Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

THỜI GIAN TRẦN THUẬT TRONG “ÂM THANH VÀ CUỒNG NỘ” CỦA WILLIAM FAULKNER

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.12 KB, 8 trang )

THỜI GIAN TRẦN THUẬT TRONG “ÂM THANH VÀ CUỒNG NỘ” CỦA
WILLIAM FAULKNER
MỞ ĐẦU
Văn học Mỹ tuy không có chiều dài lịch sử và truyền thống lâu đời như nền văn học
các nước phương Âu Châu nhưng lại đóng góp cho văn chương thế giới những tên tuổi lớn
vào loại bậc nhất. William Faulkner (1897-1962) nhà văn thứ … của nước Mỹ nhận giải
thưởng văn học danh giá Nobel là một trong số đó. Là một trong “tứ trụ” của tiểu thuyết gia
thế kỉ XX, Willam Faulkner đã có đóng góp rất lớn vào tiến trình phá vỡ nguyên tắc mỹ học
của tiểu thuyết truyền thống, lát gạch cho con đường tiểu thuyết “tân hiện đại” của thế kỉ. Từ
Âm thanh và cuồng nộ (1929), Hấp hối (1930), đến Ánh sáng giáo đường (1932), Làng nhỏ
(1940) … ông đã từng bước thể hiện sự cách tân quyết liệt trong địa hạt văn chương. William
Faulkner đã khiến kĩ thuật viết của mình không chỉ là “một thử nghiệm thuần tuý hình thức
mà đã tạo cho nó một giá trị, trở thành một kinh nghiệm thẩm mĩ được rất nhiều nhà văn thế
hệ sau học tập”.
Âm thanh và cuồng nộ là một trong bốn tiểu thuyết thành công nhất của William
Faulkner được viết trên nền chủ đề đen (dark theme) Nó góp phần không nhỏ trong trào lưu
Phục hưng văn học miền Nam trong văn học Hoa Kì nói riêng và có giá trị cách tân lớn trong
văn học thế giới nói chung. Tiểu thuyết này là sự kế thừa phát huy xuất sắc kỹ thuật viết theo
dòng ý thức mà M. Proust và Jame Joyce đã đặt nền tảng trước đó. Faulkner trong cuốn tiểu
thuyết lừng danh của mình đã phá vỡ kết cấu thông thường, đảo lộn thời gian, tăng thời gian
đồng hiện … Điều đó khiến tác phẩm như một “mê cung” huyền bí, có nhiều lối rẽ không
định trước, vô số những ngã đường dẫn đến những cái đích khác nhau làm người đọc rất khó
định hình, bình giá. Bạn đọc không thể áp dụng cách đọc truyền thống như men theo cốt
truyện, men theo diễn biến tình tiết để nắm bắt nội dung vì cấu trúc bị phá vỡ hoàn qua lối
độc thoại nội tâm, thời gian đồng hiện, không gian đa tuyến, tất cả đều bị xới tung, đảo lộn
trong dòng chảy miên man của ý thức, trong những suy tưởng tạt ngang bất ngờ của người
trần thuật.
Thế kỉ XX được xem là một thế kỉ bùng nổ của các lí thuyết, đặc biệt là lí thuyết văn
học. Nó cho phép những nhà nghiên cứu có thêm nhiều công cụ đặc lực để có thể rẽ lối vào
tác phẩm sâu hơn, điều quan trọng còn lại là sự lựa chọn hợp lí cho từng đối tượng nghiên
cứu. Chúng tôi lựa chọn hướng tiếp cận tác phẩm này từ lí thuyết tự sự học mà cụ thể là khảo


