Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Đề cương ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.37 KB, 23 trang )

I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
I.1. Lý thuyết về tín dụng
I.1.1. Khái niệm
Là quan hệ chuyển giao quyền sử dụng vốn lẫn nhau giữa người đi vay và
người cho vay trên nguyên tắc cóhoàn trả.Quan hệ tín dụng dựa trên nền tảng của
sự tin tưởng nhau giữa các chủ thể.
I.1.2. Phân loại tín dụng
• Căn cứ mục đích cho vay
- Cho vay bất động sản:là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm, xây dựng bất
động sản, nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và
dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu
động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí như phân bón, thuốc
trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, nhiên liệu,lao động…
- Cho vay du học, cho vay mua xe: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng
như mua sắm các vật dụng đắt tiền (xe, du học…)
• Căn cứ thời hạn cho vay
- Cho vay ngắn hạn: loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để
bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệ p và các nhu cầu chi tiêu
ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung dài hạn:Theo quy định hiện nay của NHNN Việt Nam, cho vay
trung hạn có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được
sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công
nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và
thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể
lên đến 20 – 30 năm. Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng
các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy
mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
• Căn cứ mức độ tín nhiệm đối với khách hàng


- Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự
bảo lãnh của người thứ ba, việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách
hàng.
- Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay dựa trên cơ sở các đảm bảo như thế chấp, cầm
cố hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba.
• Căn cứ xuất xứ tín dụng
- Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời
người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế
ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán
I.1.3. Chức năng của tín dụng
• Chức năng tập trung và phân phối lại tài nguyên theo nguyên tắc có hoàn trả.
Theo chức năng này, tín dụng thu hút đại bộ phận tiền tệ nhàn rỗi trong nền
kinh tế và phân phối lại vốn đó dưới hình thức cho vay để bổ sung vốn cho doanh
nghiệp, cá nhân có nhu cầu về vốn nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh và tiêu
dùng. Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, phân phối lại vốn tín dụng được thực
hiện bằng hai cách là phân phối trực tiếp và phân phối gián tiếp.
Phân phối trực tiếp là phân phối từ chủ thể có vốn tạm thời chưa sử dụng
sang chủ thể trực tiếp sử dụng vốn đó cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
Phân phối gián tiếp là việc phân phối vốn thực hiện thông qua các tổ chức tài
chính trung gian.
• Chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng ngày càng mở rộng và phát
triển đa dạng. Từ đó, nó thúc đẩy việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt và
thanh toán bù trừ giữa các đơn vị kinh tế. Điều này sẽ làm giảm được lượng giấy
bạc trong lưu thông và giảm được chi phí lưu thông giấy bạc ngân hàng, đồng thời
cho phép Nhà nước điều tiết một cách linh hoạt khối lượng tiền tệ nhằm đáp ứng
kịp thời nhu cầu tiền tệ cho sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển.
• Chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế.
Tín dụng có khả năng phản ánh một cách tổng hợp và nhạy bén tình hình

hoạt động của nền kinh tế, do đó tín dụng được coi là một trong những công cụ
quan trọng của Nhà nước để kiểm soát, thúc đẩy quá trình thực hiện các chiến lược
hoạch định, phát triển kinh tế.
Mặt khác, trong khi thực hiện chức năng tiết kiệm, gắn liền với phát triển
thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, tín dụng có thể phản ánh và
kiểm soát quá trình phân phối sản phẩm quốc dân trong nền kinh tế.
I.1.4. Vai trò của tín dụng
• Đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất được liên tục đồng thời góp
phần đầu tư phát triển kinh tế. Việc phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hoà
vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục.
Tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Nó là động lực kích thích tiết
kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển. Trong
nền kinh tế sản xuất hàng hoá, tín dụng là một trong những nguồn vốn hình thành
vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp, vì vậy tín dụng đã góp phần động
viên vật tư hàng hoá đi vào sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật đẩy nhanh
quá trình tái sản xuất xã hội.
• Thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất. Hoạt động của ngân hàng
là tập trung vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng, trên cơ sở đó cho vay các đơn vị
kinh tế. Mặt khác quá trình đầu tư tín dụng được thực hiện một cách tập trung, chủ
yếu là cho các xí nghiệp lớn, những xí nghiệp kinh doanh hiệu quả.
• Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế
mũi nhọn. Trong thời gian tập trung phát triển nông nghiệp và ưu tiên cho xuất
khẩu … Nhà nước đã tập trung tín dụng để tài trợ phát triển các ngành đó, từ đó tạo
điều kiện phát triển các ngành khác.
• Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của các doanh
nghiệp. Đặc trưng cơ bản của vốn tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có
lợi tức, nhờ vậy mà hoạt động của tín dụng đã kích thích sử dụng vốn có hiệu quả.
Bằng cách tác động như vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp khi sử dụng vốn tín dụng
phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng
vòng quay của vốn, tạo điều kiện nâng cao doanh lợi của doanh nghiệp.

• Tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Trong điều kiện kinh tế “mở”, tín dụng đã trở thành một trong những phương tiện
nối liền các nền kinh tế các nước với nhau.
I.1.5. Nguyên tắc tín dụng
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại dựa trên một số nguyên tắc
nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này
được cụ thể hóa trong các quy định của ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng
thương mại.Vốn vay phải hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi: Khách hàng phải cam
kết hoàn trả vốn gốc và lãi với thời gian xác định. Các khoản tín dụng ngân hàng
chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân
hàng vay mượn. Do vậy, ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng thực hiện
đúng cam kết này. Đây là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển.
Vốn vay phải sử dụng đúng mục đích có hiệu quả: Khách hàng phải cam kết
sử dụng tín dụng đúng mục đích được thỏa thuận với ngân hàng, không trái với các
quy định của pháp luật và các quy định khác của ngân hàng cấp trên. Bên cạnh đó,
mỗi ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ
được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho các hoạt
động trái pháp luật và việc tài trợ đó là phù hợp với cương lĩnh của ngân hàng.
• Vốn vay phải đảm bảo bằng giá trị vật tư hàng hóa tương đương: Ngân hàng tài trợ
dựa trên các phương án hoặc dự án có hiệu quả. Phương án hoạt động có hiệu quả
của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả
nợ cho ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng gắn liền với việc hình thành tài
sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn, ngân hàng đòi hỏi
người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay. Tài sản đảm bảo này có thể khác với tài
sản tương đương hình thành từ tiền vay.
I.2. Rủi ro tín dụng
1.2.1. Khái niệm
Theo khoản 1 Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban
hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngầy 22/4/2005 của Thống đốc

Ngân hàng Nhà nước: “ Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động
ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm
nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của NHTM như: hoạt động bảo lãnh,
tài trợ ngoại thương, cho thuê tài chính.
1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia
thành các loại sau :
• Rủi ro giao dịch: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là
do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá
khách hàng. Rủi ro giao dịch có 3 bộ phận chính: rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và
rủi ro nghiệp vụ.
- Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan đến quá trìnhđánh giá và phân tích tín dụng,
khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho
vay.
- Rủi ro bảo đảm: phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản trong
hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, cách thức đảm bảo
và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
- Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động
cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các
khoản cho vay có vấn đề.
• Rủi ro danh mục: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phátsinh là
do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia
thành 2 loại : rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
- Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng
biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ
đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
- Rủi ro tập trung: là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với
một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trongcùng một

ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặccùng một
loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.2.3.Đặc điểm của rủi ro tín dụng
• Rủi ro tín dụng mang tính tất yếu: Rủi ro tín dụng luôn tồn tại và gắn liền với hoạt
động tín dụng. Chấp nhận rủi ro là tất yếu trong hoạt động ngân hàng. Các ngân
hàng cần phải đánh giá các cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro-lợi ích
nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro chấp
nhận. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà ngân hàng gánh chịu là hợp lý
và kiểm soát được và nằm trong phạm vi khả năng các nguồn lực tài chính vànăng
lực tín dụng của ngân hàng.
• Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp: Rủi ro tín dụng xảy ra sau khi ngân hàng giải
ngân vốn vay và trong quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng. Do tình trạng
thông tin bất cân xứng nên thông thường ngân hàng ở vào thế bị động, ngân hàng
thường biết thông tin sau hoặc biết thông tin không chính xác về những khó khăn
thất bại của khách hàng và do đó thường có những ứng phó chậm trễ.
• Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng, phức tạp: Đặc điểm này thể hiện ở sự đa
dạng, phức tạp của nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cũng như diễn biến sự việc,
hậu quả khi rủi ro xảy ra do đặc trưng của ngân hàng là trung gian tài chính kinh
doanh tiền tệ. Do đó khi phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng phải chú ý đến mọi
dấu hiệu rủi ro, xuất phát từ nguyên nhân bản chất và hậu quả do rủi ro tín dụng
mang lại để có biện pháp phòng ngừa kịp thời.
I.3. Nợ xấu
I.3.1. Khái niệm
Theo Quyết định 493/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày
22/04/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động Ngân hàng của các tổ chức tín dụng và quyết định số 18/2007 QĐ
– NHNN ngày 25/04/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quyết định 483
thì nợ xấu được định nghĩa như sau: Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào
nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ), nhóm 5 (nợ có khả năng mất
vốn). Nợ xấu theo định nghĩa của Việt Nam cũng được xác định dựa theo 2 yếu tố:

(i) đã quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ đáng lo ngại.
Qua định nghĩa về nợ xấu của các tổ chức trên, ta có thể hiểu khái quát nợ
xấu là các khoản nợ mà khách hàng không trả gốc và lãi đúng hạn hoặc không trả
nợ như đã cam kết dẫn đến thiệt hại cho ngân hàng.
Ngày 21/01/2013, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 02. Thông tư
này đã sửa đổi, bổ sung cho Quyết định 493 về việc phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. Theo đó, việc phân loại nợ để trích lập dự
phòng cụ thể được quy định lại theo hướng siết chặt hơn so với Quyết định 493. Cụ
thể là các khoản nợ được xếp vào loại nợ xấu bao gồm những khoản nợ từ Nhóm 2
đến Nhóm 5 và một phần nợ nhóm 1. Thông tư 02 sẽ được áp dụng từ ngày
01/06/2013.Nhưng vào ngày 27/05/2013 thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư
số 12/2013/TT-NHNN sửa đổi một số điều trong Thông tư 02.Theo đó, ngày áp
dụng Thông tư 02/2013/TT-NHNN sẽ được gia hạn thêm 1 năm và bắt đầu có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 01/06/2014.
I.3.2. Phân loại nợ xấu
Nợ xấu được phân vào ba nhóm với khả năng thu hồi giảm dần:
• Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày.
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi
đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
Nợ xấu thuộc nhóm này được coi là các khoản nợ có khả năng thu hồi cao
nhất. Ngân hàng sẽ trích lập một tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho nợ xấu nhóm này là 20%
dư nợ của nhóm.
• Nhóm 4 (nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2
Nợ xấu thuộc nhóm này được đánh giá có khả năng thu hồi thấp hơn so với
các khoản nợ nhóm 3. Các khoản nợ này được xếp vào những khoản nợ mà ngân
hàng có sự nghi ngờ về khả năng trả nợ.Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro cho nợ xấu
thuộc nhóm này là 50% tổng dư nợ của nhóm.

• Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Các khoản nợ được cơ cấu lại thời han trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả
nợ được cơ cấu lại lần hai.
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
Khả năng thu hồi nợ của nhóm này được coi bằng 0, do vậy tỷ lệ trích lập dự
phòng rủi ro tương ứng là 100% tổng dư nợ của nhóm.
Còn riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý thì được trích
lập dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng.
I.3.3. Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của ngân hàng thương mại
• Tổng số nợ xấu: đây là chỉ tiêu phản ánh chung giá trị tuyệt đối của toàn bộ khoản
nợ xấu của ngân hàng. Chỉ tiêu này chưa cho biết trong tổng số dư nợ đó, nợ không
có khả năng thu hồi là bao nhiêu và nợ có khả năng thu hồi là bao nhiêu. Và như
vậy, nó chưa phản ánh một cách chính xác số nợ cho vay không có khả năng thu
hồi của ngân hàng.
• Tỷ lệ giữa giá trị các khoản nợ xấu/tổng dư nợ: chỉ tiêu này phản ánh mức độ rủi ro
tín dụng của ngân hàng. Cho biết cứ 100 đơn vị tiền tệ khi ngân hàng cho vay thì
có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà ngân hàng xác định khó có khả năng thu hồi hoặc
không thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định. Tỷ lệ này càng cao thì khả
năng rủi ro càng cao. Nếu như tỷ lệ này lớn hơn 7% thì ngân hàng coi như là có
chất lượng tín dụng yếu kém, nếu nhỏ hơn 5% thì được coi là có chất lượng tín
dụng tốt, các khoản cho vay an toàn. Tuy nhiên, các con số được sử dụng để tính
chỉ số này được đo tại một thời điểm nhất định nên chưa phản ánh hoàn toàn chính
xác chất lượng tín dụng của ngân hàng.
• Tỷ lệ nợ khó đòi/tổng dư nợ và nợ khó đòi/nợ xấu: các chỉ số này phản ánh chỉ tiêu
tương đối của nợ khó đòi – một cấu phần quan trọng của nợ xấu. Đây là những chỉ
tiêu phản ánh khá trung thực về thực tế và nguy cơ mất vốn của ngân hàng. Tỷ lệ
này càng lớn thì khả năng rủi ro mất vốn của ngân hàng càng cao.
• Tỷ lệ dự phòng rủi ro/nợ xấu: tỷ lệ này cho biết quỹ dự phòng rủi ro có khả năng
bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ xấu khi chúng chuyển thành các khoản nợ mất

vốn. Nếu tỷ lệ này càng cao thì khả năng quỹ dự phòng rủi ro đủ bù đắp các thiệt
hại có thể xảy ra trong quá trình haotj động kinh doanh của ngân hàng càng cao và
ngược lại.
Ngoài ra, tùy theo tình hình cụ thể của mỗi ngân hàng hoặc quốc gia trong
từng thời kỳ mà có thể thêm các chỉ tiêu khác để đánh giá, so sánh thực trạng nợ
xấu nhằm xây dựng các biện pháp xử lý hợp lý.
I.3.4. Tác động của nợ xấu
• Tác động của nợ xấu đến hoạt động ngân hàng thương mại
- Nợ xấu làm giảm uy tín ngân hàng
- Nợ xấu ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng
- Nợ xấu làm giảm lợi nhuận của ngân hàng
- Nợ xấu có thể làm phá sản ngân hàng
- Nợ xấu làm giảm khả năng hội nhập
• Tác động của nợ xấu đến nền kinh tế
Nhìn chung, nợ xấu có những tác động chính ảnh hưởng trực tiếp đến nền
kinh tế và làm ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng thương mại như: Làm
chậm quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của các tổ chức tín dụng; Chi phí phát
sinh do nợ xấu là rất lớn; Nợ xấu hạn chế khả năng mở rộng và tăng trưởng tín
dụng, khả năng kinh doanh của các tổ chức tín dụng; Nợ xấu ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh của ngân hàng và ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế bởi
khả năng khai thác và đáp ứng vốn, dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế.
II. NỢ XẤU CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2010 – 2013
II.1. Thực trạng nợ xấu của các ngân hàng thương mại giai đoạn 2010 – 2013
Nợ xấu được ví như “cục máu đông” có thể gây tắc nghẽn hoạt động của hệ
thống ngân hàng và cản trở sự phát triển của nền kinh tế. Nợ xấu đã và đang tác
động tiêu cực đến việc lưu thông dòng vốn vào nền kinh tế và tính an toàn, hiệu
quả kinh doanh của chính các ngân hàng.Mặc dù đã có nhiều ý kiến trao đổi về nợ
xấu tại các ngân hàng thương mại (NHTM), nhưng cho đến nay, vẫn chưa có tiếng
nói thống nhất nợ xấu về tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM Việt Nam.

