Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN Mot so van de trong giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.99 KB, 22 trang )

Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SƯ PHẠM NHÀ TRƯỜNG.
- Tác dụng của SKKN:
- Tính thực tiễn, sư phạm, khoa học:
- Hiệu quả:
- Xếp loại:
Thái Trò, ngày tháng năm 2008
CT.HĐKHGD
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SƯ PHẠM PHÒNG GD.
- Tác dụng của SKKN:
- Tính thực tiễn, sư phạm, khoa học:
- Hiệu quả:
- Xếp loại:
Vónh Hưng, ngày tháng năm 2008
CT.HĐKHGD
Trang 2
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.Đặt vấn đề:
Ca dao là thể loại thơ ca dân gian truyền thống kết hợp lời và nhạc diễn
tả nội tâm con người. Ca dao là lời thơ của dân ca.
Chức năng của ca dao là diễn tả nội tâm, bộc lộ tâm tư tình cảm của
người lao động. Vì thế ca dao có giá trò biểu cảm cao và phù hợp với nhiều
lứa tuổi.
Ca dao được chia ra nhiều chủ đề khác nhau: Ca dao về tình yêu quê
hương, đất nước con người; tình cảm gia đình; những câu hát về tình yêu lứa
đôi… Tình cảm của ca dao thường nhẹ nhàng, kín đáo nhưng mặn mà, đôi lúc
cũng rất nồng nàn mãnh liệt. Ca dao phản ánh đời sống xã hội, châm biếm
đả kích các thói hư, tật xấu nhẹ nhàng mà sâu sắc, chua cay.
Tất cả đều chứa đựng tình cảm nồng nàn, sâu sắc và có giá trò giáo dục
cao. Đặc biệt là những lời ru, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nhân


cách của trẻ thơ:
Ngay từ thû lọt lòngï, nằm trên chiếc nôi tre, đứa trẻ đã được nghe
những câu hò, điệu hát êm đềm, tha thiết của mẹ, bà, chò Chính những lời
hát ấy đã phần nào giúp cho trẻ hiểu được công ơn dưỡng dục của cha mẹ,
tình cảm gia đình, lòng tự hào và yêu quê hương , đất nước.
“Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm múm lưỡi lừa cá xương”.
“Chò em như chuối nhiều tàu,
Tấm lành che tấm rách, đừng nói nhau nặng lời”.
Lời ru đã gieo trồng, vun đắp cho các em nhân cách cao đẹp. Nhận thức
về cội nguồn, phân biệt tốt – xấu. Những tưởng những lời ru ấy chỉ đơn giản
là đưa trẻ con vào giấc ngủ, nhưng thực ra nó lại có tác dụng vô cùng lớn lao
cho sự hình thành và phát triển tình cảm con người. Tất cả những nhân cách
tốt đẹp ấy đều được giáo dục một cách toàn diện qua lời ca mượt mà ngọt
ngào, tinh thần đoàn kết, tình yêu tha thiết với quê hương, làng xóm; nghóa
tình đằm thắm với gia đình, anh em, dòng họ :
“Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi
Con đi mẹ dắt con đi
Con thi trường học, mẹ thi trường đời”

Trang 3
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
“Con ong làm mật yêu hoa,
Con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời
Con người muốn sống con ơi.
Phải yêu đồng chí, yêu người anh em
Một ngôi sao chẳng sáng đêm,
Một bông lúa chín chẳng nên mùa vàng.
Một người đâu phải nhân gian

Sống chăng một đốm lửa tàn mà thôi!”
Xuân Diệu từng nhận xét “Ca dao là thơ của vạn nhà”; hoặc khi nghiên
cứu về ca dao, tiến só Phan Văn Tường đã nhận xét: “Ca dao là nơi con
người gửi gắm, kí thác tâm hồn trước những thăng trầm của thế sự và cuộc
đời”
1

Môn Ngữ văn là môn học nền tảng giúp người học tiếp xúc với vẻ đẹp
kì diệu, phong phú của văn hoá nhân loại được kết tinh trong các tác
phẩm.Văn học giúp con người bồi dưỡng tâm hồn và nâng cao nhận thức đối
với thế giới, giáo dục phát triển tính nhân văn. Văn chương giúp chúng ta thư
giãn hằng ngày và còn đưa con người hướng tới Chân – Thiện – Mó.
Ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, nơi bao la những cánh đồng thơm
ngát, vườn cây tróu quả. Nơi khi chiều tà từng đàn cò trắng bay lả, bay la đón
ánh hoàng hôn. Nơi có những người nông dân một nắng hai sương nhưng rất
đỗi nhân hậu hiền từ. Nơi đó văng vẳng mãi tiếng ầu ơ ru hời giữa buổi trưa
hè êm ả. Nơi ấy đã kết tinh thành nhiều làn điệu dân ca. Ca dao dân ca kết
tinh vẻ đẹp tâm hồn của con người.
Nhưng thực tế đáng buồn khi tiếng nói tâm hồn da diết sâu lắng ấy đang
dần bò lãng quên. Tiếng ru à ơi nghe bồi hồi tha thiết ngày một mất dần,
thay vào đó là những làn điệu “thời thượng”. Học sinh chẳng hề biết thêm
câu ca dao nào ngoài những câu ở Sách giáo khoa. Lí do một phần do sự
phát triển của đất nước kéo theo sự ra đời của nhiều loại hình giải trí khác
nhau mà phổ biến là thể loại nhạc trẻ hiphop, rap… đang làm đảo điên giới
trẻ. Một số bản nhạc sáng tác và thònh hành theo trào lưu nhưng không giữ
được chỗ đứng trong tâm hồn của con người. Nhiều gia đình cha mẹ không
biết hát ru mà chỉ bật nhạc lên cho các bé con nghe mà thôi. Thiết nghó
những điệu nhạc rất “mốt” ấy làm chúng ta nghe còn cảm thấy “mệt mỏi”
thì những em bé ấy đang phải chòu một “ cực hình” như thế nào? Thay vì
1