sát một yếu tố quan trọng trong lí thuyết tự sự là thời gian trần thuật. Bởi thời gian trần thuật
là yếu tố có vai trò rất quan trọng trong tiểu thuyết này. Tìm hiểu sâu vấn đề này cho phép
người đọc bóc tách những lớp thời gian, hiểu được phương thức trần thuật của tác giả từ đó
có thể hiểu được phần nào những đóng góp của Faulker trong tiến trình cách tân tiểu thuyết,
quan niệm của ông về con người, cuộc sống.
1
NỘI DUNG
1. Khái quát về thời gian trần thuật
1.1. Khái luận quan niệm về thời gian
Thời gian là một trong những vấn đề được con người chú trọng nghiên cứu, bởi tìm
được bản chất, sự vận động, nắm bắt được thời gian, con người có trong tay một lối dẫn đi
đến thành công. Nhưng thời gian là một phạm trù khác phức tạp, mối nhà triết học lại đưa
ra một cách hiểu, luận giải riêng của mình về nó.
Tại Tây phương, triết lý ngay từ ban đầu đã luôn luôn dao động giữa hai khuynh
hướng của tư tưởng cổ xưa Hy Lạp : giữa "tất cả đổi thay" theo Héraclite, và "tất cả bất
biến" theo Parménide. Đối với Héraclite, đặc tính của cuộc sống là sự lưu chuyển không
ngừng: "Người ta không bao giờ tắm hai lần ở một dòng sông". Điều đó nằm trong định
luật chung của vũ trụ gọi là logos, bao trùm và tác động trên tất cả mọi hiện tượng trên thế
gian. Tất cả luôn luôn biến đổi, cái này đưa tới cái kia, vừa chống đối nhau vừa nẩy sinh ra
nhau, như "sáng / tối", "ngày / đêm". Ngược lại, Parménide cho rằng sự có mặt là vĩnh
cửu, và tất cả đổi thay chỉ là những vẻ bên ngoài. Cũng trong chiều hướng này, Platon chủ
trương bên cạnh thế giới hiện tượng đổi thay, còn có thế giới của Tư Tưởng, của Linh
Hồn, một thế giới vĩnh cửu bất biến, vượt khỏi thời gian. Thời gian đương nhiên trở thành
"hình ảnh chuyển động của sự vĩnh cửu bất động". Đối với Aristote, thời gian cũng như
sự chuyển động mang một tính chất vĩnh cửu, vô thủy vô chung. "Thời gian là thước đo
của sự chuyển động giữa trước và sau ; thời gian liên tục, bởi vì thuộc vào sự liên tục". Chỉ
có thời gian hiện tại mới là thời gian thực sự.
Theo trường phái Khắc Kỷ (Stoiciens), thời gian không có thực chất, nhưng "mọi sự
vật hiện hữu và chuyển động chính ở trong thời gian". Thời gian nằm trong cuộc sống của
thế giới, tức là của Tạo Hóa, bởi vì vũ trụ chính là Thiên Nhiên, là Tạo Hóa. Do đó, nhà