2.1.1. Tình hình nợ xấu của các NHTM trong giai đoạn 2010-2011
Theo thống kê của Ngân Hàng Nhà nước, cuối năm 2010, tỷ lệ nợ xấu trên
tổng dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng là 2,5%, chưa bao gồm dư nợ của hệ
thống ngân hàng đối với Tập Đoàn Công Nghiệp và Tàu Thủy Việt Nam
(Vinashin). Nếu tính thêm cả dư nợ đối với Vinashin thì tỷ lệ nợ xấu cuối năm
2010 sẽ là 3,2% tổng dư nợ cho vay. Trong đó nợ xấu từ phía các doanh nghiệp
quốc doanh chiếm đến 60% tổng số nợ xấu.
Đến cuối năm 2011, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ lại tiếp tục tăng lên đến
mức 3,3%. Hầu hết các ngân hàng niêm yết đều có tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh so với
năm 2010. Cụ thể là tính đến 30/9/2011:
• Tổng nợ xấu của 8 NHTM niêm yết là 15.018 tỷ đồng.
• Nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) chiếm 55,22% tương ứng với số tiền cụ thể
là 8.293 tỷ đồng.
Tình hình gia tăng tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của 8 ngân hàng niêm yết
được thể hiện qua biểu đồ sau:
Hình 1: Biểu đồ tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của các NHTM tại 30/09/2011
(Nguồn: Theo CafeF/TTVN/BCTC các NHTM)
CTG: Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam
VCB: Ngân Hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam
STB: Ngân Hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
EIB: Ngân Hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam
ACB: Ngân Hàng TMCP Á Châu
SHB: Ngân Hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội
HBB: Ngân Hàng TMCP Nhà Hà Nội
NVB: Ngân Hàng TMCP Nam Việt
Biểu đồ trên cho thấy tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng nêu trên đều tăng trong
giai đoạn 2010-2011. Trong năm 2011, phần lớn các ngân hàng trên có tỷ lệ nợ
nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) chiếm tỷ trọng cao nhất trong 3 nhóm nợ thuộc
nợ xấu. Cũng trong năm 2011, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của Ngân Hàng TMCP
Ngoại Thương Việt Nam (VCB) là cao nhất (3,4%), cao hơn cả tỷ lệ nợ xấu bình

quân của cả hệ thống ngân hàng (3,3%) ở cùng thời điểm. Bên cạnh đó, Ngân
Hàng TMCP Nhà Hà Nội, Ngân Hàng TMCP Nam Việt cũng có tỷ lệ nợ xấu trên
tổng dư nợ khá cao (2,8%). Bên cạnh những ngân hàng đang lo ngại về tỷ lệ nợ
xấu khá cao, thì cũng có những ngân hàng với tỷ lệ nợ xấu thấp như Ngân Hàng
TMCP Sài Gòn Thương Tín (0,6%). Dù tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng năm 2011
không đồng đều nhau, nhưng nhìn chung các tỷ lệ nợ xấu đều tăng so với năm
2010.
2.1.2. Tình hình nợ xấu của các NHTM trong giai đoạn 2011-2012
Ngân hàng Nhà nước cho biết, đến thời điểm cuối tháng 10/2012, nợ xấu của
toàn hệ thống chiếm khoảng 8,8 - 10% trên tổng dư nợ và tốc độ tăng nợ xấu đã
chậm lại kể từ sau tháng 6. Còn theo báo cáo tài chính của các ngân hàng thương
mại, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng đều tăng trong 9 tháng qua. Nợ xấu đặc biệt
tăng mạnh tại các ngân hàng như Vietcombank tăng 1,21%, ACB tăng 1,2%,
Sacombank tăng 0,83%, BaoVietBank tăng 1,57%, NaviBank tăng 1,05%. Tuy
nhiên, một số ngân hàng vẫn giữ được tốc độ nợ xấu tăng không quá mạnh, như ở
Techcombank chỉ tăng 0,12%, KienLongBank 0,01%. Riêng ngân hàng PGBank
giảm được nợ xấu từ 3,06% (cuối năm 2011) xuống còn 2,96%. Cụ thể, tỷ lệ nợ
xấu 9 tháng đầu năm của một số các NHTM được thể hiện qua biểu đồ sau:
Hình 2: Biểu đồ tỷ lệ nợ xấu của một số ngân hàng qua 9 tháng đầu năm 2012
(Nguồn: Theo CafeF/TTVN/BCTC các NHTM)
Đáng lưu ý trong bức tranh nợ xấu của các ngân hàng thời gian qua là nhóm
nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) mà ngân hàng phải trích dự phòng rủi ro
100%. Theo báo cáo tài chính, cuối tháng 10/2012 tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn
trên dư nợ cho vay khách hàng của BaoVietBank đang ở mức cao nhất với 2,93%,
tiếp đến là của LienVietPostBank với 1,46%; của Vietcombank là 1,42%; của
BIDV là 1,22%; của MB là 1,07%; của KienLongBank là 1,36%. Nợ có khả năng
mất vốn của các ngân hàng khác trong khi đó cũng xấp xỉ mức 1% như Vietinbank
là 0,86%; của Techcombank 0,99%; của ACB là 0,81%; PGBank 0,83%
Hình 3: Biểu đồ tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn trên tổng dư nợ cho vay khách hàng
tại thời điểm 30/9/2012