Phan Văn Tường - Bước đầu tìm hiểu về Văn học ở Long An - NXB Văn Nghệ năm 2007 – Trang 22
Trang 4
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
phải nghe những điệu nhạc dân ca trầm bỗng nhẹ nhàng sâu lắng thì giờ
phải “ giật giật” theo nhạc. Rồi đây các em sẽ ra sao? Vì thực ra trong lời
những bản nhạc ấy không thể giúp trẻ thơ hình thành nhân cách như ca dao,
dân ca mang đến.
Đó là sự thật đáng buồn khi ca dao bò lãng quên mà học sinh không lấy
được ví dụ về ca dao ngoài những gì có trong sách giáo khoa và giáo viên
cung cấp.
Để ca dao, dân ca có thể tồn tại vónh cửu trong lòng người, thì trước hết
phải gây cảm xúc, kích thích lòng đam mê tìm hiểu ca dao, dân ca đối với
học sinh. Làm thế nào cho học sinh thấy được cái hay, cái đẹp; mộc mạc
giản dò mà cao quý của ca dao. Từ đó mới có thể phát triển nhu cầu tìm hiểu
ca dao, đó là vần đề hết sức quan trọng.
2 Mục đích của đề tài:
Để gây hứng thú cho học sinh trong giờ học ca dao, dân ca; cảm nhận
được phần nào giá trò cao quý đáng trân trọng của ca dao; làm cho ca dao
không còn là một khái niệm lạ; làm tăng khả năng cảm thụ văn chương của
học sinh; giúp các em hòa nhập với cuộc sống hiện đại nhưng không lãng
quên giá trò tinh hoa của truyền thống dân tộc.
Đó là lí do tôi chọn đề tài này.
3.Lòch sử đề tài:
Vốn yêu thích thể loại văn học dân gian, đặc biệt là ca dao, dân ca, tôi
đã nhiều năm tham khảo tài liệu; dự giờ đồng nghiệp, tham khảo các cách
diễn xướng ca dao, dân ca; thể nghiệm giảng dạy để thực hiện đề tài.
Đề tài nói về ca dao và dân ca thì vô cùng phong phú và cũng đã có
nhiều công trình nghiên cứu. Nhưng chưa có đề tài nào nói về việc giúp học
sinh cảm nhận và yêu thích ca dao, dân ca. Cũng như trong giờ dạy ca dao,
dân ca giáo viên chưa thực hiện được phương pháp dạy học tích cực do học

sinh quá thụ động.
Một số đồ dùng dạy học ở nhà trường (băng ca dao, dân ca) chưa sử
dụng được vì không phù hợp với đặc trưng về vùng miền (trong băng chủ
yếu là dân ca quan họ Bắc Ninh).
Mặt khác năm trước, khi giảng dạy, tôi thấy học sinh hiểu về ca dao dân
ca rất mơ hồ; mong muốn các em có thể nắm vững và yêu quý nền văn học
Trang 5
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
dân gian, yêu qúy và trân trọng lời ru, tiếng hát, làn điệu quê hương, tôi thực
hiện đề tài này.
4.Phạm vi đề tài:
Đề tài được thực hiện trong năm học 2007 – 2008 ở lớp 7
1
và lớp 7
2
trường THCS Thái Trò, huyện Vónh Hưng.
Đề tài có thể vận dụng dạy phần ca dao chương trình Ngữ văn 7 Trung
học Cơ sở.
II.NỘI DUNG CÔNG VIỆC ĐÃ LÀM:
1.Thực trạng của đề tài:
Những năm trước khi thực tập và giảng dạy, qua nhiều lần khảo sát và
tìm hiểu, tôi nhận thấy vấn đề hiểu biết về ca dao của học sinh đang có
nhiều vấn đề cần quan tâm. Trong giờ học, học sinh thụ động chủ yếu là
nghe giảng, tuy có phát hiện được một số nội dung và hình tượng nghệ thuật
nhưng không sưu tầm được ca dao hoặc một làn điệu dân ca nào thuộc chủ
đề đang học.
Khi ra trường được phân công giảng dạy đúng vào chương trình văn học
dân gian, và ở chương trình ca dao dân ca Ngữ văn 7, thì tình hình cũng
không có gì thay đổi, học sinh vẫn rất xa lạ với ca dao. Trong đó số học sinh
biết thêm những bài ca dao khác lại rất hạn chế.

Kết quả điều tra cho thấy tỉ lệ biết về ca dao rất thấp. Năm học 2006 –
2007 tổng số học sinh ở hai lớp 7
1
và 7
2
là 60 học sinh thì số lượng biết thêm
những bài ca dao không có trong SGK là:
Số lượng
học sinh
Tỷ lệ %
Biết hơn 5 bài ca dao, dân ca 11 18,3 %
Biết 4 đến 5 bài ca dao, dân ca 13 21,7 %
Biết 2 đến 4 bài ca dao, dân ca 8 13,3 %
Biết 1 bài ca dao, dân ca 19 31,7 %
Không biết thêm ca dao, dân
ca
9 15 %
Trang 6
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
Về sau, khi viết văn biểu cảm cho tác phẩm văn học, thì khả năng liên
tưởng, tái hiện hình tượng nghệ thuật của học sinh rất kém. Tính liên hệ rời
rạc, bộc lộ cảm xúc khô khan.
Trong tiết học, phần lớn học sinh nghe giảng thụ động. Lúc tiến hành
hoạt động trò chơi, thi tìm hiểu về ca dao kết quả rất hạn chế. Số lượng bài
ca dao cùng chủ đề mà học sinh sưu tầm được vô cùng ít ỏi. Thậm chí có
nhiều học sinh còn nhầm lẫn ca dao với tục ngữ, vè…
Tuy có ít phát hiện mới, nhưng phần lớn học sinh chỉ tiếp thu và tái hiện
lại những gì giáo viên cung cấp mà cũng không trọn vẹn. Điều đó dẫn đến
kết quả học tập chưa cao. Mà theo phương pháp mới thì giáo viên chỉ là
người chỉ đạo, hướng dẫn, giúp học sinh cảm thụ tác phẩm.

