Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của Biến đổi khí hậu và nước biển dâng đến khả năng đáp ứng yêu cầu tưới của Hệ thống thủy nông Hải Hậu, tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.45 MB, 109 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Biến đổi khí hậu được coi là có tác động mạnh mẽ nhất đối với hệ thống
công trình thủy lợi. Các nhà khoa học cho rằng các hiện tượng khí hậu cực đoan
với tần suất và cường độ ngày càng tăng đã xảy ra trên hầu hết các vùng miền
của Việt Nam đều do nguyên nhân của Biến đổi khí hậu. Hiện tượng tăng nhiệt
độ toàn cầu có tác động lớn đối với sự bốc hơi, điều đó ảnh hưởng đến lưu trữ
nước trong khí quyển và do đó cũng ảnh hưởng đến cường độ, tần suất và cường
độ mưa cũng như sự phân phối mưa theo mùa và vùng địa lý cũng như sự biến
thiên hàng năm của nó. Do đó trong quá trình ra quyết định, các nhà quản lý
thủy lợi đặc biệt phải đối mặt với thách thức trong việc kết hợp tính không chắc
chắn các tác động biến thiên của khí hậu và biến đổi khí hậu để thích ứng. Điểm
mấu chốt là các vấn đề thực tế họ sẽ phải đối mặt (hiện tại và tương lai) trong
lĩnh vực thủy lợi phục vụ cho nông nghiệp. Hiện tượng biến đổi khí hậu có thể
hiểu được bằng cách đánh giá hiện trạng khí hậu (quá khứ đến hiện tại) để xem
xét các tác động của nó đến sự phát triển trong tương lai, bao gồm cả những thay
đổi từ từ và đột ngột đến hệ thống thủy lợi.
Hệ thống thuỷ nông Hải Hậu tỉnh Nam Định đã được xây dựng từ lâu, trải
qua nhiều năm khai thác đến nay một số các công trình này đã bị xuống cấp, bị
hư hỏng nhưng chưa được sửa chữa, nâng cấp kịp thời, không đáp ứng được yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương trong hệ thống.
Cũng như nhiều hệ thống thuỷ lợi khác ở khu vực Bắc Bộ, trên hệ thống
thủy nông Hải Hậu đang có sự chuyển dịch rất mạnh về cơ cấu cây trồng, nhu
cầu sử dụng của các ngành tăng mạnh, phải phục vụ thêm các nhu cầu cấp nước
phục vụ các ngành kinh tế khác mà trước kia chưa tính toán đến Trong hệ
thống đang tồn tại mâu thuẫn giữa nhu cầu tưới và khả năng đáp ứng của các
công trình thuỷ lợi đã có. Do có địa hình có diện tích tiếp xúc trực tiếp với biển
lớn, nên HTTN Hải Hậu là một trong những vùng chịu tác động rất mạnh của
2
biến đổi khí hậu toàn cầu. Liên tiếp trong các năm 2003, 2004 và 2008 hệ thống


này bị hạn rất nặng nề gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống
của nhân dân.
Hiện nay, có rất ít nghiên cứu chi tiết về ảnh hưởng của BĐKH tới nhu
cầu nước nói chung và nhu cầu tưới cho hệ thống thủy nông Hải Hậu tỉnh Nam
Định nói riêng. Do vậy, nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nước biển
dâng đến khả năng tưới của hệ thống thủy nông Hải Hậu là rất cần thiết.
Chính vì vậy, đề tài : “Nghiên cứu ảnh hưởng của Biến đổi khí hậu và
nước biển dâng đến khả năng đáp ứng yêu cầu tưới của Hệ thống thủy nông
Hải Hậu, tỉnh Nam Định” sẽ tập trung giải quyết được một phần các vấn đề
nêu trên. Việc nghiên cứu ảnh hưởng của BĐKH tới nhu cầu cấp nước có ý
nghĩa rất lớn đối với khu vực hệ thống thủy nông Hải Hậu. Với kết quả của đề
tài, chúng ta sẽ có biện pháp, kế hoạch cụ thể trong việc quy hoạch, quản lý, xây
dựng, điều hành hệ thống công trình thủy lợi, chủ động thích ứng trước những
ảnh hưởng của BĐKH hiện nay cũng như các kịch bản BĐKH trong tương lai.
2. Mục tiêu của đề tài
- Nghiên cứu ảnh hưởng của Biến đổi khí hậu, nước biển dâng (theo kịch
bản Biến đổi khí hậu) đến khả năng đáp ứng nhu cầu tưới của Hệ thống thủy
nông Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực tưới cho hệ thống thủy nông
Hải Hậu, tỉnh Nam Định trong điều kiện Biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
3. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cách tiếp cận
- Tiếp cận lịch sử, kế thừa có bổ sung: Tiếp cận lịch sử là cách tiếp cận
truyền thống của hầu hết các ngành khoa học. Một phần ý nghĩa của cách tiếp
cận này là nhìn vào quá khứ, để dự báo tương lai qua đó xác định được các mục
tiêu cần hướng tới trong nghiên cứu khoa học.
3
- Tiếp cận theo hướng đa ngành, đa mục tiêu: Hướng nghiên cứu này xem xét
các đối tượng nghiên cứu trong một hệ thống quan hệ phức tạp vì thế đề cập đến rất
nhiều đối tượng khác nhau như nông nghiệp, thủy sản, du lịch, trồng trọt, v.v.

- Tiếp cận đáp ứng nhu cầu: Là cách tiếp cận dựa trên nhu cầu sử dụng
nước hoặc định mức sử dụng nước của các đối tượng dùng nước, qua đó xây
dựng các giải pháp cấp nước tối ưu cho các đối tượng dùng nước.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra hiện trạng, thu thập các số liệu, tài liệu;
- Phương pháp thống kê; phân tích tổng hợp
- Phương pháp kế thừa.
- Phương pháp mô hình thủy văn, thủy lực
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống thủy nông Hải Hậu bao gồm địa phận huyện Hải Hậu và một
phần thuộc huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập chung nghiên cứu, đánh giá hiện trạng của hệ thống thủy
nông Hải Hậu tỉnh Nam Định, nghiên cứu hưởng của biến đổi khí hậu ứng với
kịch bản trung bình B2 những năm 2030 và 2050 ảnh hưởng đến khả năng đáp
ứng yêu cầu tưới qua đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao khả năng cấp
nước cho hệ thống.

4
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ KHU VỰC
NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về Biến đổi khí hậu trên thế giới và Việt Nam
1.1.1 Khái niệm về Biến đổi khí hậu
Khí hậu của trái đất luôn luôn thay đổi. Trước đây, sự thay đổi này mang
tính tự nhiên. Kể từ đầu thế kỷ 19 thuật ngữ biến đổi khí hậu bắt đầu được sử
dụng khi nói đến những sự thay đổi khí hậu được so sánh tại thời điểm nói đến
và những dự báo trong vòng khoảng 80 năm sau đó mà nguyên nhân thay đổi
chủ yếu là do những hoạt động của con người gây ra hơn là những thay đổi tự
nhiên trong bầu khí quyển.