(Nguồn: Theo CafeF/TTVN/BCTC các NHTM)
Về con số cụ thể, ngân hàng BIDV có khoản nợ có khả năng mất vốn cao
nhất, lên tới 3.984,4 tỷ đồng tại thời điểm cuối tháng 9/2012; của Vietcombank
cũng hơn 3.200 tỷ đồng; của Vietinbank là 2.578 tỷ đồng. Ngân hàng ACB hiện có
829,1 tỷ đồng nợ có khả năng mất vốn; MB có 629,4 tỷ đồng; Techcombank là
610,8 tỷ đồng So với thời điểm cuối năm 2011, nợ có khả năng mất vốn của các
ngân hàng đặc biệt tăng rất mạnh, ngoại trừ KienLongBank giảm gần 4%. Có thể
kể đến một số cái tên như LienVietPostBank tăng đến 53 lần so với cuối 2011 (từ
4,48 tỷ đồng lên 243,8 tỷ đồng); của BaoVietBank tăng hơn 6 lần từ 23,5 tỷ đồng
lên hơn 170 tỷ đồng. Một số khác cũng có mức tăng nợ nhóm 5 khá mạnh như tại
Techcombank là 1,7 lần; của ACB gần 1,8 lần; Sacombank hơn 1,5 lần, Vietinbank
1,82 lần Ngân hàng Vietcombank tăng nợ nhóm 5 thêm 41%; của MB tăng 33,5%;
của Navibank tăng 79%.
Qua đó, có thể thấy tốc độ nợ xấu vẫn tăng chóng mặt so với các năm trước.
Năm 2008 tỷ lệ nợ xấu chỉ là 2,17%; năm 2009 là 2,2%; 2010 là 2,14% và 2011 là
3,3% trên tổng dư nợ thì đến năm 2012 tỷ lệ này đã tăng gần gấp đôi và hiện đạt
mức 6% (theo công bố của Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình tại thời điểm đầu
năm 2013).
Hình 4: Biểu đồ thể hiện sự tăng trưởng của tỷ lệ nợ xấu tính đến cuối năm 2012
(Nguồn: Theo TTVN/BCTC các NHTM)
Trong đó, tồn tại những ngân hàng có nợ xấu rất cao, điển hình như
Agribank với nợ xấu chiếm 5,8% trên tổng dư nợ và con số tuyệt đối là 27.803 tỷ
đồng. Nợ xấu của Agribank cũng tương đương với tổng nợ xấu của Vietcombank,
BIDV, Vietinbank, SHB và ACB cộng lại. Ngân hàng SHB năm 2012 có tỷ lệ nợ
xấu cũng rất cao, tới 8,53% tương đương 4.844 tỷ đồng do ngân hàng này phải
gánh thêm nợ xấu sau khi hợp nhất với Habubank.
2.1.3. Tình hình nợ xấu của các NHTM trong giai đoạn 2012-2013
Bước sang năm 2013, tỷ lệ nợ xấu vẫn tiếp tục tăng cao, chạm mức 4,67%
vào tháng 4/2013. Tuy nhiên, con số mà NHNN vừa cập nhật tỷ lệ nợ xấu trong
tổng dư nợ tín dụng tính đến tháng 6/2013 chỉ còn ở mức 4,46%, giảm đáng kể so

với mức 4,65% tính đến cuối tháng 5/2013.Dữ liệu cập nhật mới nhất cho thấy, nợ
xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) đã giảm tháng thứ 2 liên tiếp với mức đáng
kể
Tuy nhiên, con số trên được NHNN cập nhật trên cơ sở báo cáo định kỳ của
các TCTD. Còn con số qua giám sát từ xa của cơ quan này, thường cao hơn nhiều,
và hiện chưa có công bố chính thức để so sánh. Nhiều chuyên gia kinh tế cũng lo
ngại, con số thực mà các ngân hàng chưa công bố còn cao hơn mức trên không ít.
Vì vậy, trên thực tế, nợ xấu vẫn là vấn đề đáng báo động.
Tỷ lệ nợ xấu của một số các ngân hàng tại thời điểm 6 tháng đầu năm 2013
đã niêm yết:
Tên ngân hàng Tỷ lệ nợ xấu
SHB 9%
Navibank 6.1%
Techcombank 5.28%
ACB 2.99%
Sacombank 2.55%
Vietinbank 2.1%
Vietcombank 2.81%
Eximbank 1.49%
MB 2.44%
Như vậy, theo báo cáo của các ngân hàng, nợ xấu có vẻ đã giảm khi hầu hết
ngân hàng đều có tỷ lệ nợ xấu dưới mức 3%- mức được xem là an toàn, nằm trong
tầm kiểm soát. Tuy nhiên, theo tính toán, các ngân hàng này chiếm khoảng 75%
tổng dư nợ của toàn hệ thống. Điều này cho thấy, các khoản nợ xấu vẫn đáng lo
ngại, đặc biệt là sự gia tăng liên tục của nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn). Tại
thời điểm 30/06/2013, nợ nhóm 5 đã chiếm gần 50% tổng nợ xấu của các ngân
hàng này, tức là chỉ tính riêng với nhóm các ngân hàng niêm yết đã lên tới hơn 14
nghìn tỷ đồng.
Trong khi đó, kết quả khảo sát mới đây của Vụ Dự báo thống kê tiền tệ,
NHNN cho thấy, trong số 124 TCTD tham gia khảo sát, có khoảng 30 TCTD khai