hiền triết khắc kỷ tuân theo và chấp nhận thời gian, sống phù hợp với thời gian, để hòa
đồng với Tạo Hóa.
Vào thời kỳ Trung cổ, Thánh Augustin đã đưa ra những nhận định sâu sắc về thời
gian : "Thời gian là gì ? Nếu không ai hỏi tôi về thời gian, thì tôi biết rõ ; nhưng khi cần
phải giải thích thì tôi không còn biết thời gian là gì. Tuy vậy, tôi dám mạnh bạo quả quyết
rằng, nếu không có gì xảy ra, sẽ không có thời gian đi qua ; nếu không có gì xảy đến, sẽ
không có thời gian sắp tới ; nếu không có gì hiện hữu, sẽ không có thời gian hiện tại.
Nhưng hai thời gian này, quá khứ và tương lai, làm sao chúng có mặt được, nếu quá khứ
không còn nữa và tương lai chưa tới ? Ngay cả hiện tại, nếu luôn luôn còn đó, không mất đi
trong quá khứ, nó sẽ không phải là thời gian ; nó sẽ là vĩnh cửu. Vậy, nếu hiện tại muốn là
thời gian, phải mất đi trong quá khứ, thì làm sao chúng ta có thể khẳng định rằng nó cũng
có mặt, khi mà lý do duy nhất của sự có mặt này chính là sự không còn nữa ? Như vậy, theo
Augustin, không hề có 3 loại thời gian (quá khứ, hiện tại và tương lai), mà chỉ có 3 thể của
thời gian, đồng thời có mặt trong ý thức con người. "Cả 3 thể của thời gian đó đều có mặt
trong ý thức, và tôi không thấy chúng ở nơi nào khác". Ông cũng nêu lên một câu hỏi mấu
chốt : "Làm sao tôi có thể vừa có mặt trong hiện tại, vừa có đủ tầm nhìn để thấy rằng thời
gian trôi qua ?".
Đối với Hegel, thời gian có ba kích thước : 1. quá khứ, là sự hiện hữu như bị xóa
bỏ, như không có mặt ; 2. tương lai, là sự không-có-mặt, nhưng tất định có ; 3. hiện tại, là
2
sự trở thành lập tức, và sự kết hợp của hai cái trên. "Chỉ có thời gian khi có lịch sử , tức là
có sự hiện hữu của con người... Con người ở trong thời gian, và thời gian không có ngoài
con người ; do đó con người chính là thời gian và thời gian chính là con người".
Thời gian cũng có thể bao gồm tất cả. Đó là quan điểm của Bergson, người đã xây
dựng nên một triết lý hoàn toàn dựa lên thời gian. Đó không phải là thời gian của khoa
học, của vật lý, của đồng hồ, không phải thời gian được đo tính, phân tích, mổ xẻ, chuyển
đổi thành không gian mà là thời gian được con người sống và cảm nhận. Thời gian thực sự
là thời gian của chiều sâu tâm hồn, một khoảng thời gian có bề dày, co giãn linh động,
mang tới những cảm giác mạnh mẽ, có chất lượng và không thể thay bằng số lượng. Đó là
một dữ kiện trực tiếp của ý thức, vượt khỏi ngôn từ, lý luận, và chỉ có thể cảm nhận bằng

trực giác. Đối với Bergson, "Thời gian là sáng tạo, hoặc không là gì hết". Ông cho rằng
có sự phân biệt thời gian vật lý và thời gian tâm lý. Nhờ thời gian tâm lý mà con người
nhận thức được thời gian vật lý. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà nghiên
cứu văn học nghệ thuật bởi nó đã chỉ ra sự khác biệt của thời gian trong nghệ thuật và thời
gian trong các lĩnh vực khác, chạm tới vỉa tầng tâm lý, vấn đề nhận thức và vô thức …
G.Genette trên cơ sở luận giải của Bergson và nghiên cứu của bản thân đã đưa ra lí thuyết
thời gian – một trong những khám phá có giá trị của tự sự học kinh điển.
1.2. Lý thuyết thời gian của G. Genette
Khác với các nhà thi pháp học quan tâm đến thời gian của nhân vật, những sự kiện
trong tác phẩm, các nhà tự sự học đi sâu tìm hiểu thời gian của việc kể. Họ phân biệt thời
gian cốt truyện (thời gian được trần thuật) và thời gian chuyện kể (thời gian trần thuật).
G.Genette đã tìm ra “độ lệch văn bản thông qua mối liên hệ của hai lớp thời gian này”
(Trần Huyền Sâm). Dưới quan điểm tự sự học, ông đã định nghĩa thời gian như sau: “
Thời gian nghệ thuật là một chuỗi thời gian kép, có thời gian của cái được kể lại và thời
gian của truyện kể, tức là thời gian của cái được biểu đạt và thời gian của cái được biểu
đạt” (Sđd).
Lý thuyết thời gian của ông gồm 3 yếu tố chính: trình tự thời gian, tốc độ và tần số
Trình sự thời gian: trong truyện kể thường có độ sai lệch giữa thời gian trần thuật và
thời gian sự kiện. Độ lệch này được Genette gọi là thời sai được thể hiện qua một số dạng
như: đảo thuật (kể lại những sự kiện trước tình tiết đang kể), dự thuật ( kể lại những sự
việc xảy ra sau thời điểm “hiện tại” của câu chuyện); nội đảo thuật và nội dự thuật ( những
sự việc được kể lại hoặc dự báo nhưng vẫn nằm trong phạm vi thời gian của chuyện kể);
ngoại đảo thuật và ngoại dự thuật (những việc việc được kể lại hoặc kể trước nhưng nằm
ngoại thời gian của câu chuyện được kể).
Tốc độ: chỉ ra “mối liên hệ giữa khoảng thời gian có thể that đổi của các phần cả
câu chuyện với độ dài chính văn bản mà trong đó các phần truyện được kể lại (có nghĩa là
thời gian giả) (sđd). Để có thể khảo sát được tốc độ kể chuyện, Genette đã đưa ra phương
pháp “không gian hóa” thời gian tự sự, tức là căn cứ vào số lượng trang viết và thời gian
câu chuyện để tính tốc độ kể, nhanh hay chậm, tỉ mỉ hay lược thuật … Ông phân biệt 4
dạng thức cơ bản: lượt thuật, tỉnh lược, ngưng nghỉ, hoạt cảnh.