Với thực trạng trên thì việc cảm nhận, học tập của học sinh không thể đạt
hiệu quả cao. Giáo viên phải cung cấp kiến thức nội dung sơ đẳng cũng như
tư liệu sưu tầm, gần như quay về cách dạy, cách học truyền thống trước đây.
Nhiều học sinh cảm thụ ca dao một cách máy móc, khô khan; không
hiểu được hình tượng độc đáo và ý nghóa của ca dao. Nhiều bài ca dao khi đi
vào cảm nhận, học sinh chỉ biết diễn xuôi ca dao, rất ít học sinh có cách nhìn
nhận và cảm thụ riêng. Ca dao thường có tính đa nghóa lời ít ý nhiều “ý tại
ngôn ngoại”. Như Phạm văn Đồng đã nhận xét: “ngôn ngữ ca dao được đúc
lại như huân chương” giờ đây lại trở thành khô khan, gần như ấu trí, đáng
cười dưới mắt người học.
Bên cạnh đó, một số hình tượng nghệ thuật của ca dao bắt đầu từ những
hình ảnh bình dị, gần gũi nhưng lại trở thành những biểu tượng đẹp đẽ. Thế mà
dưới sự cảm nhận của học trò biểu tượng đó lại trở thành đơn giản tầm thường
thậm chí trở thành ngơ nghê.
Hỡi cơ tát nước bên đàng
Sao cơ múc ánh trăng vàng đổ đi?
Hình ảnh cô gái tát nước, yêu lao động, làm việc quên cả thời gian; yêu
cuộc sống trở thành một biểu tượng đẹp.
Kó năng liên kết văn bản kém làm cho ý văn rời rạc, mất đi tình cảm
chân thành, thiếu dẫn chứng
Chẳng hạn khi cảm nhận về bài ca dao :
“Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,
Miệng nhai cơm múm lưỡi lừa cá xương”.
Trang 7
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
Em Trần văn Đủ lớp 7
1
năm học 2006 – 2007 đã viết: “Trước đây, ông
bà ta đã phải sống vô cùng cực khổ, ăn cá nhỏ toàn xương vừa ăn vừa lừa
xương để khỏi bò mắc cổ.”

Hay bài của em Trònh Văn Thà khi cảm nhận về bài ca dao:
“Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn,
Đài Nghiêng, Tháp Bút chưa mòn,
Hỏi ai xây dựng nên non nước này?”
Viết: “Ở Hồ Gươm có những gì bạn biết không? Có cầu Thê Húc, chùa
Ngọc Sơn; có Đài Nghiêng, Tháp Bút. Thật là có nhiều công trình kiến trúc
đẹp, tác giả dân gian rất băn khoăn vì không biết ai là kiến trúc sư của công
trình to lớn này.”
Thật đau lòng khi tình cảm yêu thương chan chứa của người mẹ dành
cho con, chắt chiu từng miếng ăn đã được cảm nhận một cách thô thiển và
phản ý nghóa. Lòng tự hào về sự giàu đẹp của đất nước lại được diễn giải
một cách rất ngô nghê đáng cười như vậy.
Cũng có những bài viết hiểu được đặc sắc nghệ thuật, nét đẹp của ca
dao nhưng vốn hiểu biết về ca dao quá hạn hẹp nên bài viết thiếu liên hệ,
khô khan, tình cảm cứng nhắc, thiếu tính biểu cảm như ca dao vốn có.
Trong khi đó thì ca dao, dân ca của vùng Nam Bộ vô cùng phong phú.
Đâu đó những câu hò, điệu lí à ơi nghe thiết tha nồng thắm. Mà học sinh thì
chẳng có lấy một tí vốn về ca dao. Thậm chí ca dao là gì, thì các em hiểu lơ
mơ.
Đó chính là vì nguồn ca dao và dân ca từ gia đình quá hạn chế; vì nhiều
em chưa từng được nghe lời ru của mẹ và chưa được thưởng thức dân ca của
quê hương mình.
Các loại hình giải trí phong phú làm ca dao, dân ca gần bò quên lãng.
Các chương trình về ca dao dân ca trên truyền hình lại rất hiếm. Các băng
đóa về ca dao ở ngoài thò trường rất hiếm vì nhu cầu người thưởng thức không
nhiều và thế là ca dao, dân ca trở thành xa lạ với học sinh.
Sự hiểu biết nghèo nàn về ca dao chính là điểm hạn chế lớn nhất trong
cảm thụ ca dao, dân ca của học sinh. Học sinh cần được giáo viên thúc đẩy
cổ vũ lòng đam mê ca dao, dân ca; cần làm cho các em thấy được cái hay cái

đẹp giản dò của ca dao để các em yêu mến, trân trọng và có nhu cầu tìm
hiểu, sưu tầm. Học sinh đã không biết gì mà giáo viên lại rập khuôn kiến
Trang 8
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
thức trong sách giáo khoa thực hiện thì càng làm cho không khí lớp học trầm
lắng, tâm trạng học sinh mệt mỏi, uể oải, và càng chán nản học ca dao.
Vì vậy, giáo viên phải chú ý đến nhu cầu tìm hiểu của học sinh để thay
đổi cách truyền thụ, liên hệ nhằm gây hứng thú cho học sinh. Để làm được
điều đó người giáo viên cần có vốn ca dao phong phú, am hiểu tương đối đầy
đủ ý nghóa cũng như hình tượng nghệ thuật trong đó, cách diễn đạt nội dung
đúng đắn, dễ hiểu, gây nhiều thiện cảm đến với người học.
Giáo viên cần có chất giọng truyền cảm, khi dạy cần hướng dẫn và đọc
mẫu cho học sinh nghe, khi cần thiết có thể hát lên thành làn điệu dân ca,
nhằm tạo ấn tượng ban đầu gây hứng thú cho học sinh. n tượng đó sẽ giúp
học sinh có cảm hứng và nhu cầu tìm hiểu. Giáo viên vận dụng chất giọng
mình đưa học sinh tìm đến với nhiều là điệu dân ca khác nhau. Với những
giáo viên không có giọng đọc tốt thì cũng phải nắm được yêu cầu chất
giọng, nhòp điệu của các bài ca dao và hướng dẫn học sinh, tìm những băng
đóa hướng dẫn đọc để tham khảo và có thể vận dụng trong tiết dạy. Có thể
cho học sinh làm quen với ca dao bằng những làn điệu dân ca phù hợp. Đã là
giáo viên dạy Văn cần phải có một giọng đọc tốt, như vậy phải rèn luyện
không ngừng để không phụ thuộc vào băng đóa.
2.Nội dung cần giải quyết:
Để phần nào khắc phục tình trạng này thì giáo viên phải gây được sự
yêu thích của học sinh về ca dao, dân ca; gây hứng thú từ đó thúc đẩy nhu
cầu tìm hiểu ca dao.
Thực hiện được điều đó, giáo viên phải có nghệ thuật dẫn vào bài một
cách sinh động. Tích hợp kiến thức cũ và kiến thức mới; tích hợp với phân
môn âm nhạc. Điều này giúp học sinh phát triển tư duy tìm hiểu kiến thức,
gợi ra sự hứng thú của học sinh với vấn đề cần tìm hiểu. Giúp học sinh cảm