báo tỷ lệ nợ xấu ở mức trên 3%, chiếm khoảng 1/4 số lượng TCTD hiện nay. Báo
cáo cũng cho thấy, có tới trên 50% TCTD dự kiến tỷ lệ nợ xấu tại thời điểm cuối
năm 2013 sẽ không đổi hoặc tăng so với cuối năm 2012.
• Agribank 'cõng' 1/4 nợ xấu của toàn hệ thống: Đầu tháng 10/2013, sau khi
chính thức bán xong 2.534 tỷ đồng nợ xấu cho Công ty Quản lý và Khai thác Tài
sản Việt Nam (VAMC), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
(Agribank) lần đầu tiên chính thức công bố con số nợ xấu. au khi bán 24 khoản nợ
có giá trị sổ sách trên 2.500 tỷ đồng này cho VAMC, nợ xấu của toàn hệ thống
Agribank giảm 7,56%. Như vậy, có thể ước tính nợ xấu của ngân hàng Agribank là
gần 33.519 tỷ đồng.Trong khi đó, theo số liệu mới nhất từ Ngân hàng Nhà nước,
tính đến hết tháng 7/2013, nợ xấu các nhà băng tự báo cáo là gần 139.000 tỷ đồng.
Như vậy, một mình ông lớn quốc doanh Agribank đang "ôm" tới 25% "cục máu
đông" của toàn hệ thống ngân hàng.Khối nợ xấu tới hơn 33.000 tỷ đồng lớn hơn
gấp nhiều tổng tài sản của hầu hết các ngân hàng quy mô nhỏ tại Việt Nam. Thậm
chí, con số này gấp chục lần vốn điều lệ của một vài nhà băng nhỏ trong hệ thống.
• SHB còn hơn 3.000 tỷ đồng nợ xấu tương ứng với tỷ lệ 4,06%:Theo công bố
báo cáo tài chính hợp nhất quý IV năm 2013 của Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà
Nội (SHB), hiện tại ngân hàng này có 3.103,79 tỷ đồng nợ xấu, tương ứng với tỷ lệ
4,06%, giảm mạnh so với mức 8,51% hồi đầu năm. Đáng lưu ý, trong cơ cấu nợ
của SHB, ngân hàng còn có các khoản nợ chờ xử lý của Vinashin trị giá 1.201,4 tỷ
đồng đến nay vẫn chưa được xử lý.Bên cạnh đó, trong bối cảnh nhiều ngân hàng
giảm mạnh thu nhập lãi thuần, báo cáo hợp nhất cho thấy chỉ tiêu này của SHB vẫn
tăng 349 tỷ đồng, lên 670,8 tỷ đồng.Tuy nhiên các mảng hoạt động trong kỳ đều có
mức lãi giảm mạnh so với cùng kỳ, cụ thể, SHB lỗ từ mua bán chứng khoán đầu tư
gần 4 tỷ đồng; lãi từ hoạt động dịch vụ giảm 63,6% xuống 12 tỷ đồng. Lãi từ hoạt
động khác lao dốc từ 630 tỷ đồng xuống chỉ đạt 11 tỷ đồng.Như vậy, mặc dù chi
phí hoạt động của SHB trong quý IV năm nay giảm 37,7% so với cùng kỳ, nhưng
tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trước dự phòng rủi ro chỉ đạt 219 tỷ
đồng, giảm 52,4% so với cùng kỳ.
• MBBank nợ xấu tăng lên 2.4%: Theo báo cáo tài chính quý 4 và năm 2013 của

Ngân hàng TMCP Quân Đội–MBBank (HOSE: MBB) tỷ lệ nợ xấu tăng từ 1.84%
lên 2.45%, trong đó nợ có khả năng mất vốn cũng tăng 28% lên gần 820 tỷ
đồng.Trong khi đó, thu nhập lãi thuần hợp nhất trong năm 2013 của ngân hàng đạt
6,124 tỷ đồng, giảm 7% so với năm trước. Bên cạnh đó, lợi nhuận khác cao gấp đôi
năm trước và đạt 606 tỷ đồng.Lợi nhuận trước thuế của ngân hàng đạt 3,014 tỷ
đồng, giảm 2% so với năm trước và tương đương 86% kế hoạch năm (3,523 tỷ
đồng). MBB đạt 2,278 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, giảm 2% so với năm 2012.
• BIDV tỷ lệ nợ xấu chiếm 1,86% trên tổng dư nợ: Theo báo cáo tài chính hợp
nhất quý 4 và năm 2013 do Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
(BIDV) vừa công bố, tỷ lệ nợ xấu chiếm 1,86% trên tổng dư nợ. BIDV có nợ cho
vay được khoanh và nợ chờ xử lý 1.378 tỷ đồng. Tổng tài sản tăng 63.727 tỷ đồng,
tương đương 13,1%.Theo đó, năm 2013, ngân hàng đạt lợi nhuận trước thuế 5.311
tỷ đồng và sau thuế 4.065 tỷ, tăng lần lượt 22,8% và 23,9% so với năm 2012.
Trong các hoạt động, thu nhập lãi thuần quý 4 đạt 4.199 tỷ đồng, tăng 13% so với
cùng kỳ và cả năm tăng 6,5% đạt 14.069 tỷ đồng.Tổng lợi nhuận thuần từ hoạt
động kinh doanh trước dự phòng rủi ro của BIDV năm 2013 đạt 11.846 tỷ đồng,
tăng 19,5% so với năm 2012, riêng quý 4 tăng 10,3% đạt 3.764 tỷ đồng.
Cuối năm 2013, theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu của
toàn hệ thống giảm mạnh từ mức 4,73% cuối tháng 10/2013 xuống còn 3,63% vào
cuối năm 2013. Nếu tính toán một cách thận trọng, gộp cả các khoản nợ dưới
chuẩn được cơ cấu lại theo Quyết định 780, Ngân hàng Nhà nước ước tính tỷ lệ nợ
xấu cũng chỉ khoảng 9%.
II.2. Nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng nợ xấu
II.2.1. Nguyên nhân khách quan
• Việc cắt giảm đầu tư công đột ngột năm 2009 làm cho các doanh nghiệp trong
ngành xây dựng, vật liệu xây dựng, công nghiệp điêu đứng về đầu ra. Ngân hàng
hạn chế cho vay, đưa ra lãi suất vay quá cao… dẫn đến tình trạng phá sản hàng loạt
làm phát sinh nợ quá hạn tăng.
• Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã và đang chủ trương minh bạch hóa quan hệ tín
dụng, thông tin tài chính. Giải ngân trên 100trđ phải chuyển khoản qua ngân hàng