Theo định nghĩa của CTMTQG về Ứng phó với BĐKH thì Biến đổi khí
hậu: là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình và/hoặc dao động
của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc
dài hơn. Biến đổi khí hậu có thể là do các quá trình tự nhiên bên trong hoặc các
tác động bên ngoài, hoặc do hoạt động của con người làm thay đổi thành phần
của khí quyển hay trong khai thác sử dụng đất
Theo định nghĩa của Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH thì
Biến đổi khí hậu: là sự biến đổi của trạng thái khí hậu do các hoạt động trực
tiếp hay gián tiếp của con người gây ra sự thay đổi thành phần của khí quyển
toàn cầu và nó được thêm vào sự biến đổi khí hậu tự nhiên quan sát được trong
các thời kỳ có thể so sánh được.
Theo IPCC (Ủy ban liên chính phủ về BĐKH) thì Biến đổi khí hậu: đề
cập đến sự thay đổi về trạng thái của khí hậu mà có thể xác định được (ví dụ như
sử dụng các phương pháp thống kê) diễn ra trong một thời kỳ dài, thường là một
thập kỷ hoặc lâu hơn. Biến đổi khí hậu đề cập đến bất cứ biến đổi nào theo thời
gian, có hay không theo sự biến đổi của tự nhiên do hệ quả các hoạt động của
con người.
1.1.2 Biến đổi khí hậu trên thế giới
Biến đổi khí hậu do hiện tượng nhà kính bắt nguồn từ sự phát thải quá
mức vào khí quyển các khí có hiệu ứng nhà kính do các hoạt động kinh tế xã hội
của con người. Theo dự báo của các nhà khoa học nếu như tình hình phát thải
khí nhà kính không giảm thì vào năm 2030 mật độ của khí CO2 trong khí quyển
sẽ tăng gấp đôi so với thời kỳ tiền công nghiệp. Hiệu ứng nhà kính làm nhiệt độ
trái đất tăng lên kéo theo hàng loạt các yếu tố khí hậu khác như: lượng mưa, độ
ẩm, bức xạ thay đổi theo. Theo dự báo, nhiệt độ mặt đất và tầng đối lưu tăng
lên, tại tầng bình lưu nhiệt độ lại giảm, từ độ cao 15÷18 km xuống mặt đất nhiệt
độ tăng lên 1÷40C, từ vĩ độ 500B đến Bắc cực tăng thêm 1 độ, từ vĩ độ 50
0
N đến
5

Nam cực tăng hêm từ 1 ÷ 2
0
C so với vùng vĩ độ thấp. Ở vùng Bắc bán cầu từ vĩ
độ 30
0
B trở lên, về mùa Đông (tháng 10 đến tháng 4 năm sau) nhiệt độ tăng thêm
4 ÷ 12
0
C. Ngược lại vào mùa hè (tháng 6,7,8) chỉ tăng thêm khoảng 2
0
C ở vùng vĩ
độ từ 300B trở xuống, vào các tháng 11, 12 cũng có thể tăng đến 4
0
C.
Mưa trở nên thất thường hơn. Cường độ mưa thay đổi. Những vùng mưa
nhiều, lượng mưa trở nên nhiều hơn, cường độ mưa lớn hơn. Các vùng hạn trở
nên hạn hơn. Khi tăng gấp đôi lượng phát thải khí CO
2
, lượng mưa tăng ở các
vùng vĩ tuyến cao và các vùng nhiệt đới trong tất các các mùa trong năm, còn ở
vĩ tuyến trung bình về mùa đông, lượng mưa tăng 10 ÷ 20%, ở các vùng từ vĩ độ
35 ÷ 55
0
N lượng mưa tăng không đáng kể. Theo các kết quả nghiên cứu cho
thấy bốc hơi thay đổi theo 4 mùa, nếu lượng mưa tăng 10÷30% thì lượng bốc
hơi tăng 10÷15%.
Theo bản Báo cáo về kịch bản phát thải của IPCC, 2000 (SRES,2000) thì
lượng phát thải khí CO2 từ việc đốt cháy nhiên liệu hóa thạch sẽ tăng lên
khoảng 40-110% trong khoảng thời kỳ 2000-2030. Thêm vào đó tương ứng với
kịch bản phát thải của SRES thì trong vòng 2 thập kỷ tới nhiệt độ trái đất sẽ ấm

lên khoảng 0,2
o
C giai đoạn 2090-2099 so với thời kỳ 1980-1999, nhiệt độ sẽ
tăng lên tương ứng với từng kịch bản phát thải khác nhau. Cùng với việc tăng
phát thải làm nhiệt độ toàn cầu ấm dần lên sẽ là nguyên nhân của sự gia tăng
mực nước biển. Mực nước biển theo SRES được dự báo sẽ tăng 0,1-0,2m giai
đoạn 2090-2099 so với thời kỳ 1980-1999
Bảng 1.1: Dự báo nhiệt độ bề mặt toàn cầu đến cuối thế kỷ 21
Kịch bản
Thay đổi nhiệt độ
(
o
C giai đoạn 2090-2099 so với 1980-1999)
Khả năng Trong khoảng
Năm 2000 0,6 0,3-0,9
Kịch bản B1
Kịch bản A1T
Kịch bản B2
Kịch bản A1B
Kịch bản A2
Kịch bản A1F1
1,8
2,4
2,4
2,8
3,4
4,0
1,1-2,9
1,4-3,8
1,4-3,8

1,7-4,4
2,0-5,4
2,4-6,4
Nhiệt độ bề mặt địa cầu ngày càng tăng đối với từng lục địa và cho từng
kịch bản giai đoạn 1900-2100 (Hình 1.1). Có thể thấy rằng sự ấm của bề mặt
6
trái đất trải dải hầu khắp các lục địa, trải dài từ vĩ độ Bắc xuống gần Nam Cực
và Bắc Đại Tây Dương. Các hiện tượng thời tiết cực đoan như nắng nóng kéo
dài, mưa lớn xuất hiện với tần suất và cường độ ngày càng tăng cho thời kỳ
2020-2029 và 2090-2099.

(Nguồn IPCC-AR4, 2007)
Hình 1.1: Hình trái: Nhiệt độ thay đổi theo từng kịch bản của SRES. Hình phải: Dự
báo nhiệt độ thay đổi vào đầu và cuối thế kỷ 21.
1.1.2.1 Tác động của Biến đổi khí hậu tới Tài nguyên nước
Biến đổi về lượng mưa, phân bố mưa theo không gian và thời gian dưới
tác động của biến đổi khí hậu đã có những ảnh hưởng nhất định tới việc cấp
nước cho các ngành dùng nước. Mưa lớn và tuyết rơi xảy ra thường xuyên hơn
tại các vùng vĩ độ cao và trung bình tại bắc Bán cầu trong khi lượng mưa giảm
xuống tại vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Tại nhiều vùng của Châu Âu, miền
Trung Canada, bang California đỉnh lũ chuyển từ mùa xuân sang mùa hè do
giáng thủy chuyển chủ yếu từ tuyết rơi sang mưa. Tại Châu Phi, các lưu vực
sông lớn như sông Nile, hồ Chad và Senegal, lượng nước có thể khai thác giảm
khoảng 40-60%.
Thay đổi về phân bố mưa trong năm sẽ ảnh hưởng đến lượng nước có thể
khai thác được. Kết quả của các mô hình dự báo biến đổi khí hậu cho thấy tại
nhiều khu vực lượng mưa sẽ tập trung hơn vào mùa mưa và giảm vào mùa khô.
Mưa lớn tập trung sẽ làm tăng lượng dòng chảy mặt, giảm lượng nước ngấm
xuống các tầng chứa nước dưới đất. Điều này làm gia tăng lũ lụt vào mùa mưa
và thiếu nước vào mùa khô, trữ lượng nước ngầm sẽ suy giảm. Ngoài ra, khả