nhận về các hình tượng nghệ thuật và ngôn ngữ trong ca dao.
Bản thân giáo viên phải có vốn ca dao cần thiết để có thể liên hệ, dẫn
chứng cho học sinh trong quá trình tìm hiểu văn bản, bình giảng hay là một
yếu tố hấp dẫn với học sinh. Từ đó kích thích sự chủ động lónh hội của học
sinh, tạo khả năng tư duy sáng tạo. Các em sẽ tự bộc lộ, cảm nhận, nhận xét
của mình qua các văn bản ca dao dân ca. Từ đó, gợi sự say mê sưu tầm ca
dao, dân ca cho học sinh.
Trang 9
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
Từ sự yêu thích ca dao, tìm hiểu ca dao sẽ hướng các em đến thể hiện ca
dao, diễn xướng ca dao một cách sáng tạo.
A.CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH:
Sau quá trình chuẩn bò kiến thức để tích hợp, liên hệ giáo viên cần thiết
kế bài dạy một cách có hệ thống và hợp lí nhất; giúp học sinh có thể tích
cực, chủ động trong giờ học.Tránh tình trạng giáo viên cung cấp kiến thức
một chiều, quay lại cách dạy học trước đây.Giáo viên hoạt động quá nhiều
sẽ làm giảm kết quả mục tiêu bài học.
Đối với một tiết dạy ca dao trong chương trình Ngữ văn 7 tôi đã thiết kế
trình tự hoạt động.
1.Hướng dẫn chuẩn bò bài:
Giáo viên giúp học sinh xác đònh mục tiêu và trọng tâm bài học, về nhà
các em có điều kiện, thời gian để sưu tầm, tìm hiểu chuẩn bò tiết học cho tốt
hơn.
Việc chuẩn bò tốt ở nhà sẽ giúp học sinh nắm những nội dung cơ bản của
bài học, đồng thời xác đònh cái biết và chưa biết để giúp các em có nhu cầu
tìm hiểu, giải đáp thắc mắc trong quá trình trên lớp.
Với một tiết học ca dao thì việc hướng dẫn ở nhà là chỉ ra trọng tâm
của các bài ca dao đã học, hình tượng nghệ thuật, ngôn từ. Đồng thời là việc
yêu cầu học sinh sưu tầm những bài ca dao cùng chủ đề.
Giúp học sinh liên hệ, mở rộng tri thức. Ngoài ra, ở nhà học sinh còn có

thời gian để luyện tập và diễn xướng ca dao theo ý thích của mình, giúp cho
việc đọc ca dao trên lớp phong phú hơn với làn điệu ca dao nhiều miền.
Do đó, khi hướng dẫn học sinh chuẩn bò bài là người giáo viên xác đònh
trọng tâm bài học cho học sinh, yêu cầu chuẩn bò bài trước khi lên lớp:
+ Đọc các văn bản ca dao và trả lời hệ thống câu hỏi của phần “Đọc
hiểu văn bản”.Nắm được hình tượng nghệ thuật của bài.
+ Sưu tầm những câu ca dao có cùng chủ đề sẽ học, chú ý những câu ca
dao của đòa phương.
+Tìm hiểu về cách thức đọc và diễn xướng ca cao phù hợp.
Việc học sinh chuẩn bò tốt ở nhà sẽ giúp các em phát hiện vấn đề còn
thắc mắc, giúp cho tiết học các em sẽ có nhu cầu tìm hiểu. Giáo viên kiểm
Trang 10
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
tra sự chuẩn bò của học sinh mà có cách dạy phù hợp theo nhu cầu các em
cần tìm hiểu.
Với những thắc mắc không giải đáp được trong quá trình chuẩn bò thì các
em sẽ tích cực tìm hiểu khi lên lớp.
2.Hoạt động giới thiệu bài:
Giới thiệu bài là một công việc quan trọng đối với một tiết dạy, nhằm
gây ấn tượng đối với học sinh, tạo tâm lí hứng khởi, kích thích học sinh có
nhu cầu tìm hiểu lónh hội tri thức.
Vì vậy tránh tình trạng giới thiệu bài một cách qua loa, sơ sài làm giảm
hứng thú cho học sinh; gây tâm lí nhàm chán, uể oải. Do đó, giáo viên cần
dùng những đặc sắc tiêu biểu, hoặc liên hệ một cách sáng tạo hấp dẫn học
sinh, tạo ra cuộc khởi đầu tốt. Khơi dậy được hứng thú tích cực của học sinh
là yêu cầu cần thiết giúp học sinh cảm nhận nghệ thuật ngôn từ tác phẩm
một cách tốt nhất. Khơi dậy tư duy sáng tạo của bản thân học sinh giúp các
em có cái nhìn mới mẻ và tích cực hơn.
Nếu phần giới thiệu bài quá đơn điệu, mơ hồ sẽ làm ảnh hưởng đến khả
năng tiếp nhận của học sinh, có thể dẫn đến hiểu sai lậch nội dung bài.

Để đạt hiệu quả cao giáo viên cần tìm ra cái riêng nhất của từng thể loại
để giới thiệu hoặc so sánh nét đối lập, tương phản của các văn bản khác;
nhằm giúp học sinh khắc sâu kiến thức và củng cố kiến thức cũ.
3.Tổ chức đọc tác phẩm:
Ca dao là một thể loại văn học trữ tình truyền thống. Do đó nó thấm
đượm tình cảm nồng nàn, là tiếng hát từ trái tim, đáy lòng con người. Vì vậy
khi đọc ca dao cần có cách đọc riêng, trừ những bài hát đối, còn các loại ca
dao khác chỉ đọc một người. Đọc ca dao không chỉ đòi hỏi đọc đúng chính tả,
phát âm chuẩn mà còn đòi hỏi chất giọng truyền cảm thể hiện đúng tâm tư,
tình cảm, tư tưởng của văn bản đó là: lời ru, dạy bảo; niềm tự hào hay cảm
thương thân phận; lên án thói hư, tật xấu… Thực ra đây chính là quá trình thể
hiện và diễn xướng ca dao, có nhiều cách thể hiện khác nhau tuỳ theo đặc
điểm vùng miền, giáo viên là người cần nắm biết cách diễn xướng của các
vùng miền để hướng dẫn cho học sinh cho phù hợp.
Đọc văn bản là quá trình đầu tiên của sự tiếp nhận, thức tỉnh cảm xúc,
khơi gợi tình cảm và tư duy tìm hiểu. Do đó, đọc văn đã khó thì đọc ca dao
càng khó hơn.
Trang 11
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
Giáo viên thể hiện đọc văn bản thành công thì xem như đã nắm thắng
một phần của tiết dạy.
Lúc đọc văn bản là giáo viên đang truyền cảm xúc, khơi gợi tình cảm
sang học sinh, do đó giáo viên phải luyện đọc. Đọc văn là một nghệ thuật,
một điều kiện ban đầu, một trong những phương pháp để tiến hành tiết dạy
có kết quả tốt nhất.
4. Hướng dẫn tìm hiểu văn bản:
Đọc hiểu tác phẩm là quá trình quan trọng của tiết dạy văn bản. Nếu
đọc văn bản là quá trình khơi gợi, thức tỉnh cảm xúc, thì đọc tìm hiểu văn
bản là quá trình đọc suy ngẫm, cảm nhận về tư tưởng nội dung, giá trò nghệ
thuật mà văn bản thể hiện.Vì vậy lúc này là lúc dưới sự hướng dẫn của giáo