Tần suất: thể hiện “mối quan hệ tần số giữa truyện và cốt truyện”, gồm trần thuật
đơn nhất (sự việc xảy ra một lần và người kể chuyện trần thuật 1 lần), trần thuật trùng lặp
(trần thuật nhiều lần trong khi sự việc chỉ xảy ra 1 lần), trần thuật khái quát ( kể lại một
lần trong khi sự việc xảy ra nhiều lần).
3
3 yếu tố kể trên là những phương diện cơ bản nhất và cũng gần hoàn thiện nhất về
thời gian. Khảo sát thời gian trong tác phẩm theo hướng đề xuất của Genette các nhà
nghiên cứu có thể nắm bắt được những chuyển vận phức hợp, bóc tách được các lớp thời
gian, luận giải quan niệm thời gian, cách trần thuật, tư tưởng của tác giả … Bởi những
đóng góp kể trên mà Gernette được cho đánh giá là “người có quyền uy nhất” (từ dùng
của Phương Lựu) trong thời gian tự sự( Phương Lựu).
2. Thời gian trần thuật trong Âm thanh và cuồng nộ của William Faulkner
2.1. Đảo chiều thời gian trong trần thuật
Thời gian tuyến tính vốn chiếm ưu thế trong tiểu thuyết hiện thực thế kỉ XIX không
còn gây hấp dẫn với các tiểu thuyết gia thế kỉ XX. Trật tự niên biểu trở thành một cái nôi quá
chật hẹp đối với những cây bút có những khát khao cách tân mãnh liệt. Bởi vậy, họ thường kể
chuyện theo thời gian phi tuyến tính. Với kiểu trần thuật này, thời gian trong tiểu thuyết có sự
vênh lệch lớn so với thời gian hiện thực cuộc sống. Sự kiện bị đảo lộn, xới tung, những sự
kiện xảy ra trước được trần thuật sau và ngược lại, những sự kiện sau lại bị đẩy lên trước.
Thời gian trở thành một yếu tố co giãn, biến chuyển theo ý muốn riêng của tác giả.
Trong Âm thanh và cuồng nộ thời gian của câu chuyện chỉ diễn ra ở 4 ngày, được sắp
xếp trong 4 phần theo thứ tự đảo lộn.
Phần I: Ngày 7/4/1928
Phần II: Ngày 2/6/1910
Phần III: Ngày 6/4/1928
Phần IV: Ngày 8/4/1928
Trong mỗi phần lại có sự nghịch biến của thời gian. Phần I, câu chuyện được kể lại bởi
người kể chuyện đồng sự Benjy. Đây là một người có vấn đề về trí năng, nhận thức cuộc sống
chủ yếu bằng cảm quan, cảm giác, luôn có xu hướng trốn tránh thực tại, những nỗi đau khổ.
Nhân vật xưng tôi này đã kể câu chuyện của mình trong vòng một ngày nhưng thời gian mở