năng sinh thủy của lưu vực còn bị gián tiếp ảnh hưởng của biến đổi khí hậu do
thảm phủ thực vật bị thay đổi do điều kiện khí hậu thay đổi.
Chế độ thủy văn tại các vùng khí hậu khô hanh sẽ nhậy cảm hơn so với
các vùng ẩm ướt. Tại các vung khô hanh, một sự thay đổi nhỏ của nhiệt độ và
7
lượng mưa sẽ gây ra biến động lớn về chế độ dòng chảy sông suối. Các vùng
khô hạn và bán khô hạn tại Trung á, Địa Trung Hải, Nam Phi và Châu Đại
Dương sẽ chịu tác động của lượng mưa giảm và bốc hơi tăng. Những vùng có
cao độ mặt đất lớn sẽ có lượng dòng chảy mặt tăng lên do lượng mưa tăng.
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới tài nguyên nước của khu vực nhiệt
đới rất khó dự báo. Các mô hình dự báo biến đổi khí hậu cho kết quả về lượng
mưa và phân bố mưa tại khu vực này rất khác nhau. Theo kết quả dự báo tin cậy
nhất, lượng mưa từ tháng 6 đến tháng 8 tại Nam Á sẽ tăng lên trong khi giảm đi
ở vùng Trung Mỹ.
Sự thay đổi chế độ dòng chảy của sông suối sẽ làm thay đổi nồng độ các
chất dinh dưỡng, lượng oxi hòa tan và các thành phần hóa học khác, do đó, làm
thay đổi chất lượng nước mặt.
Các hồ chứa, đập dâng, trạm bơm và giếng khai thác nước ngầm cũng bị
ảnh hưởng. Mưa lớn kéo theo gia tăng trượt lở đất và xói mòn sẽ làm tăng
lượng phù sa chuyển tới và lắng đọng trong lòng hồ, làm giảm dung tích hữu ích
của các hồ chứa. Chế độ dòng chảy thay đổi cũng làm cho vấn đề điều tiết của
hồ trở lên khó khăn hơn, khả năng cung cấp nước giảm đi. Do trữ lượng nước
ngầm thay đổi, khả năng khai thác của nhiều giếng ngầm cũng bị giảm sút. Chế
độ dòng chảy thay đổi cũng làm cho nhiều công trình không hoạt động đúng
điều kiện thiết kế, năng lực công trình có thể bị suy giảm.
Mực nước biển dâng lên làm việc cấp nước vùng duyên hải trở lên khó
khăn hơn. Các tầng nước ngầm bị xâm nhập mặn khiến nhiều giếng khai thác
nước không hoạt động được. Việc xâm nhập mặn sâu vào cửa sông làm nhiều
công trình thủy lợi bị ảnh hưởng.
Việc suy giảm khả năng cung cấp nước của các công trình sẽ ngày càng

trầm trọng. Ước tính hiện nay 1,7 tỷ người sống trong các khu vực căng thẳng
về nước, dự báo đến năm 2025 con số này sẽ tăng vọt lên tới gần 5 tỷ người.
Các khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất là các vùng khô hạn và bán khô hạn, các
vùng đất thấp, các đồng bằng và các đảo nhỏ. Xung đột về nước giữa các quốc
gia, giữa các vùng, các ngành dùng nước sẽ ngày càng trở lên căng thẳng, đôi
khi dẫn tới xung đột về chính trị hoặc quân sự.
Tác động tới quản lý nguồn nước
BĐKH sẽ làm nguồn nước mặt và nước ngầm tại những vùng khác nhau
thay đổi cả về chất và lượng theo những hướng hướng khác nhau. Băng và tuyết
tan sẽ làm dòng chảy lũ tại những lưu vực vùng ôn đới xảy ra sớm hơn và với
cường độ lớn hơn, gây ảnh hưởng tới khoảng 1/6 dân số thế giới. Cho đến 2050,
sẽ có thêm 260 đến 980 triệu dân chịu tác động của khan hiếm nước làm cho
tổng số dân chịu tác động này lên tới từ 4,3 đến 6,9 tỷ người. Ngược lại, khoảng
8
20 % dân số thế giới sẽ chịu tác động của úng ngập do lũ thượng lưu và nước
biển dâng mà đặc biệt là tại đồng bằng các sông Nile, sông Hằng và sông Mê
Kông. Ngoài ra, những thiệt hại do nguồn nước gây ra còn thể hiện ở những thay
đổi về chất lượng nước như xâm nhập mặn, ô nhiễm lý hoá tính, ô nhiễm nhiệt.
Những thay đổi trên sẽ là những thách thức lớn cho lĩnh vực quản lý
nước, lĩnh vực được coi là chìa khoá trong ứng phó với BĐKH (UNFCCC,
2007; Op. cit., 2007). Những giải pháp thích ứng trong quản lý nước tập chung
vào nâng cao hiệu quả sử dụng nước (sản lượng nông sản do một đơn vị nước
tưới mang lại) đối với những vùng khan hiếm nước; bảo vệ tài sản và tiêu thoát
nước đối với vùng có nguy cơ bị úng ngập nặng. Các giải pháp này đề cập đến
tất cả các qui mô (từ mặt ruộng tới liên lưu vực - Transboundary) cũng như các
hoạt động liên quan tới quản lý nước (phát triển cơ sở hạ tầng, bảo vệ nguồn
nước và phân phối nước). Tuy nhiên, vấn đề cạnh tranh về nguồn nước giữa
nông nghiệp và những đối tượng sử nhu cầu nước phi nông nghiệp cần được
quan tâm trên diện rộng. Các giải pháp ứng phó như Quản lý tổng hợp nguồn
nước (Intergrated Water Management), quản lý lưu vực sông (River Basin

Water Management) cần được áp dụng một cách linh hoạt sao cho phù hợp với
từng điều kiện kinh tế-xã hội cụ thể, tránh tình trạng ứng sử theo trào lưu.
Tác động đến thiên tai
- Biến đổi khí hậu sẽ dẫn đến các hiện tượng cực hạn về thời tiết, đặc biệt
là các đợt nắng nóng gay gắt gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người cũng như
cây trồng và vật nuôi.
- Nhiệt độ trái đất nóng lên sẽ đẩy nhanh chu trình thủy văn, các trận mưa
lớn diễn ra thường xuyên hơn, cường độ mạnh hơn và sẽ gây ra lũ lụt tại nhiều
vùng trên thế giới. Cùng với lũ lụt, mưa lớn sẽ làm gia tăng xói mòn, trượt lở
đất, lũ bùn cát. Lượng dòng chảy lũ tăng lên sẽ làm giảm lượng nước có thể khai
thác cho tưới tiêu và các ngành dùng nước khác. Mật độ dông, bão tại các vùng
nhiệt đới sẽ tăng lên, đe dọa tới tính mạng và sinh hoạt của con người, cơ sở hạ
tầng, các hoạt động sản xuất, phá hủy các hệ sinh thái.
- Phân bố các khu vực khí hậu sẽ có những biến động. Mặc dù tập trung ở
khu vực Nam Thái Bình Dương, hiện tượng ENSO sẽ ảnh hưởng đến thời tiết và
khí hậu tại hầu hết các quốc gia nhiệt đới. Biến đổi khí hậu làm trầm trọng hơn
các đợt hạn hán và lũ lụt do El Nino gây ra. Tại khu vực nhiệt đới của Châu á,
biến đổi lượng mưa giữa các năm sẽ tăng lên làm hạn hán và lũ lụt xảy ra
thường xuyên hơn.
Tác động đến môi trường và sức khoẻ cộng đồng
BĐKH gây tác động trực tiếp (các thảm hoạ tự nhiên do hiện tượng khí
hậu cực đoan gây ra) và gián tiếp (an ninh lương thực, an toàn thực phẩm, khả
9
năng thích ứng kém do hoạt động kinh tế kém hiệu quả, bùng phát dịch bệnh, )
cho sức khoẻ cộng đồng được dự báo sẽ ngày càng tăng.
- Jennifer Frisca và Tyler Martz (2007) đã khẳng định rằng nước sạch và
vệ sinh môi trường đóng vai trò quan trọng, then chốt trong vấn đề truyền nhiễm
các bệnh tiêu chảy. Các nhân tố môi trường đóng góp tới 94% trong tổng số 4
triệu trường hợp tiêu chảy mỗi năm (ước tính của tổ chức y tế thế giới WHO).
Trẻ em dưới 5 tuổi tại các nước đang phát triển chịu ảnh hưởng nặng nề nhất