viên học sinh tìm hiểu những đặc sắc về nghệ thuật ngôn từ cũng như hình
tượng nghệ thuật và nội dung tư tưởng văn bản. “Phân tích tác phẩm là quá
trình minh giải tính sinh động của nghệ thuật, là sự chuyển hoá từ tác phẩm
sang sự tiếp nhận của người học, là sự khai mở nét nghóa, lớp nghóa để tìm
hiểu nội dung”
2
.
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đúng nội dung văn bản thể hiện. Đối với ca
dao vấn đề nổi bật chính là tình cảm, cảm xúc được thể hiện trong các hình
tượng nghệ thuật. Vì vậy việc phân tích, lí giải hình tượng nghệ thuật trong
ca dao là rất quan trọng. Nó giúp việc tìm hiểu nội dung văn bản một cách
chính xác. Ngoài ra, ca dao còn nổi bật ở nhòp điệu, cấu trúc, biện pháp nghệ
thuật. Cho nên cảm nhận ca dao cần so sánh những nét đối lập và tương
đồng của các hình tượng nghệ thuật để hiểu văn bản rõ hơn.
Ở hoạt động này giáo viên cần kết hợp nhiều phương pháp giảng dạy
tránh tình trạng cung cấp kiến thức một chiều. Giáo viên cần đưa ra hệ thống
câu hỏi gợi mở, tránh tình trạng giáo viên tự hỏi và tự trả lời, đưa ra những
câu hỏi đòi hỏi năng lực cảm nhận của học sinh.
Câu hỏi thảo luận ở ca dao thường là những câu hỏi cảm nhận về nghệ
thuật ngôn từ. Hoạt động nhóm giáo viên cũng cần có sự gợi mở để học sinh
thấy “điểm sáng” của các nhãn tự, tránh tình trạng học sinh tự tìm hiểu mà
không có sự gợi mở dẫn đến nhàm chán, thụ động.
Trong bốn chủ đề ca dao trong chương trình Ngữ văn 7 là những văn bản
tiêu biểu, phần đọc thêm có một số bài nhưng còn hạn hẹp. Vì vậy giáo viên
2
Nguyễn Trọng Hoàn –Phát huy tính tích cực sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn chương – NXBGD 2002 –
trang 263.
Trang 12
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
cần cho học sinh sưu tầm thêm. Từ đó đan xen những văn bản ca dao cùng

chủ đề. Giáo viên có thể cho học sinh tự phát hiện sự tương đồng trong các
bài ca dao đó, điều này làm cho học sinh khắc sâu hơn nội dung. Nó cho thấy
sự phong phú của ca dao, giúp các em tích cực hơn.
5. Bình giảng của giáo viên:
Hiện nay – phương pháp dạy học mới thì người giáo viên chỉ dẫn dắt học
sinh cảm thụ tác phẩm. Nhưng không phải vì thế mà người giáo viên quên đi
nhiệm vụ bình giảng của mình. Người thầy dạy phải bình giảng, thể hiện
cảm nhận trước những hình ảnh “đắt” trong văn bản; những hình tượng nghệ
thuật sâu sắc. Như thế lời bình sẽ khắc sâu kiến thức cho học sinh. Bình hay
sẽ giúp học sinh hình dung ra cái đẹp, cái hay một cách thực tế và dễ dàng
nhất.
6.Luyện tập kó năng:
Học ca dao tuy thời lượng rất ít nhưng việc luyện tập các kó năng hết sức
quan trọng. Kó năng cần luyện tập trong ca dao đó chính là sự tư duy, tưởng
tượng quan sát và liên hệ hình tượng nghệ thuật, ngôn từ. Học sinh có thể
bộc lộ khả năng tư duy và năng lực sáng tạ cảu mình qua phần “cảm nhận
tác phẩm văn học” trong tập làm văn 7. Bởi lúc náy học sinh có thể so sánh
liên hệ các bài ca dao hoặc liên hệ thực tế.
Ngoài ra, năng lực diễn xướng thể hiện ca dao cũng quan trọng không
kém.Học sinh từ các văn bản ca dao có thể diễn xướng theo nhiều cách khác
nhau, điều này làm cho việc cảm nhận và yêu thích ca dao việt Nam. Học
sinh có thể thực hiện ở nhà hoặc qua các tiết “Hoạt động Ngữ Văn đòa
phương”.
Để làm được điều này thì học sinh buộc phải yêu thích ca dao, có vốn ca
dao và cảm nận được hình tượng của ca dao.
7.Hướng dẫn học ở nhà:
Việc hướng dẫn học sinh học ở nhà cũng là một phần rất quan trọng của
tiết dạy.
Trang 13
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền

Giáo viên thường đi sâu vào tìm hiểu tác phẩm mà lãng quên bước
hướng dẫn học sinh tự học ở nhà hoặc hướng dẫn sơ sài. Để học sinh có thể
tích cực, chủ động lónh hội tri thức thì học sinh cần phải tự tìm hiểu ở nhà.
Giáo viên vào cuối tiết dạy hướng dẫn học sinh những gì cần thiết phải tìm
hiểu, rèn luyện ở nhà. Điều này giúp học sinh đònh hướng được nhiệm vụ
học của mình và có thể tự học tốt hơn. Giáo viên giúp học sinh xác đònh
trọng tâm của bài học, chỉ ra nội dung cần nắm vững, kó năng cần rèn luyện
và đònh hướng tìm hiểu ở bài sau.
B.BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT:
Căn cứ vào mục tiêu cần đạt của bài học để giáo viên có phương pháp
truyền thụ kiến thức hiệu quả, tôi trích dẫn một số đoạn trong tiến trình dạy
học của một bài ca dao thuộc chủ đề “Những câu hát than thân”:
Mục tiêu cần đạt:
Giúp học sinh:
- Sưu tầm ca dao.
- Biết cách đọc diễn cảm ca dao.
- Nắm được nội dung, nghệ thuật tiêu biểu của các bài ca dao.
- Thuộc và biết thêm một số bài ca dao cùng chủ đề.
Phương pháp:
- Đọc diễn cảm, đàm thoại gợi mở bằng hệ thống câu hỏi gợi tìm.
- Thảo luận, nhận xét, liên hệ, liên tưởng để cảm nhận về các hình
tượng, nội dung, hình ảnh.
- Bình giảng.
- Luyện tập tổng hợp.
• Hướng dẫn chuẩn bò bài học:
- Đọc trước những bài ca dao trong văn bản, luyện đọc diễn cảm hoặc
diễn xướng.
- Sưu tầm những câu hát dân gian có hình ảnh con cò.
- Thể hiện một số câu hát, điệu hát có hình ảnh con cò.
- Trả lời hệ thống câu hỏi ở phần đọc hiểu văn bản của bài và một số