rộng về quá khứ đến 30 năm. Benjy cảm nhận thời gian qua kích thích và liên tưởng. Những
sự kiện xảy ra trong thời hiện tại tác động và cảm giác của nhân vật khiến nhân vật liên tưởng
đến quá khứ, cộng với khiêm khuyết trí năng của nhân vật khiến thời gian trần thuật bị đảo
chiều liên tục. Như trong phần mở đầu của câu chuyện, khi chui qua hàng rào bị vướng đinh,
Benjy bất chợt nhớ lại lúc Caddy gỡ rào cho mọi người chui qua. Thời gian hiện tại lập tức
lùi xuống nhường chỗ cho thời gian quá khứ. Tiếp đến, sau một loại những hồi tưởng, nhân
vật lại trở ngược về hiện tại. Những liên tưởng không định trước kéo nhân vật đến những thời
khắc tiếp sau sau đó. Khảo sát phần này, chúng tôi nhận thấy có khoảng 50 mảng thời gian
trong đó có 25 mảng thời gian hiện tại, 23 mảng thời gian gắn với hình ảnh Caddy, 8 mảng về
đám ma bà nội. Thời gian được trần thuật được gói gọn trong vòng 1 ngày nhưng thời gian
trần thuật mở rộng biên độ đến 30 năm. Trong 30 năm ấy lại có sự phân mảng hiện tại, quá
khứ gần và quá khứ xa xen lẫn nhau trong dòng chảy tâm thức hỗn độn của nhân vật.
Nếu như Benjy là một kẻ khùng điên thì vị thế của anh trai Quenti lại khác, là một sinh
viên đại học Harvard. Bởi thế lối kể chuyện của nhân vật này luôn có hạt nhân hợp lí và triết
lý. Câu chuyện của Quenti cũng gói gọn trong 1 ngày với việc buổi sáng Quenti nghỉ học
lang thang đi mua 2 chiếc bàn ủi, gặp một đứa bé bị oan sai, anh trở lại nhà trọ rồi đi tự vẫn.
Dòng tư tưởng của nhân vật luôn có sự xen kẽ giữa hiện tại và quá khứ. Khác với Benjy, cần
có sự kích thích, mối tương quan giữa sự kiện đang xảy ra và sự kiện trước đó để hồi cố,
Quenti luôn ở trong một tâm thế “tự gắn kết, tự xen kẽ”, đặc biệt là những đoạn nhớ về
4
Caddy. Sự xen kẽ chiều thời gian này xảy ra đậm đặc trong những sự kiện tiếp theo như gặp
cô bé đi lạc, trò chuyện với Spoade …
Sự trở đi trở lại của hình ảnh chiếc đồng hồ, thời gian đồng hồ chính xác có ý nghĩa
biểu tượng, nó như sự đối lập gay gắt của thời gian vật lí và thời gian tâm lý, thời gian chảy
trôi một chiều và thời gian đa chiều trong lối trần thuật của nhân vật.
Tương tự như vậy, sự đảo chiều thời gian trần thuật trong những phần tiếp theo của
tiểu thuyết xuất hiện liên tục. Ở phần cuối của tiểu thuyết, câu chuyện được thuật lại qua lời
của tác giả -người trần thuật dị sự, kể câu chuyện ở ngôi thứ 3. Câu chuyện được kể lại ở 4
thời điểm, thời gian buổi sáng, thời gian Disley đi nhà thờ, thời gian tìm kiếm và thời gian kết
thúc. Ở mỗi thời điểm, tốc độ kể chuyện có sự khác nhau, tốc độ đẩy nhanh khi kể về Disley