chiếm tới 1,5 triệu cái chết mỗi năm do bệnh tiêu chảy. Tại châu Mỹ La tinh và
Caribe (LAC) xấp xỉ 77600 trẻ em dưới 5 tuổi, trên 200 trẻ em mỗi ngày, chết
do các bệnh về tiêu chảy và những biến chứng của chúng.
- Một số nhà nghiên cứu đã thiết lập một sự liên kết giữa mưa lớn và lũ lụt
và những hiện tượng khí tượng bất thường khác tới sự bùng phát của các dịch
bệnh truyền nhiễm. Các sự kiện khí hậu cực đoan có thể dễ dàng phá vỡ sự lọc
nước mưa và nước thải, cũng như gây nhiễm bẩn tới nguồn nước mặt và các hệ
thống giếng không có tầng bảo vệ bề mặt, dẫn tới gia tăng những rủi ro về dịch
bệnh.
- Hậu quả tác động của biến đổi khí hậu đã được Ủy ban Liên chính phủ
về Biến đổi khí hậu (IPPC) khẳng định thông qua các dạng thiên tai như: sóng,
nhiệt, nóng, lũ lụt, hạn hán gây ra chết chóc và bệnh tật. Đặc biệt là các căn
bệnh gia tăng dưới tác động của nhiệt như: sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não
(truyền qua muỗi); các bệnh đường ruột (qua môi trường nước), các bệnh suy
dinh dưỡng, bệnh phổi Những bệnh này đặc biệt ảnh hưởng lớn đến các vùng
kinh tế kém phát triển, đông dân và có tỷ lệ đói nghèo cao
1.1.2.2. Một số tác động tích cực của BĐKH
Trong nghiên cứu của IPCC năm 2001, dựa trên cơ sở các mô hình mô
phỏng dự báo và các nghiên cứu khác đã chỉ ra một số ảnh hưởng tích cực của
BĐKH như sau:
- Tăng lượng nước cho cộng đồng ở một số vùng khan hiếm nước, ví dụ
một số vùng Đông Nam Á;
- Giảm nhu cầu năng lượng để sưởi do nhiệt độ cao hơn vào mùa đông;
- Tăng sản lượng cây trồng ở một số vùng ôn đới do sự gia tăng nhiệt độ
khoảng vài độ C;
- Giảm tỷ lệ tử vong ở các vùng vĩ độ cao;
- Tăng cung cấp gỗ toàn cầu do các khu rừng được quản lý hợp lý.
Những mô tả trên cho thấy mức độ tổn thương hay tác động của BĐKH
rất đa dạng và ảnh hưởng tới tất cả các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội.
10

Tác động có thể mang tiêu cực và cũng có thể là tích cực nhưng tác động tiêu
cực đáng kể hơn nhiều so với tác động tích cực. Những tác động thay đổi theo
không gian và thời gian nhưng những nước có tiềm lực kinh tế thấp chịu tổn
thương nặng hơn hơn so với những nước phát triển. Nguyên nhân do đây là
những nước có khả năng thích ứng kém và là những nước nằm trong vùng chịu
ảnh hưởng mạnh của BĐKH mà cụ thể là vùng Nhiệt đới gió mùa.
1.1.3. Biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Theo các kết quả phân tích các số liệu khí hậu cho thấy các yếu tố của khí
hậu tại Việt Nam những năm trước đây có những đặc điểm dưới đây:
Nhiệt độ: Trong 50 năm qua ( 1958 – 2007), nhiệt độ trung bình ở Việt
Nam tăng lên khoảng 0.5
0
C đến 0.7
0
C. Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn
nhiệt độ mùa hè và nhiệt độ ở các vùng khí hậu phía Bắc tăng nhanh hơn ở các
vùng khí hậu phía Nam (hình1.2 a.)

Hình 1.2: Minh họa sự biến đổi về nhiệt độ (a) và lượng mưa (b)

Nhiệt độ trung bình năm của 4 thập kỷ gần đây (1961 – 2000) cao hơn
trung bình năm của 3 thập kỷ trước đó ( 1931 – 1960). Nhiệt độ trung bình năm
của thập kỷ 1991 – 2000 ở Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh đểu cao
hơn trung bình của thập kỷ 1931 – 1940 lần lượt là 0,8; 0,4 và 0,6
0
C. Năm
11
2007, nhiệt độ trung bình năm ở cả 3 nơi trên đều cao hơn trung bình của thập
kỷ 1931 – 1940 là 0,8 – 1,3
0

C và cao hơn thập kỷ 1991 – 2000 là 0,4 – 0,5
0
C
- Lượng mưa: Trên từng địa điểm, xu thế biến đổi của lượng mưa trung
bình năm trong 9 thập kỷ vừa qua (1911 - 2000) không rõ rệt theo các thời kỳ và
trên các vùng khác nhau: có giai đoạn tăng lên và có giai đoạn giảm xuống.
Lượng mưa năm giảm ở các vùng khí hậu phía Bắc và tăng ở các vùng khí hậu
phía Nam. Tính trung bình trong cả nước, lượng mưa năm trong 50 năm qua
(1958 - 2007) đã giảm khoảng 2% (Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với
biến đổi khí hậu, Bộ TNMT, 2008).
Lượng mưa biến đổi không nhất quán giữa các nơi: ở Hà Nội và tp.Hồ
Chí Minh, lượng mưa trung bình năm của các thập kỷ sau 1950 có xu thế giảm
so với trước đó. Ở các tỉnh Nam Trung Bộ, lượng mưa có xu thế giảm. Riêng ở
Đà Nẵng lượng mưa có xu thế tăng, nhất là thập kỷ 1991 – 2000 (Nguyễn Đức
Ngữ,2010).
+ Số ngày mưa phùn giảm rõ rệt, nhất là trong thập kỷ 1991 – 2000.
+ Số ngày mưa lớn và mưa lớn trái mùa tăng lên.
+ Dự tính đến cuối thế kỷ 21, lượng mưa năm ở các vùng đều tăng, 7-10%
ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ,2-5% ở Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ so
với trung bình thời kỳ 1980-1999.Đáng chú ý là lượng mưa tăng chủ yếu do
lượng mưa mùa mưa tăng. Trái lại, lượng mưa mùa khô giảm, trong đó giảm
nhiều nhất ở Tây Nguyên và Nam Trung Bộ (15 - 20%) (Nguyễn Đức Ngữ,
2010).
- Không khí lạnh: Số đợt không khí lạnh ảnh hưởng tới Việt Nam giảm đi
rõ rệt trong hai thập kỷ qua. Tuy nhiên, các biểu hiện dị thường lại thường xuất
hiện mà gần đây nhất là đợt không khí lạnh gây rét đậm, rét hại kéo dài 38 ngày
trong tháng 1 và tháng 2 năm 2008 ở Bắc Bộ (Chương trình mục tiêu quốc gia
ứng phó với biến đổi khí hậu, Bộ TNMT, 2008).
- Bão: Những năm gần đây, bão có cường độ mạnh xuất hiện nhiều hơn.
Quỹ đạo bão có dấu hiệu dịch chuyển dần về phía nam và mùa bão kết thúc

muộn hơn, nhiều cơn bão có đường đi dị thường hơn (Hình 1.5) (Thông báo đầu
tiên của Việt Nam cho Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu,
Bộ TNMT,2003).
12

Hình 1.3: Quỹ đạo của bão ở Tây Bắc Thái Bình Dương
- Mưa phùn: Số ngày mưa phùn trung bình năm ở Hà Nội giảm dần từ
thập kỷ 1981 - 1990 và chỉ còn gần một nửa (15 ngày/năm) trong 10 năm gần
đây (Nguyễn Đức Ngữ, Nguyễn Trọng Hiệu, 2003).
- Mực nước biển: Số liệu quan trắc tại các trạm hải văn dọc ven biển Việt
Nam cho thấy tốc độ dâng lên của mực nước biển trung bình ở Việt Nam hiện
nay là khoảng 3mm/năm (giai đoạn 1993 - 2008), tương đương với tốc độ tăng
trung bình trên thế giới. Trong khoảng 50 năm qua, mực nước biển tại Trạm hải
văn Hòn Dấu dâng lên khoảng 20cm (Hình 1.6)

Hình 1.4: Diễn biến mực nước biển tại trạm hải văn Hòn Dấu
13
1.2 Tổng quan về lưu vực nghiên cứu
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
Hệ thống thủy lợi Hải Hậu nằm ở khu vực phía Nam vùng đồng bằng
Sông Hồng, chịu ảnh hưởng trực tiếp của thủy triều, có nhiệm vụ cấp nước cho
khoảng 19.917 ha đất nông nghiệp, tạo nguồn cấp nước phục vụ cho chăn nuôi
gia súc, gia cầm, nuôi trồng thủy sản; đảm bảo tiêu úng cho diện tích phía trong
đê, đảm bảo môi trường sinh thái.
1.2.1.1. Vị trí địa lý
Hệ thống thủy lợi Hải Hậu có toạ độ địa lý: Từ 20
0
15’đến 21
0
01’ vĩ độ

