các NVL( parafin,
[21]
silicat, thép ống, pvc, …), các loại máy móc( máy đào, máy xúc, máy công
cụ ,…).
Hình thức nhập khẩu của Công ty bao gồm nhập khẩu trực tiếp và
nhập khẩu uỷ thác nhưng hình thức nhập khẩu trực tiếp chiếm đa số. Phương
thức bán hàng thường là bán buôn trực tiếp qua kho.
Phương thức nhập khẩu của Công ty chủ yếu là nhập khẩu theo giá CIF, địa
điểm giao hàng thường là hai cảng lớn là cảng Hải Phòng và cảng TP. HCM.
Ngoài ra phương thức giao hàng có thể là đường sắt hoặc đường hàng
không.
2. Đặc điểm về nguồn vốn của Công ty:
Là doanh nghiệp Nhà nước do đó vốn kinh doanh của Công ty chủ
yếu là nguồn ngân sách của Nhà nước cấp và một phần là do huy động từ
bên ngoài.

tình hình bảo toàn và phát triển đồng vốn của Công ty
từ năm 2000 đến năm 2002
ĐV : Tỷ đồng
Năm Tổng số vốn Vốn cố định Vốn lưu động
Giá trị Tỷ trọng
(%)
Giá trị Tỷ trọng
(%)
2000
2001
2002
58,677
155,091
118,596
19,635
18,841
20,516
33,48
12,15
17,3
39,012
136,250
98,080
66,52
87,85
82,7
Nguồn : báo cáo tài chính của Công ty.
Nhìn vào bảng số liệu trên ta nhận thấy tổng số vốn của Công ty tăng
giảm không đồng đều qua các năm và sự thay đổi khá lớn trong vốn cố định
và vốn lưu động. Cụ thể: Năm 2001 tổng số vốn cố định giảm 4,04% so với

năm 2000, năm 2002 số vốn cố định lại tăng lên 8,9% so với năm 2001. Về
[22]
cơ cấu vốn hàng năm, tỷ trọng vốn lưu động có sự tăng giảm ít hơn so với
vốn cố định. Nguyên nhân là năm 2002 có nhiều sự biến động trên thế giới,
như ánh hưởng cuộc chiến chống khủng bố trên phạm vi toàn cầu dẫn đến sự
biến động về giá cả, bên cạnh đó do ảnh hưởng của thiên tai lũ lụt vẫn liên
tiếp xảy ra trong nước, tỷ giá ngoại tệ so với VNĐ gây nhiều khó khăn cho
hoạt động kinh doanh của Công ty.
3. Các chỉ tiêu về tình hình tài chính và một số kết quả kinh doanh đạt
được của Công ty:
Mặc dù còn bỡ ngỡ , nhưng với đội ngũ nhân viên có trình độ , năng lực
phù hợp với nhiệm vụ của mình, nhiệt tình trong công tác cùng với những
chiến lược kinh doanh có hiệu quả, Công ty đã thực hiện và hoàn thành mục
tiêu kế hoạch đặt ra và đã trở thành một đơn vị kinh doanh XNK có doanh
thu và có kim ngạch lớn ở Hà Nội. Điều này có thể thấy thông qua bảng chỉ
tiêu sau:
Bảng kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty
năm 2001 & 2002.
Chỉ tiêu Năm2001 Năm 2002
1. Doanh thu thuần 97.0980 101.4930
Trong đó: doanh thu hàng ngập khẩu 77.6390 81.1940
2. giá vốn hàng hoá. 94.0770 98.2080
3. lãi gộp 2.9910 3.2850
4. chi phí bán hàng. 2.3830 2.6000
5.chi phí QLND. 4170 5200
6.lợi nhuận trước thuế. 1370 1650
7. thuế thu nhập DN 6165 528.
8. lợi nhuận sau thuế 7.535 1128
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty năm 2001 và 2002.
[23]