câu hỏi tình huống giáo viên đặt ra.
Tiến trình bài dạy:
Trang 14
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
Giới thiệu bài: giáo viên có thể dẫn vào bài bằng những câu hát có hình
ảnh con cò, những bài ca dao gần gũi hay câu hát quen thuộc như:
“Con cò là cò bay lả lả bay la, bay từ là từ cửa phủ, bay ra là ra cánh
đồng. Tình tính tang, tang tính tình, ơi bạn rằng ơi bạn ơi, rằng có biết là biết
hay chăng? Rằng có nhớ là nhớ hay chăng?” ( Con cò)
Hoặc hát ru bài ca dao: “Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”
Hình ảnh con cò xuất hiện trong bài ca dao, trong lời ru nói đến thân
phận nào? Con cò thực sự hay một hình ảnh ẩn dụ khác? Để hiểu rõ vấn đề
đó ta sẽ đi tìm hiểu bài các bài ca dao sau:
I. Tìm hiểu văn bản:
1.Bài ca dao thứ nhất :
a.Đọc và tìm hiểu chú thích:
Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc, và yêu cầu đã chuẩn bò cách đọc,
cách diễn xướng ở nhà các em thể hiện.
Đọc với giọng thở than, chậm rãi:
“ Nước non lận đận / một mình,
Thân cò / lên thác xuống ghềnh / bấy nay.
Ai làm / cho bể kia đầy
Cho ao kia cạn / cho gầy cò con ?”
Yêu cầu học sinh giải thích các từ khó: lận đận, thác, bể đầy, ao cạn.
b.Tìm hiểu văn bản:

1.Thể thơ: lục bát.
2.Nghệ thuật:
Theo em, hình ảnh con cò ở đây chỉ ai? Sử dụng biện pháp nghệ thuật gì ?
- Con cò chỉ người nông dân. Nghệ thuật ẩn dụ.
Em hãy tìm những bài ca dao có hình ảnh con cò xuất hiện?
Học sinh đã chuẩn bò ở nhà có thể trình bày, giáo viên đưa ra một số bài
có hình tượng con cò chỉ người nông dân như:
Trang 15
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao…”
Hay:
“ Cái cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non…”
Vì sao trong ca dao xưa, người nông dân lại mượn hình ảnh con Cò để
diễn tả thân phận của họ?
Đây là câu hỏi nâng cao, có thể một số lớp, học sinh khó khăn trả lời
giáo viên sẽ dùng hệ thống câu hỏi gợïi mở như sau:
Trong thời phong kiến người nông dân sống như thế nào? Chòu sự áp bức
ra sao?
- Giáo viên nói về thân phận của người nông dân dưới thời phong kiến
như: Chò Dậu, Lão Hạc, Chí Phèo …(sau này lên lớp trên sẽ học). Họ chòu
nhiều tầng áp bức, bóc lột. Cuộc sống của họ suốt đời bán mặt cho đất, bán
lưng cho trời, khi đi ướt đẫm sương đêm, khi về mặt trời đã tắt nhưng vẫn
không đủ ăn. Họ bò bần cùng hoá, bế tắc đến cùng đường.
Em thấy con Cò với người nông dân có gì giống nhau?
- “Trong các loài chim kiếm ăn ở ruộng đồng, chỉ có con cò thường gần
gũi với người nông dân hơn cả. Những lúc cày, cuốc, cấy, hái, người nông
dân luôn thấy con cò bên họ: cò lặn lội theo luống cày, cò bay trên cánh
đồng lúa bát ngát, con cò đứng trên bờ ruộng rỉa lông cánh, ngắm nghía

người nông dân … Con cò gợi hứng cho họ nhiều”
3
.
Mặt khác, con cò còn có những phẩm chất giống người nông dân như
chòu thương, chòu khó, cần cù …Nếu như người nông dân:
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Thì Cò cũng lầm lũi kiếm sống:“Trời mưa
Quả dưa vẹo vỏ
Con ốc nằm co
Con tôm đánh đáo
Con cò kiếm ăn”
Khi mọi vật đều nghỉ ngơi, vui chơi thì người nông dân chân lấm tay bùn
cũng như Cò miệt mài làm việc kiếm cái ăn.
3
Vũ Ngọc Phan – Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978.
Trang 16
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
Cuộc đời của con cò trong bài ca dao được thể hiện qua những từ ngữ
nào?
- Các từ ngữ: lận đận, nước non, một mình, lên thác, xuống nghềnh, bể
đầy, ao cạn.
Qua đó em thấy cuộc đời “cò” như thế nào?
- Cuộc đời lận đận, vất vả, cay đắng, gian truân.
Dựa vào đâu mà em biết cuộc đời cò lận đận, cay đắng, vất vả?
- Sử dụng từ láy : lận đận.
- Sự đối lập: nước non > < một mình.
Thân cò ( nhỏ bé, gầy guộc) > < thác ghềnh.
- Sử dụng từ đối lập: Lên (thác) > < xuống (ghềnh) => phải kiếm sống
khắp phương trời.