Bắc và Từ 106
0
11’ đến 106
0
22’ kinh độ Đông, được giới hạn bởi:
Phía Bắc và giáp sông Ninh Cơ và huyện Xuân Trường
Phía Đông Bắc giáp sông Sò
Phía Đông, Đông Nam giáp vịnh Bắc bộ
Phía Tây, Tây Bắc giáp sông Ninh Cơ

Hình 1.5: Bản đồ hệ thống thủy nông Hải Hậu
Hệ thống thủy lợi sông Hải Hậu bao gồm toàn bộ diện tích huyện Hải Hậu
và diện tích 6 xã huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định. Diện tích tự nhiên của hệ thống
14
là 27.126,77ha, trong đó diện tích trong đê: 26.820 ha, diện tích ngoài đê 306,77ha.
Diện tích đất nông nghiệp 19.917ha, diện tích không canh tác là 7.994ha.
1.2.1.2 Đặc điểm địa hình
Bề mặt địa hình ở hệ thống thủy nông Hải Hậu tương đối bằng phẳng, với độ
dốc địa hình rất nhỏ (trung bình 9 mm/km), có xu thế thấp dần từ Tây bắc xuống
Đông nam, độ cao ruộng đất khu vực trong đê chỉ vào khoảng 0,25 đến 1,5m.
Nếu lấy mực nước triều cao trung bình nhiều năm 2,5 m tại Vịnh Bắc Bộ
(vị trí trạm thuỷ văn Ba Lạt, cách cửa sông Hồng 8 km) để so sánh thì phần lớn
diện tích hệ thống thủy nông Hải Hậu sẽ ngập chìm trong nước biển. Do vậy
ngay từ thời Lý, cha ông ta đã phải đắp đê sông, đê biển, bảo vệ cho hầu hết các
khu vực thuộc đồng bằng để chống lũ trong mùa lũ và chống xâm nhập triều,
mặn vào trong đồng trong mùa cạn.
Bảng 1.2: Phân bố diện tích theo cao độ trong hệ thống.
Cao độ mặt
ruộng
Từ 1,00 đến

trên 1,20
từ (+0,8)
đến (+1,00)
từ (+0,6)
đến (+0,8)
từ (+0,4)
đến (+0,6)
dưới
(+0,4)
Diện tích (ha) 70 1.350 12.500 2.541 50
Tỷ lệ % 0,42 8,18 75,71 15,39 0,3

1.2.1.3. Đặc điểm đất đai, thổ nhưỡng
Hầu hết đất đai của hệ thống thủy nông Hải Hậu là đất phù sa do sông
Hồng và sông Ninh Cơ bồi đắp. Trải qua quá trình canh tác lâu đời, dưới tác
dụng của con người và của thiên nhiên đất đai đã được thay đổi về hóa tính, độ
chua mặn đã được giảm nhiều.
- Thành phần cơ lý:
Đất đai trong hệ thống thủy nông Hải Hậu chủ yếu là đất thịt nặng, đất
phù sa xen kẽ có những vùng đất cát, cát pha. Thành phần cơ lý như sau:
+ Đất thịt nhẹ (60% đến 70% thịt cát pha) chiếm 7,5%
+ Đất trung bình (Được tưới phù sa) chiếm 18,8%
+ Đất thịt nặng (Đất thịt hoặc đất gan gà) chiếm 70,7%
+ Đất cát và cát pha chiếm 3,0%
- Độ chua:
+ Đất có độ PH từ 6 ÷ 7 chiếm 93,13% diện tích
15
+ Đất có độ PH từ 5 ÷ 6 chiếm 4% diện tích
+ Đất có độ PH dưới 5 chiếm 2,87% diện tích
- Độ mặn:

+ Đất có độ mặn (Từ 0,15 đến 0,25)% Cl chiếm 1,55% diện tích
+ Đất có độ mặn (Từ 0,03 đến 0,15)% Cl chiếm 98,45% diện tích
- Lượng đạm:
+ Đất khá đạm (6% NH4) chiếm 1,25% diện tích
+ Đất trung bình (4% NH4) chiếm 21,70% diện tích
+ Đất nghèo đạm (Từ 2 ÷ 4% NH4) chiếm 77,05% diện tích
- Lượng lân:
+ Đất khá lân (từ 30 ÷ 40)% P
2
O
5
chiếm 27,20% diện tích
+ Đất trung bình (từ 25 ÷ 30)% P
2
O
5
chiếm 68,67% diện tích
+ Đất nghèo lân (từ 10 ÷ 25)% P
2
O
5
chiếm 4,13% diện tích
1.2.2 Đặc điểm khí hậu
1.2.2.1 Đặc điểm khí hậu
1.2.2.2. Lưới trạm quan trắc khí tượng
Trong và lân cận khu vực có lưới trạm đo mưa khá dày đặc gồm các trạm
như sau:
Bảng 1.3: Danh sách các trạm KTTV khu vực nghiên cứu
STT Tên trạm Tọa độ địa lý Thời gian đo Yếu tố đo
1 Nam Định 20

o
26’ – 106
o
10’ 1978 – nay T,X,Z
2 Ninh Bình 20
o
16’ – 105
o
59’ 1960 – nay T,X,Z
3 Văn Lý 20
o
07’ – 106
o
18’ 1960 – nay T,X,Z
4 Liễu Đề 20
o
10’ – 106
o
10’ 1980 – nay X
5 Vụ Bản 20
o
20’ – 106
o
08’ 1980 – nay X
6 Giao Thủy 20
o
16’ – 106
o
20’ 1980 – nay X
Các công ty TNHH một thành viên KTCTTL trong tỉnh đều có bộ phận

theo dõi đo mưa tại khu vực để chỉ đạo sản xuất như Hải Hậu, Giao Thủy, Liễu
Đề…
16
1.2.2.3. Nhiệt độ
Nhiệt độ không khí trung bình năm khoảng 23
o
- 24
o
C. Mùa đông nhiệt độ
trung bình là 18.9
0
C, tháng lạnh nhất là vào tháng 1 và tháng 2. Mùa hạ, có nhiệt
độ trung bình là 27
0
C, tháng nóng nhất là tháng 7 với nhiệt độ trung bình là
29.3
0
C (nhiệt độ nóng nhất có thể lên tới hơn 40
0
C).
Bảng 1.4. Nhiệt độ trung bình tháng tại các trạm trong khu vực và vùng lân cận
Đơn vị:
o
C
Trạm I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Năm
Văn

16,7 17,5 20,1 24,1 27,5 29,0 29,3 28,6 27,6 25,2 21,6 18,2 23,8
Nam
Định

16,9 17,9 20,2 24,0 26,7 28,9 29,0 28,2 27,0 24,9 21,6 18,0 23,6

- Số giờ nắng.
Hệ thống thủy nông Hải Hậu nằm trong miền khí hậu nhiệt đới gió mùa,
với lượng bức xạ tổng cộng trung bình năm khoảng 105 ÷ 120Kcal/cm
2
và có số
giờ nắng thuộc loại trung bình, đạt khoảng 1400 ÷ 1550giờ/năm, trong đó tháng
VII và VIII có số giờ nắng nhiều nhất đạt khoảng 150 ÷ 200giờ/tháng và tháng
II, III có số giờ nắng ít nhất khoảng 39 ÷ 55giờ/tháng.
Bảng 1. 5: Tổng giờ nắng tại các trạm trong khu vực và vùng lân cận
Đơn vị: Giờ
Trạm I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Năm
Văn Lý 73 48 47 91 180 170 191 170 173 162 138 120 1563
Nam
Định
67 55 39 85 154 153 152 168 163 153 130 107 1427

- Lượng bốc hơi.
Khả năng bốc hơi trên lưu vực phụ thuộc vào các yếu tố khí hậu: Nhiệt độ
không khí, nắng, gió, độ ẩm, mặt đệm…. Khả năng bốc hơi nhiều thường xảy ra
vào các tháng ít mưa, nhiều nắng, nhiệt độ cao và tốc độ gió lớn, khả năng bốc
hơi nhỏ thì ngược lại. Lượng bốc hơi trung bình nhiều năm trong lưu vực biến
động từ 700 - 980mm. Mùa nóng bốc hơi nhiều hơn mùa lạnh.
17
Bảng 1.6: Bốc hơi trung bình tháng tại các trạm trong khu vực và vùng lân cận
Đơn vị: mm
Trạm I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Năm
Văn