Theo trên ta thấy: doanh thu của công ty năm 2002 đã tăng 4395 triệu so
với năm 2001 ( hay tăng 4,5%). Lợi nhuận của Công ty cũng tăng, năm 2002
so với năm 2001 tăng 37,45 triệu ( hay tăng 49% ). Hoạt động của Công ty
có xu hướng tốt hơn. Cụ thể là tỷ suất lợi nhuận / doanh thu năm 2002 la
0,16% trong khi đó so năm 2001 là 0,14%
[24]
PHầN II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TIÊU THỤ
SẢN PHẨM HÀNG HOÁ TẠI CÔNG TY TM XNK HN
I . Một số vấn đề lý luận chung về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá:
1- Quan niệm về tiêu thụ:
Như chúng ta đã biết, nhu cầu của con người rất đa dạng và phức tạp nó
bao gồm nhưng nhu cầu sinh lý cơ bản nhất như ăn mặc ngủ nghỉ và nhu cầu
xã hội về sự thân thiết gần gũi, uy tín và tình cảm gắn bó cũng như nhu cầu
cá nhân về tri thức. Những nhu cầu không được thoả mãn thì con người lúc
nào cũng cảm thấy khổ sở, thậm trí là bất hạnh và lúc nào cũng có nhu cầu
đòi hỏi đáp ứng nhu cầu đầy đủ, xã hội càng phát triển thì nhu cầu của con
người càng tăng lên. Nhưng trên thực tế mong muốn của con người là vô
hạn thế nhưng nguồn lực để đáp ứng thoả mãn nhu cầu là có hạn. Vì vậy các
nhà sản xuất kinh doanh luôn luôn phải tìm ra hàng hoá để đáp ứng thoả
mãn cho nhu cầu của con người và biết rõ mong muốn của người tiêu dùng.
Do đó, khái niệm tiêu thụ sản phẩm chỉ dừng lại ở việc buôn bán sản phẩm
tới các công ty hoặc cá nhân, giá cả được quy định trong các chỉ tiêu pháp
lệnh của nhà nước.
2. Vai trò của công tác tiêu thụ sản phẩm hàng hoá.
Tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là một khâu quan trọng của quá trình
sản xuất kinh doanh, vì nếu sản phẩm hàng hoá sản xuất thu mua về mà
không tiêu thụ được có nghĩa là doanh nghiêp không có điều kiện tái sản
xuất kinh doanh hoặc tái sản xuất mở rộng và sẽ không có thể tồn tại được
doanh nghiệp. Vấn đề tiêu thụ sản phẩm hàng hoá đối với doanh nghiệp còn

phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh
[25]
nghiệp và đóng vai trò quan trọng trong việc năng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp .
3. Các hoạt động chủ yếu của công tác tiêu thụ :
- Hoạt động tiêu thụ ký kết hợp đồng tiêu thụ .
- Hoạt động giao dịch chủ yếu diễn ra tại Công ty, bến bãi bố trí tại
trung tâm đầu mối giao thông buôn bán thuận tiện. Những hoạt động này sẽ
thu hút được đối tác, khách hàng cho Công ty .
- Ký kết hợp đồng tiêu thụ thông thường được thực hiện theo một mẵu
thống nhất do Nhà nước ban hành, ngoài ra cần ghi rõ thêm các khoản mục
về chi phí giao dịch, chuyên chở chịu trách nhiệm và thiệt hại trong quá trình
vận chuyển.
- Thủ tục giao nhận hàng thanh toán hợp lý và đúng pháp luật.
4- Phương thức tiêu thụ sản phẩm ở Công ty :
Có nhiều phương thưc tiêu thụ phân phối sản phẩm hàng hoá, vì vậy
mỗi doanh nghiệp cần lựa chọn phương thức tiêu thụ cho thích hợp và có
hiệu quả.
Để phù hợp với phương thức kinh doanh, Công ty Thương Mại XNK
- Hà Nội đã chọn phương thức tiêu thụ trực tiếp không qua trung gian mà
giao thẳng.
II – Phân tích thực trạng công tác quản lý tiêu thụ ở Công ty .
1. Thị trường tiêu thụ sản phẩm :
Thị trường tiêu thụ là một yếu tố hết sức quan trọng đối với bất kỳ
một doanh nghiệp nào vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp . Riêng đối với Công ty Thương Mại XNK - Hà Nội, việc xác định
tìm kiếm và phát triển thị trường tiêu thụ được đạt lên hàng đầu. Từ khi vượt
qua được thời kỳ bao cấp tập trung làm ăn thua lỗ, đi vào sản xuất kinh

×