theo thông tư số 09/2012/TT-NHNN ngày 10/4/2012 Quy định việc sử dụng các
phương tiện thanh toán để giải ngân vốn vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài đối với khách hàng.
• Chu kỳ kinh tế đang trong giai đoạn đáy của suy thoái và có dạng hình chữ U trong
khi sức chịu đựng của nhiều doanh nghiệp có hạn và nhiều doanh nghiệp phá sản.
• Lạm phát cao, sức mua thấp, tồn kho cao làm ứ đọng vốn.
II.2.2. Nguyên nhân chủ quan
• Nguyên nhân từ phía Ngân hàng
- Nới lỏng điều kiện phê duyệt tín dụng: Cạnh tranh thu hút khách hàng buộc các
ngân hang phải nới lỏng điều kiện tín dụng: tỷ lệ cho vay/ trị giá tài sản đảm bảo,
tín chấp, cầm cố hàng hóa không giám sát chặt món vay; tỷ lệ cho vay/nhu cầu
vốn…cụ thể: Áp lực tăng trưởng nóng buộc một số ngân hàng mới trên địa bàn
như: SHB, PGBank, Seabank, MBank…nới lỏng điều kiện tín dụng để cạnh tranh
thu hút khách hàng về trong các năm 2008, 2009 và kết quả là sau 1 năm tỷ lệ nợ
xấu tăng đột biến.
- Khâu thẩm định hời hợt: Trừ một số ít khách hàng có phát sinh nợ xấu bắt nguồn
từ nguyên nhân khách quan như: kinh doanh thua lỗ, công nợ khó đòi, khó khăn do
thay đổi cơ chế, thay đổi chính sách tăng trưởng của Nhà nước thì hầu hết các
khoản nợ xấu bắt nguồn từ khâu thẩm định quá hời hợt của cán bộ tín dụng. Do
không xác định được quy mô kinh doanh thực sự của khách hàng, khả năng cạnh
tranh của khách hàng đối với ngành nghề mà khách hàng đang kinh doanh, không
xác định được nguồn thu của khách hàng từ đâu và về đâu để có thể đưa ra một
mức cho vay và cách thức giám sát hợp lý. Cán bộ ngân hàng đôi khi còn hời hợt
trong phần kiểm tra sử dụng vốn, dẫn đến không phát hiện kịp thời những khó
khăn của khách hàng ngay từ khi vừa nhen nhóm. Không ít khách hàng, khi được
kiểm tra về việc sử dụng vốn sau khi vay cho biết một phần vốn vay thực sự vào
kinh doanh, phần khác dùng cho mục đích sửa nhà, mua sắm vật dụng, thậm chí là
tiêu xài cá nhân Đến khi phần vốn đầu tư kinh doanh thua lỗ, không còn nguồn
khác để trả nợ ngân hàng, thế là phát sinh nợ xấu. Mặt khác, tư cách khách hàng là
yếu tố quan trọng gắn liền với thiện chí hoàn trả tiền vay của khách hàng thường bị