65,9 54,2 57,6 65,2 93,0 98,2 97,6 83,3 91,3 98,3 89,7 84,2 978,5
Nam
Định
61,5 52,4 53,7 54,0 73,6 94,4 100,8 70,1 66,1 79,2 78,3 75,7 859,7
1.2.2.4. Độ ẩm
Độ ẩm trung bình trên các tháng đều khoảng 80%. Độ ẩm không khí
trung bình tháng nhiều năm tại khu vực vào khoảng 80- 85%. Độ ẩm giữa các
tháng biến đổi rất ít. Những tháng hanh khô, độ ẩm vào khoảng 78%, thấp nhất
khoảng 65%. Trong những ngày mưa phùn độ ẩm không khí có thể tăng lên đến
trên 90%.
Bảng 1.7: Độ ẩm không khí trung bình tháng
Đơn vị: %
Trạm I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Năm
Văn
Lý 82,1 84,7 85,0 85,8 83,2 79,8 84,3 82,6 83,9 80,0 78,8 78,2 82,4
Nam
Định 83,4 85,5 87,8 89,4 82,8 83,7 84,3 88,4 87,5 83,0 81,7 80,6 84,9

Mưa
Tổng lượng mưa bình quân nhiều năm ở hệ thống thủy nông Hải Hậu vào
khoảng 1.757mm. Trong đó mùa hè lượng mưa tương đối dồi dào và tập trung
chủ yếu vào các tháng 6, 7, 8 chiếm 70% lượng mưa cả năm.
+ Mùa khô
Mùa khô bắt đầu từ tháng XI đến tháng IV năm sau. Tông lượng mưa
trong các tháng mùa khô khoảng 250 ÷ 350mm và chỉ chiếm từ 15 ÷ 20% tổng
lượng mưa năm. Trung bình số ngày mưa trong các tháng mùa khô là 6 ÷ 11
ngày mưa. Trong toàn lưu vực tháng I là tháng có số ngày mưa ít nhất trong năm
trung bình chỉ có 6 ngày/ tháng. Sang đến tháng II và III số ngày mưa có tăng
18
lên 10 ngày/tháng đây cũng là thời kỳ mưa phùn. Tuy nhiên lượng mưa cũng chỉ

trên 50mm/tháng.
+ Mùa mưa
Mùa mưa trùng với thời kỳ mùa hè, từ tháng V đến tháng X, lượng mưa
chiếm trên 80% tổng lượng mưa năm và đạt từ 1500 ÷ 1600mm với số ngày
mưa vào khoảng từ 70 ÷ 80 ngày. Hệ số Cv biến động không nhiều trung bình
dao động 0,5 ÷ 0,8. Và đều biến thiên theo cùng một xu hướng.
1.2.2.5. Gió, bão
Hệ thống thủy nông Hải Hậu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu
ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu và chế độ thủy văn vùng triều khu vực ven biển
đồng bằng Bắc Bộ.
Gió: Hướng gió thổi vào hệ thống thủy nông Hải Hậu thịnh hành theo hai
mùa:
Mùa hè từ tháng 5 đến tháng 10 chủ yếu là gió Đông Nam tốc độ gió
trung bình 4m/s, tốc độ gió lớn nhất trung bình xuất hiện trong bão khoảng
45m/s. Gió Đông nam mang nhiều hơi nước nên thường gây mưa lớn.
Mùa Đông: Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau chủ yếu là gió Đông bắc
khô hanh, tốc độ gió trung bình đạt 4m/s (có những đợt gió mùa Đông bắc thổi
mạnh đạt tốc độ từ 15m/s đến 20m/s)
Ngoài hai hướng gió chính thịnh hành theo mùa ở trên thì vùng ven biển
vào mùa hè còn có gió đất và gió biển theo chu kì ngày đêm.
Bão: Hệ thống thủy nông Hải Hậu nằm ven biển, hàng năm luôn phải chịu
ảnh hưởng của bão. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Khí tượng- Thủy văn,
trung bình mỗi năm ở đây có 2 cơn bão đổ bộ vào và thường xuất hiện từ tháng
5 đến tháng 11, nhiều nhất vào tháng 6 đến tháng 9 gây thiệt hại về người và của
cho các huyện ven biển. Cơn bão số 5 xuất hiện tháng 9/1996 có sức gió giật
trên cấp 12 là trận bão hiếm có trong gần 100 năm lại đây đã gây thiệt hại nặng
nề cho hệ thống.
1.2.3. Đặc điểm thủy văn
1.2.3.1. Mạng lưới sông ngòi và lưới trạm thủy văn
Hệ thống thủy nông Hải Hậu có mạng sông ngòi dày đặc. Nhìn chung, các

sông đều chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và đổ ra biển. Các sông chảy
qua địa phận hệ thống thủy nông Hải Hậu phần lớn đều thuộc hạ lưu nên lòng
sông thường rộng, độ dốc nhỏ và không sâu lắm, có quá trình bồi đắp phù sa ở
cửa sông. Chịu ảnh hưởng của đặc điểm địa hình và khí hậu nên chế độ nước
sông chia làm hai mùa rõ rệt: mùa lũ và mùa cạn. Vào mùa lũ, lưu lượng nước
19
sông khá lớn, lại gặp lúc mưa to kéo dài, nếu không có hệ thống đê điều ngăn
nước thì đồng bằng sẽ bị ngập lụt. Vào mùa cạn, lượng nước sông giảm nhiều, các
sông chịu ảnh hưởng lớn của thủy triều, khiến cho vùng cửa sông bị nhiễm mặn.
Trên địa bàn hệ thống thủy nông Hải Hậu có 1 sông lớn là sông Ninh Cơ
và nhiều sông địa phương, kênh đào, sông tiêu… Tổng chiều dài kênh toàn hệ
thống là 2.592km, trong đó: chiều dài kênh cấp I là 221 km, kênh cấp II là 848
km, kênh cấp III là 1.523 km góp phần vào việc tưới tiêu và cung cấp nước sinh
hoạt cho người dân địa phương.
Sông Hồng: Đây là con sông có hàm lượng phù sa lớn, là nguồn nước
tưới chính cho tỉnh, đồng thời cũng là con sông nhận nước tiêu. Đoạn sông
Hồng chảy qua Nam Định có chiều rộng trung bình của sông khoảng 500-
600m, chiều dài 74,5km từ cống Hữu Bị cửa Ba Lạt. Mùa lũ, trên sông Hồng bắt
đầu từ tháng VI đến hết tháng X. Về mùa lũ nước sông thường dâng lên rất cao,
chênh lệch mực nước và cao độ đất trong đồng từ 1 – 1.5 m ảnh hưởng lớn đến
việc tiêu úng.
Về mùa kiệt chịu tác động điều tiết của hồ Hoà Bình nên mực nước mùa
kiệt được nâng cao hơn, tuy nhiên vào các tháng mùa kiệt mực nước vẫn thấp
hơn cao độ trong đồng nên lấy nước tưới tự chảy rất khó khăn và phải lợi dụng
chế độ triều, kết hợp với việc lấy nước dộng lực mới đủ nước tưới.
Bảng 1.8: Mực nước bình quân tháng, năm trên sông Hồng, sông Đáy,
sông Đào Nam Định
Đơn vị: cm
Trạm Sông
Bình quân tháng