và giãn dần ra ở cuối truyện. So sánh với những phần trước, tốc độ kể ở phần này có chậm lại
do có nhiều yếu tố miêu tả. Sự thay đổi tốc độ trần thuật gắn liền với sự chuyển vai trần thuật
từ người kể chuyện đồng sự sang kể chuyện dị sự.
Như vậy, thời gian trong tác phẩm luôn có sự đảo chiều từ cấp độ khái quát (sự sắp xếp
các phần) đến cấp độ cụ thể (trong từng phần), đảo chiều theo lối dịch chuyển xoay vòng giữa
hiện tại và quá khứ. Điều đặc biệt là trong trật tự trần thuật chỉ có hồi cố chứ không có dự
thuật.
Bởi sự đảo chiều phức hợp như vậy mà các nhà nghiên cứu thường ví Âm thanh và
cuồng nộ như “một bản giao hưởng trường phái ấn tượng, mà các chủ đề xuất hiện, biến mất,
tái hiện, rồi lại biến mất cho đến khi bùng nổ trọn vẹn”.
2.2. Đồng hiện thời gian
Một trong những yếu tố khiến cho nghệ thuật luôn hấp dẫn con người trong suốt hành
trình dài hơi của sự hiện tồn chính là sự sáng tạo vượt lên giới hạn của hiện thực. Nếu thời
gian trong cuộc sống thực luôn có hạn độ nhất định thì thời gian trong truyện kể có thể được
mở rộng đến tận cùng nhờ vào kĩ thuật đồng hiện thời gian. Theo Đặng Anh Đào, “trong
dòng tâm tư, quá khứ, hiện tại, tương lai xuất hiện cùng một lúc, không bị ngăn cách, liên tục
như một dòng chảy, đó là hiện tượng mà người ta gọi là thời gian đồng hiện”. Nhắc đến thời
gian đồng hiện không thể không kể M. Proust và kĩ thuật dòng ý thức không thể bỏ qua chủ
soái Jame Joice. Người kế tục xuất sắc của hai tên tuổi lớn kể trên, Willam Faulkner đã vận
dụng sáng tạo cả hai thành tựu trên vào trang viết của mình.
Trong tác phẩm này, Faulkner chủ yếu tổ chức thời gian đồng hiện theo kí thuật dòng ý
thức. Ở phần I của tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ, William Faulkner tập trung vào dòng
độc thoại của Benjy. Cảm nhận cuộc sống thông qua những giác quan, Benjy chưa bao giờ
nghĩ, nhận thấy mà chỉ nghe, ngửi, thấy … Bởi sự cảm nhận hoàn toàn dựa vào cảm giác như
vậy mà câu chuyện được nhân vật kể lại luôn có sự xáo trộn. Các sự kiện không được định vị
một cách trọn vẹn mà nó luôn vỡ ra. Benjy đặt những sự kiện xảy ra trước (đám ma) và sự
kiện xảy ra sau (đám cưới) đặt ngang hàng nhau. Trong cách nhìn của nhân vật, hai sự kiện
đó đồng đẳng, đều gợi lên những kích thích tri nhận như nhau. Thời gian đồng hiện còn thể
hiện rõ qua phần trần thuật của Quenti. Ở đoạn kể lại cuộc gặp gỡ với 3 đứa bé qua đường,
Quenti đã chuyển dịch liên tục sự kiện xảy ra ở thời điểm đang trần thuật sang sự kiện trong

quá khứ - cuộc hội thoại của Quenti và Caddy.
“Mình đến xưởng máy bơi đi”, đứa thứ ba nói. Một lối nhỏ rẽ ngang cạnh vườn quả.
Đứa thứ ba chậm bước rồi đứng lại. Đứa thứ nhất vẫn đi, những đốm trăng trượt trên chiếc
5

×