(Bể) đầy > < (ao) cạn => thể hiện những khó khăn, bất trắc.
Hình ảnh từ ngữ miêu tả hình dáng, thân phận cò: Thân cò, gầy cò con.
-Hình thức câu hỏi ở cuối bài.
“ Cò” làm lụng vất vả để làm gì? Kết quả của những vất vả của cò là gì?
- Bươn chải kiếm ăn của cò vẫn không đủ.
Vì sao Cò không nói đến thân mình mà lại nói về “cò con”. Cho thấy đức
tính gì của Cò?
Một điều đáng khâm phục đó là sự hy sinh hết lòng vì con cái, không
màng đến bản thân mà luôn nghó đến “cò con”. Đây cũng là đức tính cao
quý của các bậc làm cha mẹ, nhất là trong hoàn cảnh nghèo khó. Đó chính
là phẩm chất cao quý của con người Việt Nam.
Em hiểu thế nào là “lên thác, xuống ghềnh”, “bể đầy, ao cạn”?
- Học sinh dựa vào chú thích ở sách giáo khoa của bài để trả lời: là sự
long đong, khó khăn vất vả, rủi ro trong cuộc mưu sinh.
Qua các từ ngữ: lên thác, xuống ghềnh, bể đầy, ao cạn em hình dung về
sự vất vả của cò như thế nào?
-Học sinh trình bày cảm nhận của mình.
Giáo viên tổng hợp, giảng bình: Tác giả bài ca đã sử dụng những biện
pháp nghệ thuật vô cùng phong phú. Đó là những hình ảnh đối lập thể hiện
nghòch lí của cuộc đời người lao động ngày xưa: Một mình phải đối mặt với
bao thử thách dữ dội (Nước non, thác, ghềnh) với biết bao lận đận với biến
động cuộc đời (Bể đầy, ao cạn), nhưng vẫn cố gắng tần tảo để nuôi con. Tuy
nhiên sự bươn chải ấy chỉ đem lại kết quả quá nhỏ nhoi, ít ỏi không đủ nuôi
Trang 17
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
con, “cò con” vẫn … “gầy”. Nhất là câu hỏi tu từ ở cuối bài “Ai làm cho bể
kia đầy/ Cho ao kia cạn , cho gầy cò con?”, bộc lộ một tâm trạng buồn
thương, ngao ngán cho thân phận hẩm hiu. Mỗi dòng thơ là một tiếng than,
tiếng thở dài chua xót.
Thảo luận 2 phút:

Ngoài nội dung than thân, theo em bài ca dao còn có nội dung gì ? Tác
dụng của câu hỏi tu từ cuối bài ca dao?
- Học sinh trả lời.
Ngoài nội dung than thân vì phải sống vất vả làm không đủ ăn, bài ca
dao còn có nội dung phản kháng, tố cáo xã hội phong kiến trước đây. Sống
trong xã hội bất công ấy, người nông dân phải “lên thác”, “xuống ngềnh” để
mưu sinh, nhưng ấm no chẳng có, nói gì đến hạnh phúc. Ai gây nên tội lỗi
này? Chính là bọn thống trò lúc bấy giờ. Câu hỏi tu từ cuối bài bỏ lửng,
nhưng mạch thơ và dòng cảm xúc của thơ đã khơi gợi cho người nghe, người
đọc tự giải đáp.
Em hãy trình bày cảm nhận của mình về bài ca dao hoặc liên hệ cảm
nhận một số hình tượng đặc sắc trong bài?
(Câu hỏi củng cố, bài tập tổng hợp giúp học sinh bộc lộ cảm nhận của
bản thân).
Giá trò lớn nhất của ca dao là gì? Từ đó, ca dao có thể vận dụng như thế
nào trong đời sống?
- Giá trò của ca dao là biểu cảm. Sử dụng ca dao để bộc lộ tình cảm
trong những trường hợp phù hợp.
Em có thể diễn xướng bài ca dao này theo làn điệu mà em biết?
- HS có thể diễn xướng theo làn điệu: quan họ, dân ca Nam bộ…
Điệu hò của Nam bộ:
Hò …. ơi … Nước non lận đận một mình….thân cò lên thác…xuống ghềnh bấy
nay….Ai làm cho bể kia đầy….cho ao kia cạn… Cho ao kia cạn…. (chứ) hò ơi,…
cho ao kia cạn…. cho gầy …cò con?
Hướng dẫn học ở nhà:
- Em hãy bày tỏ tình cảm của mình về hình ảnh con Cò trong những bài
ca dao mà em biết, liên hệ với hình ảnh người nông dân trong xã hội cũ.
- Tập đọc diễn cảm bài ca dao hoặc tập diễn xướng theo những làn
điệu mà em biết, sưu tầm thêm một số làn điệu dân ca.
Trang 18

Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
- Học thuộc lòng những bài ca dao của văn bản, sưu tầm những bài ca
dao cùng chủ đề than thân.
- Phân tích nội dung và nghệ thuật của bài ca dao, liên hệ một số hình
tượng trong các bài ca dao khác.
- Tập cảm nhận nội dung, hình tượng nghệ thuật của các bài ca dao.
- Chuẩn bò bài học tiếp theo “ Ca dao châm biếm”:
 Soạn theo nội dung câu hỏi SGK.
 Sưu tầm những bài ca dao than thân mà em biết.
 Đọc diễn cảm và diễn xướng các bài ca dao.
 Tìm những từ ngữ, hình tượng đặc sắc trong các bài ca dao.
4.Kết quả chyển biến đối tượng:
Thực hiện theo đề tài này, tôi thu được kết quả chuyển biến của học sinh
khả quan hơn. Học sinh yêu thích ca dao hơn do đó tự sưu tầm ca dao. Đồng
thời khả năng liên hệ hình tượng, cảm nhận ca dao của học sinh cũng chuyển
biến rõ rệt.
Học kì I, tổng số học sinh lớp 7
1
và 7
2
là 43 học sinh:
Số lượng
học sinh
Tỷ lệ
%
Biết hơn 5 bài ca dao, dân ca 12 27,9%
Biết 4 đến 5 bài ca dao, dân ca 19 44,2 %
Biết 2 đến 4 bài ca dao, dân ca 12 27,9 %
Biết 1 bài ca dao, dân ca 0 0 %
Không biết thêm ca dao, dân ca 0 0 %