I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
Hưng
Yên
Hồng 128 113 105 120 168 310 462 493 415 319 236 164
Nam
Định
Đào 86 76 71 80 106 184 273 294 251 200 151 108
Ninh
Bình
Đáy 60 54 50 58 76 119 163 180 178 146 111 75
Sông Ninh Cơ: Sông Ninh Cơ là phân lưu cuối cùng ở bờ hữu sông
Hồng, nằm hoàn toàn trên địa phận tỉnh Nam Định, nhận nước sông Hồng ở
Mom Rô và đổ ra biển tại cửa Lạch Giang. Sông có dòng chảy quanh co, uốn
lượn, chiều rộng trung bình 400 - 500m, chiều dài khoảng 50km. Sông chịu
20
ảnh hưởng mạnh của thủy triều, về mùa lũ sông chịu ảnh hưởng của lũ sông
Hồng, thoát lũ hỗ trợ cho sông Hồng từ 1000- 1200m
3
/s, khả năng thoát lũ
lớn nhất tới 3600m
3
/s, là tuyến giao thông thủy quan trọng trong vùng lưu
lượng hàng hoá từ 160.000 tấn đến 200.000 tấn ngày đêm.
Trong những năm gần đây, diễn biến sông có chiều hướng phức tạp và
gây khó khăn cho công tác lấy nước và thoát lũ trên địa bàn hệ thống. Kết quả
điều tra cho thấy trên sông Ninh cơ bị bồi lắng mạnh tạo nhiều bơn nổi giữa
dòng có chiều dài lớn. Tại cửa Mom Rô dòng sông cong tạo ra bên lồi, bên
lở, lòng sông bị tắc nghẽn có chỗ chỉ còn rộng 80 – 100m (tại khu vực cửa
Mom Rô). Chính vì vậy, lượng nước phân từ sông Hồng sang sông Ninh khá
nhỏ. Về mùa lũ tổng lưu lượng lũ của sông Hồng phân vào sông Ninh chỉ đạt

khoảng 5 – 7% tổng lưu lượng sông Hồng. Trong khi lưu lượng sông Hồng
phân vào cửa sông Đào Nam Định khoảng 5.970m
3
/s thì lượng phân vào sông
Ninh chỉ khoảng 1.736m
3
/s.
Tại khu vực kè Phượng Tường, lòng sông cạn tạo bãi bồi bên Tả, gây
xói lở nghiêm trọng khu vực kè Phượng Tường dài trên 2km, tại khu vực bối
Hải Minh, tạo bơn cạn giữa dòng sông, gây tắc nghẽn và xói lở liên kè Đền
Ông – Trực Thanh dài trên 3km.
Tại khu vực ngã ba sông Ninh Cơ và kênh Quần Liêu, dòng chảy phân
từ sông Đáy sang sông Ninh tạo bơn nổi giữa dòng dài 1 – 2km, tại khu vực
Đò Mười, lòng sông cạn tạo bơn nổi giữa dòng dài xấp xỉ 2km.
Sông Ninh Cơ bao quanh phía Bắc – Tây Bắc hệ thống thủy nông Hải Hậu
có chiều dài 36 km từ cống Rộc đến cửa Ninh Cơ, là một nhánh của sông Hồng,
chịu ảnh hưởng của thủy triểu rất mạnh, về mùa lũ sông Ninh Cơ chịu ảnh
hưởng của lũ sông Hồng làm cho đỉnh triều bị biến dạng. Các cống phía trên
sông Ninh Cơ từ cống Rộc đến Cầu Phao Ninh Cường là những cống lấy nước
từ sông Ninh tưới cho toàn lưu vực, các cống phía hạ lưu cầu phao Ninh Cường
chủ yếu làm nhiệm vụ tiêu.
Trong những năm gần đây lưu lượng dòng chảy sông Ninh Cơ ngày một
giảm do diễn biến bồi lắng cửa vào và lòng dẫn khiến không đủ lượng nước trên
sông khiến mặn ngày một tiến sâu vào nội địa. Kết quả điều tra cho thấy tại khu
vực bối Hải Minh lòng sông bồi tạo bơn cạn giữa dòng sông gây tắc nghẽn và
xói lở kè Đền Ông – Trực Thanh dài trên 3km, tại khu vực Lác Phường – Quang
Trung lòng sông cạn tạo bơn nổi giữa dòng dài xấp xỉ 2km. Chính vì vậy đã gây
khó khăn cho công tác lấy nước và thoát lũ trên địa bàn.
Sông Sò: Chảy từ Ngô Đồng đến Hạ Lạn chiều dài 17km, bị bồi lấp từ
khi xây dựng cống thay cửa Ngô Đồng bỏ ngỏ rồi xây dựng đập Nhất Đỗi.

Hiện nay sông này từ đập Nhất Đỗi ra biển chỉ còn lại là một lạch biển, làm
giảm khả năng tiêu úng.
21
Sông Sò đoạn chảy qua hệ thống thủy nông Hải Hậu có chiều dài 7,5 km,
do gần biển nên nước sông Sò bị mặn không dùng nước tưới được, làm nhiệm
vụ tiêu nước về mùa mưa thuộc khu vực Phúc Hải.
1.2.3.2. Tài nguyên nước mặt
Nguồn nước mặt tại hệ thống thủy nông Hải Hậu khá phong phú, hệ thống
sông ngòi khá dày đặc con sông lớn là sông Ninh Cơ.… và một hệ thống hồ,
đầm, ao, kênh mương dày đặc nên tiềm năng nước ngọt bề mặt tương đối lớn.
Lũ của sông Hồng chảy vào sông Ninh Cơ mang tích chất lũ ở hạ du mập
và có nhiều đỉnh. Đỉnh lũ lớn nhất năm thường xuất hiện vào giữa tháng VII đến
cuối tháng VIII. Lượng nước sông ở Nam Định khoảng 1,54 tỷ m
3
, lượng nước
phân bố giữa các tháng không đều, mùa lũ từ tháng VI đến tháng X chiếm tới
80% tổng lượng nước năm, riêng tháng IX chiếm 20%. Mùa cạn lượng dòng
chảy nhỏ, mức độ ô nhiễm nặng gây khó khăn cho việc sử dụng nước trong tỉnh.
1.2.3.3. Tài nguyên nước ngầm
Trên địa bàn hệ thống thủy nông Hải Hậu có 7 đơn vị chứa nước, nhưng
chỉ có 2 tầng chứa nước chính có ý nghĩa quan trọng trong khai thác và sử dụng.
Đó là tầng chứa nước lỗ hổng Hôlôxen hệ tầng Thái Bình và tầng chứa nước
Pleistoxen hệ tầng Hà Nội.
Tầng chứa nước lỗ hổng Hôlôxen hệ tầng Thái Bình, có hàm lượng clo
phổ biến từ 200 ÷ 400 mg/l, phân bố thành từng dải (có dải rộng 4km) chạy dọc
biển từ cửa Đáy đến cửa Ba Lạt chủ yếu là nước mặt. Chiều sâu phân bố của
tầng nước này dao động khoảng 10 ÷ 20 m. Trữ lượng tiềm năng của tầng chứa
nước này 485.638,916m
3
/ngày.

Hàm lượng Nitơ tương đối nhỏ, hầu hết các khu đều có hàm lượng Nitơ
nhỏ hơn 100mg/l. Khu vực có hàm lượng Nitơ từ 10mg/l đến 20 mg/l phân bố
dưới dạng thấu kính, rải rác khắp bề mặt diện tích khu vực nghiên cứu.
Tầng chứa nước lỗ hổng Pleistoxen hệ tầng Hà Nội phân bố rộng rãi trên
địa bàn, hàm lượng clo dưới 200mg/l, tầng khai thác phổ biến ở độ sâu trung
bình từ 40 ÷ 120m, ngoài ra còn phát hiện một số tầng nước ngầm có độ sâu từ
250 ÷ 350m, đây là nguồn nước ngọt có chất lượng tốt có thể khai thác phục vụ
cho sinh hoạt và sản xuất công nghiệp.Trữ lượng tiềm năng của tầng chứa nước
này là 140.970,95 m
3
/ngày.
Chất lượng nước: Tổng độ khoáng hoá biến đổi tăng dần theo hướng đi từ
biển vào đất liền.
1.2.3.4. Dòng chảy bùn cát
Trong mùa lũ 80% lượng bùn cát được đổ ra biển, tại hệ thống thủy nông
Hải Hậu bùn cát được bồi tích nhiều tại khu vực Ninh Cơ. Dòng chảy bùn cát
22
khu vực huyện Hải Hậu phụ thuộc vào yếu tố động lực ven bờ và chịu ảnh
hưởng trực tiếp lượng vận chuyển bùn cát của các con sông. Nhưng lượng bùn
cát phân bố không đều 91,5% vào mùa lũ và 8,5% vào mùa kiệt.
1.2.3.5. Đặc điểm thủy triều
Hệ thống thủy nông Hải Hậu là khu vực chịu ảnh hưởng thủy triều Vịnh
Bắc Bộ với chế độ nhật triều, biên độ triều trung bình từ 1,6 -1,7m, lớn nhất là
3,31 m và nhỏ nhất là 0,11m. Thời gian triều lên trong ngày khoảng 8- 9 giờ,
thời gian triều xuống khoảng 15- 16 giờ. Hàng tháng trung bình có 2 lần triều
cường, 2 lần triều kém, mỗi kỳ triều khoảng 14- 15 ngày.
Thông qua hệ thống sông ngòi, kênh mương, chế độ nhật triều đã giúp cho
quá trình thau chua rửa mặn trên đồng ruộng. Tuy nhiên cũng còn một số diện
tích bị nhiễm mặn
Độ lớn thủy triều là chênh lệch mực nước đỉnh triều và chân triều, cứ