lãng quên trong quá trình thẩm định ban đầu.
- Nguồn cung cấp thông tin hạn chế: Thực sự, ngoài những thông tin do khách hàng
cung cấp, cán bộ tín dụng cũng gặp nhiều khó khăn với các kênh thông tin về
khách hàng. Rất khó kiểm chứng được toàn bộ những thông tin mà khách hàng
cung cấp cho ngân hàng. Tâm lý một số cán bộ muốn đẩy phần rủi ro cho ngân
hàng khác bằng cách chỉ cung cấp thông tin tốt về khách hàng đó khi ngân hàng
bạn hỏi thăm. Ngân hàng vẫn chưa có sự liên thông với các cơ quan khác như
Thuế, Hải quan, để kiểm chứng những thông tin tài chính do khách hàng cung
cấp. Trừ những doanh nghiệp lớn, các công ty cổ phần do yêu cầu phải kiểm toán
cáo báo cáo tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hệ thống kế toán của
chúng ta còn nhiều bất cập và chưa hoàn toàn thống nhất với các chuẩn mực của hệ
thống kế toán thế giới. Thậm chí còn có doanh nghiệp sử dụng đồng thời hai hệ
thống kế toán, một luôn lỗ hay lợi nhuận rất thấp để đối phó với cơ quan thuế và
một rất đẹp đẽ khi đặt quan hệ giao dịch với ngân hàng.
- Khâu quản trị rủi ro: của một số ngân hàng, đặc biệt là khâu định hướng khách
hàng mục tiêu, kiểm tra kiểm soát nội bộ cũng ảnh hưởng đến nợ xấu phát sinh
tăng hoặc giảm.Sự lơi lỏng trong công tác thanh tra, kiểm tra trước, trong và sau
khi cho vay làm cho ngân hàng không phát hiện kịp thời vốn vay đã sử dụng sai
mục đích.
- Chạy theo thành tích số lượng, chỉ tiêu kế hoạch mà xem nhẹ chất lượng tín dụng,
quá tin vào phương án kinh doanh của khách hàng.
• Nguyên nhân từ phía khách hàng:
- Phụ thuộc quá nhiều vào vốn vay. Có doanh nghiệp tỷ lệ vay lên đến 80%, 90%
tổng tài sản dẫn đến khi lãi suất cho vay biến động tăng ngoài dự kiến ->lợi nhuận
kinh doanh không đủ trả lãi vay.
- Đầu tư ngoài ngành, kể cả những ngành không liên quan đến hoạt động chính dẫn
đến phân tán nguồn lực đặc biệt là vốn dẫn đến thiếu hụt vốn, sản xuất ngưng trệ
dẫn đến phá sản.
- Năng lực quản lý kinh doanh hạn chế; nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nhiều lĩnh
vực vượt quá khả năng quản lý; qui mô kinh doanh phình to so với tư duy quản lý

là nguyên nhân dẫn đến phá sản của các phương án kinh doanh khả thi lẽ ra nó
phải thành công trong thực tế.
- Tình hình tài chính của doanh nghiệp không minh bạch, yếu kém. Qui mô vốn chủ
sở hữu nhỏ bé, cơ cấu tài chính thiếu cân đối; công tác quản lý tài chính - kế toán
tùy tiện, mang tính đối phó dẫn đến thông tin ngân hàng có được khi lập các bảng
phân tích tài chính, đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp không chính xác,
chỉ hình thức, không thực tế, sai lệch quá nhiều và rủi ro xảy ra là đương nhiên.
III. GIẢI PHÁP
• Chấp hành đúng quy trình cho vay: Thực hiện đúng quy trình cho vay, thường
xuyên cập nhật thông tin về khách hàng, thực hiện việc định kỳ hạn nợ chính xác,
phù hợp với chu kỳ sản xuất của khách hàng, thực hiện việc đánh giá, phân loại nợ
để định hướng mức độ rủi ro và phải thực hiện ngay khi xem xét cho vay, thực hiện
tốt công tác chấm điểm, xếp loại khách hàng, thực hiện tốt công tá chấm điểm, xếp
loại khách hàng, kiểm tra giám sát sau khi cho vay. Bên cạnh đó, các ngân hàng
phải xác định số lượng khách hàng và dư nợ phù hợp với trình độ, kinh nghiệm và
khả năng quản lý của từng cán bộ tín dụng để thực hiện tốt việc kiểm tra trước,
trong và sau khi cho vay.
• Đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng: Việc đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng sẽ giúp cho các ngân hàng phân tán và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh
doanh. Tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, doanh thu từ hoạt động tín dụng
luôn chiếm tỷ trọng cao cho dù tín dụng là lĩnh vực chịu nhiều rủi ro. Vì vậy, việc
thực hiện đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ bên cạnh sản phẩm tín dụng truyền
thống sẽ giúp cho các ngân hàng phân tán và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động
kinh doanh. Trong thực tế cũng chứng minh rõ, thu dịch vụ có tính chất ổn định
cao, đảm bảo an toàn trong hoạt động và hiệu quả mang lại cao nhất.
• Nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ tín dụng, cán bộ quản lý: Yếu tố
con người là yếu tố quan trọng nhất trong sự thành công. Vì vậy, để hạn chế rủi ro
trong hoạt động tín dụng cần phải có đội ngũ cán bộ tín dụng có phẩm chất, năng
lực công tác và tinh thần trách nhiệm, tận tụy với công việc.
• Giáo dục phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ: Thường xuyên quan tâm đến

việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ tín dụng.
Một người có đạo đức tốt, thái độ hành xử đúng mức sẽ rất cân nhắc trong việc giải
quyết cho vay trên cơ sở đầy đủ những thủ tục quy định và dự án có hiệu quả.
• Tăng cường, duy trì công tác kiểm ta, giám sát và kiểm tra chuyên đề đối với hoạt
động tín dụng: Thường xuyên thực hiện kiểm tra, giám sát việc chấp hành quy
trình, thủ tục cho vay, kịp thời phát hiện các tồn tại, sai phạm, các lỗ hổng trong
hoạt động tín dụng để đề ra các giải pháp chấn chỉnh phù hợp.
• Tích cực theo dõi thu hồi nợ gốc, nợ lãi: Khi khoản vay đã được giải ngân thì cán
bộ tín dụng phải có trách nhiệm kiểm tra định kỳ việc thực hiện trả nợ, đôn đốc
việc trả nợ khi khoản nợ đó quá hạn theo kế hoạch trả nợ mà không có sự điều
chỉnh.

×