Theo đó thì số lượng học sinh biết thêm những bài ca dao khác cùng chủ
đề tăng lên rõ rệt, những học sinh yếu cũng biết được trên hai bài. Sự yêu
thích của học sinh với ca dao, dân ca cũng tăng lên. Biểu hiện cụ thể là học
sinh chuẩn bò chu đáo hơn, giờ học tích cực tìm hiểu hơn, tiết học trở nên thú
vò. Đặc biệt là sự cảm nhận ca dao của học sinh không còn khôn khan, cứng
nhắc nữa mà trở nên có hồn hơn.
Chẳng hạn cảm nhận về bài ca dao:
“Công cha như núi ngất trời
Nghóa mẹ như nước ngời ngời biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Trang 19
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi”
Em Mai Thò Thuỷ Tiên lớp 7
1
viết “ Đến câu cuối “Cù lao chín chữ ghi
lòng con ơi”, tuy lời ru chỉ rõ công ơn cha mẹ bằng một thành ngữ “cù lao
chín chữ” tuy hơi khó hiểu, nhưng chúng ta vẫn thấm thía tình cảm của cha
mẹ đối với con cái. Có thể nói công ơn cha mẹ không phải chỉ gói gọn trong
chín con chữ mà mở rộng đến vô cùng. Câu thơ tám tiếng chia điều hai nhòp :
bốn tiếng đầu “ cù lao chín chữ” nhấn mạnh công ơn cha mẹ, bốn tiếng sau
“ghi lòng con ơi” nhắc nhở thái độ và hành động của con cái đền đáp công
lao to lớn ấy”.
Cảm nhận về “Thân em như trái bần trôi,
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”
Em Võ Thò Thi cảm nhận: “Văn bản dắt chúng ta trở về nghe trực tiếp
tiếng than của người phụ nữ, hoặc cô gái. Lời than bằng hai tiếng “Thân em”
ùa dậy trong trí nhớ ta biết bao bài ca dao có nội dung tương tự:
-Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài cát, hạt ra ruộng cày.

- Thân em như miếng cau khô
Người thô tham mõng, người thanh tham dày.
-Thân em như giếng giữa đàng
Người thanh khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.
Đây là chùm ca dao diễn tả xúc động những cay đắng cuộc đời của phụ
nữ xưa. Trong xã hội Phong kiến, người phụ nữ không có quyền quyết đònh số
phần mình mà phụ thuộc vào người khác. Họ dù xinh đẹp, tài hoa đến mấy thì
vẫn chỉ như những vật dụng hàng ngày “tấm lụa”, như “miếng cau”, như
“giếng giữa đàng” Trôi nổ, vật vờ, hạnh phúc rủi may, bất hạnh không sao
lường trước được”.
Từ sự cảm nhận của các em đã cho thấy sự tiến bộ trong cách suy nghó,
cảm thụ ca dao. Lời cảm nhận có liên hệ, có cảm xúc hơn không còn thô
thiển, cứng nhắc hoặc hiểu một cách lệch lạc nữa.Bên cạnh đó vẫn còn một
số hạn chế, có em vẫn liên hệ nhưng chưa phù hợp, ý còn rời rạt, sai lỗi
chính tả.
Trang 20
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
III.KẾT LUẬN.
1.Tóm lượt giải pháp:
- Để giảng tiết dạy ca dao có hiệu quả, người giáo viên cần nắm vững
mục tiêu bài học, nội dung từng bài ca dao, những đặc sắc về ngôn ngữ cũng
như hình tượng nghệ thuật. Người giáo viên cần đọc diễn cảm tốt, vận dụng
thiết bò dạy học nhuần nhuyễn, diễn xướng ca dao bằng các làn điệu để học
sinh yêu thích ca dao hơn.
- Hướng dẫn chuẩn bò bài ở nhà một cách đơn giản, dễ hiểu.
- Giới thiệu bài ấn tượng gây cảm hứng cho học sinh.
- Tạo tình huống học tập, giúp học sinh cảm nhận được vẻ đẹp nghệ
thuật và nội dung của ca dao.
- Củng cố bài bằng hoạt động cảm nhận văn bản hoặc các hoạt động
khác.

Thực hiện theo hướng dạy học mới, học sinh tích cực chủ động. Chú ý
bao quát toàn thể học sinh, đưa hệ thống câu hỏi cho mọi học sinh điều có
thể tham gia vào giải đáp bài học, tránh để học sinh yếu, kém không tham
gia vào bài đâm ra nhàm chán.
2.Phạm vi áp dụng:
Đề tài được thực hiện trong năm học 2007 – 2008 ở lớp 7
1
và lớp 7
2
trường THCS Thái Trò, huyện Vónh Hưng.
Đề tài có thể vận dụng dạy ca dao Ngữ văn 7 của học sinh Trung học
Cơ sở.
3.Kiến nghò với các cấp về điều kiện thực hiện:
Cần bổ xung những băng, đóa ca dao dân ca phù hợp đặc điểm vùng,
miền. Các băng đóa đọc, hát chủ yếu là thuộc Bắc Ninh làm học sinh khó
thích ứng vì các làn điệu dân ca Nam Bộ còn thiếu.
Bổ sung một số tranh ảnh minh hoạ cho một số bài ca dao, nhất là những
bài ca dao than thân, châm biếm để học sinh dễ hình dung hơn.
Bổ sung tài liệu tham khảo về ca dao, dân ca vì tài liệu về ca dao ở thư
viện rất hạn chế, cách tra cứu của tài liệu rất khó đối với lứa tuổi học sinh
khi cần chọn bài cùng chủ đề.
Trang 21
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
 Văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu long, NXB GD/ 1997.
 Bước đầu tìm hiểu về Văn học ở Long An ,NXB Văn Nghệ, Phan
Văn Tường.
 Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam – Vũ Ngọc Phan – , NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1978.
 Phát huy tính tích cực sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn chương

Nguyễn Trọng Hoàn – NXBGD 2002 .
 Bình giảng văn 7 – Vũ Dương Quỹ – NXBGD, 2005.
 Dạy học Ngữ văn 7 – Nguyễn Trọng Hoàn – Hà Thanh Huyền –
NXBGD,2006.
 Thiết kế bài dạy Ngữ văn 7 – Lê Xuân Soan – Dương Thò Thanh
Huyền – NXB Thanh niên, 2005.
Trang 22
Vấn đề dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn 7 Tạ Thò Thanh Hiền
MỤC LỤC
I.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.Đặt vấn đề
2.Mục đích đề tài Trang 3
3.Lòch sử đề tài Trang 5
4.Phạm vi đề tài Trang 6
II.NỘI DUNG CÔNG VIỆC ĐÃ LÀM
1.Thực trạng đề tài Trang 6
2.Nội dung cần giải quyết Trang 9
3.Biện pháp giải quyết Trang 14
4.Kết quả chuyển biến đối tượng Trang 20
III.KẾT LUẬN
1.Tóm lượt giải pháp Trang 22
2.Phạm vi đối tượng áp dụng Trang 22
3.Kiến nghò với các cấp về điều kiện thực hiện Trang 22
Trang 23

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×