khoảng 15 ngày có 1 chu kỳ nước cường và 1 chu kỳ nước ròng (độ lớn thủy
triều bé).
Ảnh hưởng của thủy triều mạnh nhất vào các tháng mùa kiệt, giảm đi
trong các tháng lũ lớn.
Sóng đỉnh triều truyền sâu vào nội địa 150 km về mùa cạn và 50- 100 km
về mùa lũ.
Chế độ thủy triều ở khu vực vịnh Bắc Bộ là chế độ nhật triều, biên độ
triều biến đổi từ 3 - 4m. Mực nước triều tại Văn Lý và mực nước triều tại Hòn
Dấu có hệ số tương quan đạt 95%. Chu kỳ khoảng 25 ngày, trong một ngày có
cũng có một đỉnh và một chân triều. Theo tính toán thống kê tại Văn Lý
- Mực nước triều tương ứng với tần suất P = 1%: + 2,42m,
- Mực nước triều tương ứng với tần suất P = 5%: + 2,29m,
- Mực nước triều tương ứng với tần suất P = 10%: + 2,21m.
23
0
50
100
150
200
250
300
350
400
450
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100
P (%)
H (cm)
TS MN ®Ønh triÒu
TS MN trung b×nh ngµy TS MN ch©n triÒu TS MN giê


Hình 1.7: Tần suất mực nước triều - trạm Hòn Dấu

1.2.3.6. Tình hình xâm nhập mặn
Về mùa cạn, lượng nước trong sông nhỏ, thủy triều xâm nhập vào khá sâu
và mạnh, đưa mặn vào rất sâu, sông có độ mặn 1
0
/
00
xâm nhập vào sâu cách cửa
biển 30- 50 km, gây trở ngại cho việc lấy nước dùng cho các ngành kinh tế ngày
càng phát triển, nhất là cho nông nghiệp.
Mặn đã ảnh hưởng đến nguồn nước tưới cho hệ thống thủy nông Hải Hậu.
Hàng năm về mùa kiệt, lưu lượng nguồn nước ngọt giảm, nước thủy triều dâng
cao đưa nước mặn từ biển Đông thâm nhập sâu vào các triền sông, ảnh hưởng
lớn đến việc lấy nước của các cống đầu mối, gây nhiều khó khăn cho sản xuất
nông nghiệp vụ chiêm xuân. Trong năm 2010, mặn đã lên cao, xâm nhập sâu
vào cửa sông ảnh hưởng đến công tác lấy nước phục vụ vùng trồng cây vụ Đông
và sinh hoạt của nhân dân trong vùng.
Ảnh hưởng mặn trên sông Ninh Cơ là trở ngại chính, gây bất lợi cho sự ổn
định và phát triển của sản xuất nông nghiệp. Mặn không chỉ hạn chế thời gian
lấy nước của các cống đầu mối, rò rỉ qua các cửa cống gây bốc mặn lên tầng đất
canh tác trong lưu vực tưới mà có khi trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất lúa khi
phải sử dụng nguồn nước nhiễm mặn có độ mặn cao. Nguy cơ phát sinh bệnh
lùn sọc đen, dịch bệnh gia súc, gia cầm luôn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát…
24
1.3. Hiện trạng dân sinh, kinh tế - xã hội trong hệ thống thủy nông Hải Hậu
1.3.1. Dân sinh
Hệ thống thủy nông Hải Hậu gồm có 35 xã, thị trấn huyện Hải Hậu và 6
xã Trực Đại, Trực Cường, Trực Phú, Trực Thái, Trực Hùng, Trực Thắng huyện
Trực Ninh, tỉnh Nam Định.

Dân số trong hệ thống công trình thủy lợi Hải Hậu như sau:
- Tổng số hộ là: 85.213 hộ.
Trong đó:
+ Số hộ làm nông nghiệp là: 81.325 hộ.
+ Số hộ phi nông nghiệp là: 3.888 hộ.
- Dân số toàn hệ thống: 323.211 người.
Trong đó:
+ Nam là: 154.098 người chiếm 47,86%
+ Nữ là: 168.513 người chiếm 52,14%
- Dân số trong khu vực sản xuất nông nghiệp là: 306.074 người chiếm
94,7% (Nam có 66.481, nữ có 71.874 người)
Trong đó: Lao động chính là: 138.355 người chiếm 45,2% (Nam có
66.481, nữ có 71.874 người)
Lao động phụ là: 69.177 người chiếm 22,6% (trẻ em: 98.542 chiếm
32,2%)
- Dân số trong khu vực phi nông nghiệp là 17.137 người chiếm 5,3% tổng
dân số, số đó chủ yếu làm nghề muối và đánh bắt hải sản tập trung chủ yếu ở các
xã Hải Triều, Hải Chính, Hải Hòa, Hải Đông, Hải Lý, Thị trấn Thịnh Long.
* Tốc độ tăng dân số:
+ Tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm là 1,83%
+ Xã có tỷ lệ tăng dân số cao nhất là Hải Chính 2,62%.
+ Xã có tỷ lệ tăng dân số nhỏ nhất là Thị trấn Yên Đinh 1,2%
1.3.2. Hiện trạng các ngành kinh tế trong khu vực
1.3.2.1 Hiện trạng sử dụng đất
Tổng diện tích tự nhiên của hệ thống thủy nông Hải Hậu là 27.127ha,
trong đó, đất nông nghiệp chiểm khoảng 70% với chủ yếu là đất trồng lúa với
diện tích 13.562 ha, đất phi nông nghiệp 7.994 ha chiếm 2,9% tổng diện tích tự
nhiên, đất chưa sử dụng là 372 ha chiếm 1% chủ yếu là đất vùng bối bãi.
25


Bảng 1.9 : Hiện trạng sử dụng đất hệ thống thủy nông Hải Hậu
STT Loại đất
Hiện trạng năm 2012
Huyện Hải Hậu
6 xã huyện Trực
Ninh
Diện tích
(ha)
Cơ cấu
(%)
Diện tích
(ha)
Cơ cấu
(%)
Tổng diện tích tự nhiên 23.015,56 100,00 4.516,75 100,00
1 Đất nông nghiệp 16.055,47 69,76
3.111,21 68,88
1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 13.829,32 60,09 2.861,07 63,34
1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 12.012,18 52,19 2.534,28 56,11
1.1.1.1 Đất trồng lúa 11.562,14 50,24 2.466,06 54,60
1.1.1.2 Đất cỏ dùng vào chăn nuôi
1.1.1.3
Đất trồng cây hàng năm
khác
450,04 1,96 68,22 1,51
1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 1.817,14 7,90 326,79 7,24
1.2 Đất lâm nghiệp 131,81 0,57
1.2.1 Đất rừng sản xuất
1.2.2 Đất rừng phòng hộ 131,81 0,57
1.2.3 Đất rừng đặc dụng

1.3 Đất nuôi trồng thuỷ sản 1.580,30 6,87 250,14 5,54
1.4 Đất làm muối 494,26 2,15
1.5 Đất nông nghiệp khác 19,78 0,09
2 Đất phi nông nghiệp 6.686,89 29,05
1.306,69 28,93
2.1 Đất ở 1.557,25 6,77 318,27 7,05

×